← Quay lại trang sách

Đâu Chỉ Là Trò Chơi

Sanh quyết định quay lại chùa một chuyến. Không có ý tu nhưng chắc là sẽ xin ở chơi chừng dăm ba bữa. Lâu lắm rồi, cũng dễ đến chục năm không về lại ngôi chùa nơi anh từng cải nghiệp. Chừng ấy thời gian, có đôi khi anh muốn về thăm sư thầy, thăm lại chốn xưa chùa cũ với cây si già trăm tuổi. Nhưng Sanh cứ nấn ná, ái ngại, anh tự thấy mình phạm phải những lỗi lầm đến nỗi không dám nhón chân tới cửa thiền.

1.

Gương mặt già hơn tuổi và cách nói chuyện dè chừng, dễ dàng đoán ra Sanh có một nửa cuộc sống ở bên trong. Giống như câu kinh là thứ thần chú, chỉ phơi phần xác chữ cho tín đồ đọc, còn lại cất giấu đi sự linh nghiệm nhiệm mầu. Con người là một câu kinh, có phần nổi phần chìm. Ai sống phần nổi thì dễ như đọc thuộc làu làu kinh, ai sống phần chìm thì mới đích thị là người ngộ kinh. Sanh đã quên hết kinh kệ, chỉ nhớ được mấy câu niệm nam mô, nhưng ít khi anh dùng tới. Đời cứ bảo Phật tại tâm, không cần tới chùa chiền. Sanh không phải hùa theo đời để đinh ninh có tam bảo trong mình. Anh nghĩ Phật ở chùa, nếu có Phật ở tâm chắc người ta không quái quỷ hư đốn đến thế. Cái điều Sanh ngẫm được ấy, nó chẳng phải đâu xa, chính từ anh mà ra. Nếu có Phật tại tâm thì anh đã không để đời mình trôi nổi theo những bon chen giành giật, những gian xảo lật lường. Và đó là lý do dù đã thành đạt trong cương vị giám đốc, Sanh luôn thấy chênh chao như đứng bên một mỏm đá cheo leo trên đỉnh núi, nhất cử nhất động họa sẽ xảy ra khôn lường.

Năm ngày nữa Sanh sẽ dự một phiên đấu thầu lớn, gói thầu xây dựng đập ngăn nước đầu nguồn chống lũ. Công trình dự kiến thực hiện trong vòng ba năm. Đấy là một gói thầu béo bở mà rất nhiều nhà thầu mon men muốn xơi. Nhưng ở đời cái gì dễ ăn đều dễ dính độc. Một tháng nay Sanh tất tả “chạy hành lang”, liên lạc với chủ đầu tư và các bạn thầu cạnh tranh. Anh bỏ ra một khoản kha khá tiền lót tay để gói thầu được về mình. Nếu chuyến này Sanh giật được thầu, thì anh sẽ cứu công ty thoát khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nửa năm nay anh đã phải cho ba kỹ sư nghỉ việc vì không có lương trả cho họ. Hai chục tay thợ hồ trung thành với Sanh mấy năm rồi, thế mà anh cũng phải dứt lòng bảo họ đi làm chỗ khác vì công ty không có việc. Gói thầu lần này lợi nhuận cao, nhưng nó sẽ là con dao hai lưỡi bởi việc xây dựng đập ngăn nước không dễ ăn. Chỉ cần sơ suất là ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân nơi vùng cửa gió. Báo chí đang làm ầm lên chuyện mùa lũ vừa rồi, một đập nước mới hoàn thành chưa đưa vào nghiệm thu đã bị vỡ. Người ta nhận thấy trong mớ bê tông có độn rác và gỗ mục. Năm ngày nữa đóng thầu, khoảng thời gian không phải quá lâu, nhưng Sanh chẳng nôn nóng đôn đáo, những gì cần làm anh đã giải quyết xong cả. Lúc này anh cần yên tĩnh, cần để đầu óc mình thoát khỏi những toan tính bạc tiền. Và anh quyết định trở về chốn xưa chùa cũ, nơi ấy anh đã sống cải nghiệp một thời gian trong ấu thơ, nơi ấy không dính dáng đến bạc tiền, chỉ có tiếng chuông và những hồi kinh.

Trời sang mùa đông, chớm lạnh. Anh khoác thêm áo vét choàng ngoài. Nhưng khi gần đến cửa chùa thì anh cởi áo vét ra, ném vào ô tô, chỉ đánh độc bộ áo quần sơ mi vải rồi rảo bộ lên chùa. Hai chục năm về trước, anh là điệu Sanh với áo nâu, đầu cạo trọc, dép nhựa đơn sơ. Hình ảnh ấy quay về nhắc nhủ anh phải giản dị khi tới đây, nếu không muốn mình bị chênh ra trên khoảng sân ấu thời.

Sanh bước qua cổng. Hai chú tiểu đầu trọc đang chơi bi vòng ở sân. Một chú nheo mắt nhắm bắn, hòn bi vừa rời tay lăn nhanh đến chạm cái trốc vào hòn kia. Sanh kêu lên “trúng rồi”, cứ như thể anh là điệu Sanh ngày nào đang đánh bi với điệu Năng. Hai chú tiểu đưa mắt lên nhìn Sanh rồi lại tiếp tục trò chơi. Ở chùa, người ta đến viếng hương hoặc vãn cảnh là chuyện bình thường. Đến đây chả có ai là khách để mà phải đón tiếp, rước mời.

Anh bước đến gần cái vòng vạch trên đất, hỏi:

- Có thầy ở trong không chú?

Một chú đáp:

- Dạ có, thầy con đang ở trong phòng. Chú cần gặp thầy con à?

Sanh gật đầu.

- Nhờ chú thưa với thầy là có người đệ tử lâu ngày muốn gặp.

Trong lúc chú tiểu chạy vào chùa thì Sanh đi dạo ngoài sân. Anh đến chỗ cây si, ngước đầu lên nhìn những tán lá, trông chúng bất động như đang thiền. Cái ghế đá kê ở dưới gốc cây nay đã cất đi. Sanh nhớ hồi còn là chú tiểu, có lần Sanh thấy một cặp trai gái ngồi ôm nhau ở đây. Rồi thầy bắt anh khoác giỏ mây nhặt lá. Lại có lần anh trèo lên cây si trốn thầy vì sợ bị bắt vào ngủ trưa.

Lát sau chú tiểu chạy ra.

- Thầy con bảo mời chú vào trong tịnh thất.

Sanh bước vào. Căn phòng ngày xưa anh ở chung với sư thầy, nay đã được bố trí lại. Cất bớt một cái giường, đặt vào thêm một bộ bàn gỗ uống nước. Và vị sư Sanh gặp, không phải là sư thầy của anh mà là một vị sư trẻ, khoảng chừng bốn chục tuổi đời.

Sanh chắp tay vái chào, cung cách ấy anh chưa quên. Vị sư xòe bàn tay ra mời khách ngồi ở ghế. Thầy pha trà, nói:

- Nghe chú tiểu biểu có khách quen. Tôi cũng vui. Nhưng chắc anh định tìm sư Huệ Siêu?

Sanh thầm đoán có chuyện gì đó, có lẽ sư thầy của anh không còn ở đây. Nhưng Sanh không nói gì, anh nhấp chén trà và chỉ gật khẽ đầu.

- Thầy Huệ Siêu viên tịch đã gần một năm nay. Tôi được giáo hội ủy về đây trụ trì. Người mới việc mới, thú thật chưa quen hết. Nhất là những người vốn có thiện duyên với chùa. Tôi rất muốn gặp họ để tìm hiểu thêm.

Sanh lặng đi trong chốc lát. Sư thầy của anh đã không còn nữa. Anh tự trách mình lâu nay không lui tới chùa thăm thầy. Để đến khi quay lại thì thầy đã viên tịch. Hồi đó thầy dạy anh ở đời được mất như người Tái thượng, còn hết âu cũng là lẽ vô thường. Đừng nên buồn nhiều khi những gì ta vốn gắn bó lâu nay bỗng hóa ra không. Lời thầy dạy anh khắc ghi, nhưng cái tin thầy mãi mãi ra đi đến bất ngờ quá, như một cơn gió bất ngờ ập tới khiến anh xốn xang trong mắt. Sanh ngửa đầu lên, thít mũi một cái ngậm ngùi. Anh xin phép vị sư rồi đứng dậy đi vào trong nhà hậu chẩm thắp nhang cho thầy.

Di ảnh thầy đặt ở bàn thờ giữa. Anh kéo rèm nhiễu đỏ lên quá đôi mắt trong ảnh. Chân dung vị sư khả kính với vẻ uy nghi thanh thoát. Anh nói thầm với chính mình: “Thầy ơi con đã về đây. Con về để sám hối với thầy những tội lỗi bấy lâu”. Mắt thầy rói lên một nụ cười. Bức ảnh vẫn chỉ là bức ảnh, yên ắng không hề lay động. Nụ cười hiền của thầy vẫn nằm trên khung kính. Anh vái thầy thêm một lạy nữa rồi quay ra thư phòng. Lúc ấy anh nghĩ, sẽ chẳng cần phải giới thiệu về mình nữa. Thầy đã về cõi A Di Đà cực lạc, chẳng còn ai ở ngôi chùa này biết đến anh. Và anh không muốn nhắc lại quãng thời gian anh cải nghiệp.

- Chắc đã lâu anh không tới chùa? – Vị sư hỏi.

Sanh đáp:

- Dạ đúng. Công việc bận quá thầy ạ. Trước thỉnh thoảng con vẫn hay lui tới.

- Tôi về đây lúc thầy Huệ Siêu ốm bệnh. Hai tháng cuối, thầy chỉ ăn được cháo, nhưng trí tuệ minh mẫn. Đợt rét, thầy đi. Nhẹ nhàng thanh thản anh ạ.

Sanh vẫn áy náy, giá anh tranh thủ được công việc, lên đây ở với thầy những ngày sau rốt đời người thì tốt biết mấy. Vị sư nói thêm:

- Mấy ngày cuối cùng, thầy tỉnh lắm. Ngủ thì thôi chứ hễ thức là mắt sáng lên như người mạnh khỏe. Hình như là trông chờ một ai đó. Thỉnh thoảng thầy gọi Sanh, Sanh.

Sanh mím chặt môi để không bật ra nguồn cảm xúc đang sục sôi trong mình. Anh sợ lộ ra cái tung tích điệu Sanh. Nghề làm kinh doanh đã cho anh kiểu đối xử lạnh lùng với cảm xúc. Nếu để cho đối phương nắm rõ cái tâm thế luống cuống của mình, thì họ sẽ hạ gục anh ngay trên cuộc đàm phán thương thỏa. Sanh chưa kịp nói gì thì vị sư tiếp lời:

- Anh có biết người tên Sanh không? – Vị sư hỏi.

- Dạ... không – Sanh đáp gỏn lọn, khi đã tiết chế được cảm xúc.

- Nghe nói đấy là một chú tiểu mà thầy rất chiều. Nhưng đã hoàn tục lâu rồi.

- Ai nói vậy thầy? – Sanh hỏi lại.

- Cô Tằm cô ấy nói, có vậy thôi.

- Có phải cô Tằm bán vải?

- Đúng cô ấy. Anh có biết sao?

Sanh đáp vụng về, kiểu muốn giấu giếm.

- Dạ. Hồi trước cũng có biết sơ sơ. Bây giờ cô ấy còn bán vải ở chợ không thầy?

- Còn bán vải. Nhưng ở ngoài chợ tỉnh. Hồi thầy ốm, cô ấy hay tới chăm nom. Nhưng một năm nay thấy vắng. Chắc cũng do bận bịu công việc.

Sanh nói chuyện với vị sư một lúc, anh cố ý lảng tránh việc nhắc lại điệu Sanh. Vị sư cũng không đề cập thêm nữa. Có lẽ thầy không quan tâm lắm chuyện đó, một chú tiểu đã từng ở chùa trước khi thầy về trụ trì, chẳng phải lưu tâm nhiều.

Chợt nhớ tới Năng sư huynh, Sanh hỏi:

- Thế thầy có biết chú Năng bây giờ ở chùa nào không?

- À. Đấy là đại đức Thanh Nhơn. Lúc tôi về đây cũng không gặp thầy ấy. Nghe nói là rời chùa đã khá lâu, sư thầy Huệ Siêu cũng không biết được. Thầy ấy đi chẳng báo cho ai hay.

Vị sư giữ Sanh ở lại dùng cơm trưa với nhà chùa. Nhưng Sanh cám ơn rồi xin hẹn lần khác. Anh đã không thực hiện được dự tính ban đầu là ở lại chùa chơi dăm ba bữa cho đỡ căng thẳng rồi mới quay về để dự phiên đấu thầu. Lúc tiễn Sanh ra cổng, vị sư nói:

- Thỉnh thoảng anh lên đây chơi cho vui. Kể từ khi tôi về chùa trụ trì, ít gặp được người quen của sư Huệ Siêu. Con người mình lạ lắm, cứ hễ đến chùa mà không gặp được sư thầy từng quen thì không lui tới nữa. Cửa thiền, ai giữ cũng vậy thôi, đúng không anh?

Sanh đáp dạ, chắc là do người ta bận công chuyện không tới đó. Có dịp con sẽ ghé viếng Phật và thỉnh giáo thầy.

2.

Sanh đi ra khỏi cổng chùa, rảo bước như thể chạy trốn. Một cuộc chạy trốn với quá khứ. Anh không muốn bất kỳ người nào ở đây biết anh từng là điệu Sanh, từng được sư thầy cưng chiều, thế mà đến khi thầy ngã bệnh, những phút cuối cùng ú ớ gọi tên người đệ tử yêu trìu nhưng chẳng gặp được.

Sư thầy muốn gặp anh chỉ vì nhớ một người phương xa chăng? Như kiểu người ta sống hết một đời, đến lúc gần đất xa trời lại thèm ngóng đứa cháu từ ngàn dặm trở về, chỉ để nó khóc rống lên một hồi tiễn biệt. Không phải, sư thầy không đơn giản vậy đâu. Anh đã từng sống với thầy ba năm, và ký ức thuở đầu đời in sâu vào trong anh cho đến lúc này, rằng sư thầy là một người ít khi bộc lộ ra bên ngoài. Có nhiều chuyện thầy giấu giếm rất kỹ. Chẳng hạn quá khứ của thầy, vì bị cấm đoán tình duyên mà thầy bỏ đi tu, rồi chuyện ông cụ thân sinh muốn sư thầy trở về lấy vợ để sinh cháu đích tôn. Vân vân, những chuyện hệ trọng đại loại như thế. Chẳng ai ngoài điệu Sanh được biết. Lẽ nào sư thầy còn có một điều gì muốn nói với Sanh? Một bí mật cuối cùng, hệ trọng hơn tất cả, phải đến lúc chẳng còn gì níu kéo người ta mới dám nói thật. Sanh đứng thần ra ở chỗ chiếc xe ô tô đỗ, cứ nghĩ chuyện sư thầy gọi tên mình lúc lâm chung, càng khiến anh vừa muốn khóc, vừa tò mò.

Anh đánh xe quay về hướng tây, phía chợ tỉnh. Có lẽ cô Tằm bán vải sẽ cho anh biết lời trăn trối của sư thầy. Nhưng nếu cô Tằm không nắm được lời trăn trối nào của sư thầy thì cũng chả sao. Đằng nào anh cũng rất muốn gặp lại cô bán vải, người đã chăm chút anh hồi ấy, từng sắm cho anh áo ấm mặc mùa đông, tắm rửa cho anh những ngày hè, rồi hái cỏ nhọ nồi chắt nước cho anh uống khi bị sốt phát ban. Cô đã từng như một người mẹ của điệu Sanh. Anh cũng rất biết ơn cô. Đến lúc lớn lên Sanh mới phát hiện ra một điều, cô không có con cái nên đã dành hết tình yêu con trẻ cho điệu Sanh. Thế mà dễ đến hai chục năm rồi anh không đoái hoài đến cô. Thỉnh thoảng mấy lần ghé chùa, anh chỉ thăm sư thầy, có hỏi đến cô, nhưng chẳng gặp được. Ở đời, mang ơn rồi phụ ơn, phủi áo ra đi là chuyện thường tình. Cái máy cát sét trong ô tô rè rè hát lên thứ nhạc vàng não nề ướt sườn sượt mà anh vẫn nghe, “xưa trắng tay gọi nhau bằng hữu, giờ giàu sang quên kẻ tâm giao”. Sanh với tay tắt ụp cái máy hát, giọng ca sĩ nghẹn đứ đừ.

Sanh vào chợ tỉnh, đi lên tầng hai, chỗ hàng áo quần vải vóc. Anh đi lướt qua các gian hàng trưng vải chẹt cả lối. Anh không nhìn vải, chỉ nhìn người. Qua hết lượt quầy đầu tiên thì anh gặp được cô. Sanh nhận ra ngay, cô có già đi nhưng nét mặt ở tuổi ba mươi hồi ấy và năm mươi bây chừ chẳng thể khác chi nhiều. Chỉ có Sanh là khác, khác một trời một vực. Từ cậu bé mười tuổi trọc lóc, đến chàng trai ba mươi tóc rẽ đường ngôi chỉn chu, kể đến cả bố mẹ cũng chả nhận ra được, nói chi người sơ quen.

- Mua vải gì chú ơi? – Cô hỏi lúc Sanh đã áp người vào liếp vải ngoài cùng, vừa đưa cái thước gỗ san qua những tấm vải – Vải áo hay vải quần đều có cả đấy.

Sanh nhìn cô, biết chắc cô Tằm đây rồi, cái giọng nói âm ấm khàn khàn ấy không lẫn vào đâu được. Song, anh chưa muốn để cho cô biết mình là ai.

- Vải lam cô.

- Loại may áo đoàn sinh hay may áo tràng?

- May áo cho điệu Sanh - Anh mỉm cười đáp.

Cô bất ngờ quay qua, nhìn chằm chặp vào Sanh. Rồi thốt lên:

- Phải...?

- Điệu Sanh. Con đây cô.

Cô Tằm quẳng cái thước xuống mớ vải. Đứng thần ra không biết nói gì. Quá bất ngờ và quá nhiều cảm xúc ập đến một lần. Tay cô run rẩy, luống cuống mà vụng về, không cử động gì được, mắt ngấn ra chực khóc, miệng ríu lại lát sau mới kêu lên được hai tiếng: “Trời đất”.

Sanh phụ cô Tằm đóng quầy. Hôm nay nghỉ sớm, bỏ luôn buổi chợ chiều. Hai chục năm gặp lại, sá chi một buổi chiều. Cô bán hàng bên cạnh nói với qua: “Con rể đấy hả bà Tằm?” Cô Tằm cười đáp: “Con ruột luôn chứ rể riếc gì”. Sanh mời cô Tằm đi ăn trưa để nói chuyện, lâu rồi cô cháu không gặp nhau. Cô Tằm hỏi, miệng cười đáo để:

- Ăn chay hay mặn?

Sanh đáp:

- Sơn hào hải vị đi cô.

Nhưng cô Tằm bảo:

- Nói vui vậy thôi, về nhà cô cũng được, về cho biết nhà luôn. Cháu sẽ thấy cuộc sống của cô khác nhiều đấy.

Quả đúng như cô nói. Nhà cô ở ngay mặt phố. Cô chuyển tới đây cũng được mười lăm năm rồi. Bên ngoài có cổng sắt đóng, phía trên lầu vắt xuống lớp cây dây leo như lưới. Cô Tằm nói trồng cho đỡ bụi đường. Bên trong nhà, đồ đạc cũng khá sang trọng, cái bếp ăn nằm kế sau phòng khách. Bước vào đã thấy ngay. Nó gợi cho người ta cảm giác ấm áp.

- Cô đã đi bước nữa, cách đây mười năm – Vừa bưng đĩa hoa quả từ sau bếp ra, cô Tằm vừa nói – À, mà chính xác phải nói là rổ rá cạp lại.

Sanh cũng không bất ngờ lắm khi biết tin cô lấy lại chồng, bởi ngay khi bước vào nhà, anh đã hồ nghi đây là một tổ ấm. Anh nói:

- Được như thế này thì không phải rổ rá cạp lại.

- Thế sao?

- Rồng phượng gặp nhau.

Cô Tằm cười giòn, rất khoái câu nói dí dỏm của Sanh.

- Hai chục năm gặp lại. Cháu chững chạc quá. Nhưng vẫn đáng yêu như xưa.

Cô kể vắn tắt chuyện cho Sanh nghe. Cái gì quan trọng nhất, cần thiết nhất và thỏa mãn sự tò mò của người đối diện nhất luôn được người ta đem ra nói đầu tiên, khi gặp lại sau quãng thời gian dài. Đấy có lẽ là chuyện gia đình. Cô gặp chú cũng là cái duyên. Vài lần chú đến chùa, hai người quen nhau, thấy hợp nhau, bù đắp được cho nhau nên tính chuyện về ở với nhau thử coi. Đời người mà, cõng nhau qua được quãng nào hay quãng đó. Hồi ấy cô nghĩ đơn giản vậy. Ai ngờ cũng tốt số. Duyên đến muộn mà keo sơn. Lúc đó vợ chú ấy mới mất, chú đem bài vị vợ lên gửi trên chùa độ siêu. Hai người được một bé gái năm tuổi, kháu lắm. Con bé Thương. May mà nó cũng quý cô. Bé Thương kém cháu năm tuổi, giờ nó đang là sinh viên trường sư phạm. Dăm bữa nửa tháng lại gọi điện về bảo con nhớ mẹ. Cô mừng lắm. Không có con cái, bất ngờ có đứa chả máu mủ ruột rà lại quý mình như mẹ.

Nghe chuyện của cô, Sanh mừng, vậy là cô đã tìm được hạnh phúc của mình. Đúng thật cuộc đời là vô thường, không đó mà có đó. Sanh đang nghĩ ngợi lung tung thì cô Tằm nói tiếp:

- Bây giờ cô rất tin luật nhân quả. Nếu cô không lên chùa, thì chẳng có được ngày hôm nay. Cái thiện duyên góp nên thiện nghiệp. Tam bảo đã phù hộ độ trì cho cô.

Sanh ngó lên bàn thờ. Tượng bồ tát Quán Thế Âm tĩnh tại an nhiên. Hai bên bàn thờ có hoa tươi và cặp đèn điện. Anh chợt giật thột, thế mà ở nhà mình, anh chẳng thờ tự gì cả. Cũng bởi khách khứa làm ăn của anh ra vào luôn, trong đó có những ông sếp to vốn là người không tôn giáo nên anh ngại thờ tượng Phật.

- Khi cô lấy chú, sư thầy có nói gì không? – Sanh hỏi, rồi bất chợt thấy mình vô duyên. Sao lại đi hỏi một câu dở ẹc như thế. Chuyện cô Tằm lấy chồng thì có liên quan gì đến sư thầy mà anh lại đem ra hỏi vớ vẩn. Thế là anh muốn chữa thẹn, “ý cháu là...”, đến đó thì anh không thể diễn tả được ý mình nữa.

- Cô hiểu ý cháu. Nhưng không sao đâu. Cô cũng muốn nói thêm chuyện này. Hồi đó cháu nhỏ nhưng chắc cũng có biết. Người ta đồn là cô với sư thầy có chuyện vướng tơ lòng. Cô biết lắm chứ. Đã nhiều lần cô định không lên chùa nữa, để khỏi làm liên lụy đến phẩm đạo của thầy. Nhưng thầy khuyên cứ bỏ ngoài tai thị phi, con người ta sân si buột miệng vậy thôi. Rồi họ sẽ hiểu hết.

Sanh chăm chú lắng nghe, đầu gật nhẹ như đã rõ. Anh lái qua chuyện khác.

- Chú làm ở đâu cô?

- Chú ở bên ngành điện lực. Nhưng bữa nay ông đi công tác, hai ngày nữa mới về. Tiếc nhỉ. Nếu chú cháu gặp được nhau thì hay.

Sau khi han hỏi chuyện gia đình. Họ lại quay về chuyện nhà chùa, nơi cô cháu có chung những kỷ niệm. Sanh cũng rất muốn biết những ngày cuối cùng của sư thầy. Vì sao thầy cứ gọi tên anh, liệu có phải như anh nghĩ, có điều gì thầy muốn nói với anh chăng. Nhưng cô Tằm dường như chưa muốn nhắc đến sư thầy.

- Này, cô nhớ hồi đó Sanh rất hiếu động và ham chơi. Hở ra một tí là tót chạy. Có lần cháu lấy cái trứng gà khiến con gà mẹ kêu toang toác cả buổi chiều.

Sanh bật cười.

- Chuyện đó cô vẫn còn nhớ sao?

- Nhớ chứ. Cô nhớ như in tất cả. Lại có bữa cháu và chú Năng đi học, rủ nhau vào quán ăn mặn. Sư thầy biết được, quở điệu Năng rất lâu.

Sanh đã nhớ ra rồi, đó là kỷ niệm cuối cùng với điệu Năng. Cái chiều hôm đó trời cũng lành lạnh thế này. Khi đi ngang qua quán ăn gần chùa, nồi thịt giò hầm bốc khói ngùn ngụt, thơm lựng. Đương lúc đói, hai đứa nuốt nước bọt rồi đánh liều vào quán ăn. Điệu Năng bảo Sanh đừng mách thầy nhé, tui ăn một lần này thôi. Nhưng lúc về chùa, Sanh cứ tấm tắc khen cháo lúc chiều rất ngon. Thế là sư thầy biết điệu Năng cũng lén ăn mặn, trái với phép của thầy.

Sau bận ấy, Sanh rời chùa về nhà, vài lần đến chùa có gặp được điệu Năng. Nhưng rồi Năng đã bỏ đi đâu cả chùa không ai hay. Giờ nhắc lại chuyện điệu Năng, Sanh rất muốn biết tin tức về huynh ấy.

- Cô có biết anh Năng đi đâu không? Nghe nói đã lên hàng đại đức.

Lặng một lúc, cô Tằm mới đáp:

- Cô biết. Chỉ có cô biết rõ chú Năng đi đâu. Cô thấy xấu hổ vì giấu hết tất cả mọi chuyện với sư thầy.

3.

...

Trời chiều ngả tối. Sau khi dọn quầy vải, cô Tằm đạp xe từ chợ về nhà, giữa đường thì xe bỗng xìu lốp, không còn một chút hơi nào. Cô đành dắt bộ xe đạp về. Ngang qua ngã ba, cô nhìn thấy một chàng thanh niên chừng hai mươi tuổi, mặc áo choàng màu xám, trùm kín đầu, chắc do lạnh. Trong nhập nhoạng hoàng hôn, cô chẳng nhìn rõ khuôn mặt người bên đường. Chàng thanh niên thoáng thấy cô đã quay mặt lơ đi. Cô Tằm dắt xe tới một đoạn, cảm thấy nghi nghi, cái dáng người quen lắm, mà cái áo gió người ấy đang choàng cũng rất quen. Cô gạt chân chống, chạy lại phía ngã ba. Chàng trai vừa bước đi được một quãng. Cô gọi với theo:

- Thầy Thanh Nhơn. Có phải thầy?

Chàng trai bước tiếp ba bước, rồi dừng, quay lại, cởi cái mũ trên đầu xuống. Cô Tằm đã đứng trước mặt chàng, cái môi sứt của điệu Năng rõ mồn một. Đúng là đại đức Thanh Nhơn. Quá bất ngờ, cô Tằm không kịp A Di Đà Phật để chào như mọi lần, chỉ hỏi.

- Thầy đi đâu mà lại ở đây?

Chàng không nói gì. Im lặng nghĩ, sao lại rủi thế không biết, tự dưng gặp người quen.

- Thôi bây giờ thầy về nhà tôi cái đã. Tối rồi.

Hôm đó chồng cô Tằm ở lại công ty để trực hệ thống điện. Chỉ có cô và bé Thương ở nhà. Bé Thương mới tám tuổi, ngó cái đầu trọc và miệng dị tật của thầy Thanh Nhơn, bé cứ sờ sợ. Cô Tằm nói với con, đây là sư thầy ở chùa, người quen của bố mẹ, không phải người lạ đâu.

Chàng quay sang chữa lại:

- Tôi, à... cháu hoàn tục rồi cô ạ. Đừng gọi đạo hiệu nữa. Cô cứ gọi là Năng cũng được.

Hoàn tục? Cô Tằm ngạc nhiên và sững sờ như mới nghe một chuyện động trời. Từ một đứa trẻ đỏ hỏn bị bỏ rơi trước cổng chùa, được sư thầy đưa vào nuôi nấng chăm bẵm. Rồi lớn lên, hai mươi năm gõ mõ tụng kinh, ăn chay học pháp, rèn giũa trong chốn thiền môn. Những tam quy ngũ giới, mười điều luật sa di, bát quan trai... đã hun đúc nên một con người tu sĩ. Chàng được phong hàng đại đức sớm vì sự rèn luyện chuyên cần. Bỗng dưng bỏ, bỏ hết tất cả là cớ làm sao. Chắc sư thầy sẽ buồn lắm khi đệ tử của mình, một đứa con thầy đã dồn bao nhiêu tình thương để săn sóc từ lúc lọt lòng cho đến trưởng thành lại dứt thầy ra đi. Mà đi đâu cơ chứ. Về giữa cuộc đời lắm phong ba, nhiều bon chen, đau khổ như bể muôn trùng.

Cô Tằm định hỏi lý do. Nhưng thôi. Cô là người trải đời, đã từng đau khổ vì tan vỡ hạnh phúc, cô hiểu cái hoàn cảnh của người khi đang yên ổn bỗng dưng tách đường ra mà đi, như cô từng phải cay đắng tách người chồng của mình để anh đi lấy người khác kiếm đứa con nối dõi tông đường. Cái hồi cô Tằm mới ly dị, rất nhiều người tò mò chuyện, gặp ai, cô cũng có cảm giác người ta đang nhìn mình dò xét. Có người tìm cách an ủi, nhưng càng an ủi càng làm cho cô đau, như xát thêm muối vào vết da đứt. Bây giờ cô cũng không muốn hỏi chú Năng, càng cố tìm hiểu lý do chỉ làm cho người ta mệt mỏi. Cô nghĩ đơn giản, có lẽ kiếp trước chú ấy còn nặng nợ ta bà nên kiếp này buộc phải sống giữa đời phàm.

- Vậy chú Năng định đi đâu? Có cần tôi giúp gì không?

- Cháu cũng chưa biết. Chỉ nhảy đại lên một chuyến xe rời khỏi chùa, đến chỗ ngã ba lúc nãy thì bước xuống. Cô đừng nói với sư thầy chuyện gặp cháu nghe.

Cô Tằm gật đầu. Chắc sư thầy sẽ lo lắng lắm đây. Cô nghĩ. Điệu Năng cải nghiệp xong đã về với gia đình. Cô thì đi thêm bước nữa và chuyển ra thành phố sống với chồng, phần vì việc bán vải ở chợ tỉnh bận suốt ngày, phần vì đường xa nên cũng ít tới lui nhà chùa. Bây giờ đến việc đại đức Thanh Nhơn cũng bỏ chùa mà đi.

Sáng hôm sau thức dậy, cô Tằm đã không thấy chú Năng đâu. Cô cũng chẳng nhọc công kiếm tìm, nghĩ bụng có khi như thế lại hay cho chú ấy. Giữ chú ở lại đây, cô cũng chẳng giúp được gì, khéo lại khiến chú thấy khó xử. Cô tin là chú Năng sẽ tìm thấy một con đường cho mình.

Buổi chiều cô về lại chùa. Quang cảnh vắng ngắt, tiếng điệu Sanh reo hò hôm nào đã bặt, hình ảnh chú Năng cần mẫn quét lá cũng không còn nữa. Sân chùa đổ một vạt lá si nằm chỏng queo phơi nắng.

Sư thầy thông báo đại đức Thanh Nhơn đi đâu hôm qua đến giờ chưa về. Cô Tằm cố tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng không quá vồn vã để khỏi bị lộ ra sự gượng gạo.

- Con nghĩ, có khi thầy Thanh Nhơn muốn đi tìm một con đường đạo cho riêng mình?

Nhưng sư thầy lắc đầu.

- Không có đâu. Tôi e là chú ấy muốn hoàn tục. Cũng không phải là điều quá bất ngờ. Tôi đã từng nghĩ sẽ có ngày Thanh Nhơn bỏ đạo. Dù cố gắng hết sức để hướng dẫn đệ tử, nhưng cái nghiệp chướng chú ấy còn nặng, mà cái đức của tôi chưa dày, căn duyên thiếu hụt, sự không thành cũng chấp nhận thôi.

Rồi thầy thở ra, vẻ tiếc nuối.

- Tôi chỉ lo, là lo chú ấy có chịu đựng nổi với những va đập ngoài kia không. Hai mươi năm ở chùa, đã quen với sự tĩnh lặng, đem cái tâm ra mài giũa là chính. Bây giờ về đời, phải lấy cái chân cái tay, đem trí khôn ra đọ với người ta. E là khó khăn. Như cánh chim giã từ đại ngàn để lao về ruộng đồng, gió sẽ khác gió ở rừng, thức ăn tổ ấm đều khác hẳn. Ban đầu sẽ có những luống cuống nhất định.

Cô Tằm không nói được thêm điều gì nữa. Vậy là thầy không trách đệ tử, ngược lại, thầy còn đem lòng thương chú ấy. Nếu thầy đã rộng lượng như thế, đã an tâm chấp nhận, thì cô cũng không nên nói ra chuyện gặp chú Năng làm chi nữa.

Ra về, cô dặn với sư thầy giữ gìn pháp thể, có tin tức gì về thầy Thanh Nhơn thì cho cô hay với. Dặn là dặn thế, nhưng cô Tằm biết sẽ khó có chuyện chú Năng liên lạc với thầy. Một khi đã bỏ ngang mà đi, dứt áo đoạn trường, người ta sẽ đeo đẳng mặc cảm. Nếu có gì, chắc chú Năng chỉ tin cho cô biết thôi.

Quả đúng như thế. Tháng sau cô Tằm nhận được thư chú Năng gửi về, không đề địa chỉ người gửi. Thư cho biết chú Năng đã tìm được việc làm khá ổn định ở một công xưởng trong Sài Gòn. Rồi thỉnh thoảng, những lá thư của chú ấy gửi về thăm hỏi, báo tin, kể chuyện cuộc sống mới. Cô Tằm đọc, cũng phấn khởi trong lòng, dù sao chú ấy cũng đã hòa nhập được với người ta. Cô muốn viết cho chú Năng thư phúc đáp, nhưng chịu, không thể lần ra được địa chỉ để gửi.

Sư thầy không có tin tức gì về người đệ tử. Cô Tằm cũng giấu hết chuyện thư từ một chiều của chú Năng. Nói ra, khéo chỉ làm sư thầy rộn lại chuyện đã qua. Mà cô đã hứa với chú Năng là không hở răng để lộ gì cả. Chú ấy nói sẽ có ngày cháu quay trở lại, lúc ấy sẽ cúi đầu chịu tội với sư thầy.

Năm sau, chú Năng báo tin đã lập gia đình. Vợ chú làm cùng công xưởng, chân cô ấy có tật, đi cà thọt nhưng chú không ngại. Thư chú viết về có trích một câu thơ của Tôn Nữ Hỷ Khương, “Chỉ có tình thương để lại đời”. Rồi vợ chú Năng sinh được một bé gái đầu lòng, có gửi ảnh về cho cô Tằm xem. Mặt đứa bé rất giống cha, chỉ khác là cái miệng không sứt như chú Năng, và chân tay lành lặn, không đi cà thọt như mẹ, âu cũng là phúc.

Thư gần đây nhất mà chú Năng gửi về cho cô Tằm, thông báo rằng bé gái của chú có duyên với tam bảo. Đưa bé đi chùa mấy lần chơi, nó cứ đòi ở lại. Và vợ chồng chú đã cho bé vào sống ở một ngôi chùa Ni trong thành phố. “Cháu nghĩ đấy là phúc phận cô ạ! Cũng mong cho bé đi được dài trên con đường đạo. Lúc ấy cháu cũng bớt áy náy với sư thầy. Và coi như nghiệp duyên của cháu được đền đáp”.

4.

Cô Tằm đưa bức ảnh bé gái con chú Năng cho Sanh xem. Cái chỏm tóc của chú tiểu ngồ ngộ, nó gợi nhắc cho Sanh rất nhiều. Phút chốc anh nhớ đến hình ảnh ngày nào của mình và điệu Năng. Bao nhiêu trò chơi ở sân chùa, mấy dạo cúi xuống nhắm bắn bi, cái chỏm tóc cứ xõa che lấy mắt. Rồi có lần giận hờn đuổi nhau, điệu Sanh túm được cái chỏm tóc của điệu Năng, cầm thế mà day đầu huynh. Nhưng Năng không chống lại, cứ để cho Sanh day chỏm tóc đến lúc nào hết giận mới thôi. Ngộ nghĩnh và hồn nhiên quá. Sanh cười mà rơm rớm nước mắt.

Trước khi ra về, Sanh muốn hỏi cô Tằm chuyện vì sao lúc lâm chung, sư thầy cứ gọi tên anh. Song, anh chưa kịp hỏi thì cô Tằm đã nói:

- Sanh này, trước khi thầy mất, cứ kêu cháu hoài. Có một điều thầy muốn gặp cháu để nói, nhưng rồi không gặp được. Và những phút hồi sinh cuối cùng, thầy rất tỉnh táo, đã nhắn lại với cô điều này.

Cô Tằm dừng lại, vẻ bối rối, kiểu như đang lựa lời.

- Dạ. Cô nói đi. Cháu cũng rất muốn nghe.

- Cô nghĩ là cháu đã trưởng thành, đủ để biết sự thật. Cha đẻ của cháu là một vị sư ở làng, người đã mất mười ngày sau khi cháu sinh ra. Ông nội và cha nuôi của cháu, vì thương mẹ cháu nên nhận về nhà, coi như con dâu. Và họ gửi cháu vào chùa là để cho cháu tránh khỏi tiếng đời dị nghị, khỏi mặc cảm tự ti, chứ chẳng phải cải nghiệp gì đâu.

*

Ngồi trên xe trở về nhà, Sanh nôn nao bao nhiêu cảm xúc, có buồn có vui, vừa khắc khoải vừa mãn nguyện. Một ngày, anh đã biết được rất nhiều chuyện. Cả một quá khứ dài cứ băng băng lội qua trí óc anh, gợi lại cho anh những xao xuyến. Sanh đã biết được sự thật về gốc gác của mình, nhưng anh không hề bị sốc mà tiếp nhận nó một cách thản nhiên.

Sanh dừng xe ở rìa đường, ngắm về ngôi làng ven đô. Một đám khói trắng lờ mờ bay lên phía sau nóc nhà, chắc đang chuẩn bị cơm chiều. Cạnh đó là mấy đứa trẻ nít chơi trò đá gà cỏ. Ai thua phải cõng người thắng đi một vòng. Chúng cười ran thích thú.

Anh nhìn chúng reo hò và nghĩ, cõng nhau đâu chỉ là trò chơi.