ĐÊM THỨ NHẤT
Kính gửi:
Ngài Ôn Gia Bảo,
Văn phòng thủ tướng
Bắc Kinh
Thủ đô nước Yêu chuộng Tự do Trung Hoa
Người gửi:
“Cọp Trắng”
Nhà tư duy
Kiêm doanh nhân
Ngụ tại trung tâm công nghệ và gia công thế giới
Thành phố Điện tử Giai đoạn 1 (rẽ vào từ Đại lộ Hosur)
Bangalore, Ấn Độ
Kính thưa ngài Thủ tướng,
Cả ngài và tôi đều không nói tiếng Anh, nhưng có những điều chỉ có thể diễn đạt bằng ngôn ngữ ấy.
Bà Pinky, vợ cũ ông Ashok quá cố, người từng là chủ của tôi, đã dạy tôi một trong những câu này; và vào lúc 11g32 tối nay, tức khoảng mười phút trước, khi cô xướng ngôn viên Đài phát thanh Toàn Ấn thông báo, “Thủ tướng Gia Bảo sẽ đến Bangalore vào tuần tới”, tôi bật ra ngay câu đó.
Thực ra, mỗi khi có những vĩ nhân như ngài đến thăm đất nước chúng tôi, tôi đều nói thế. Chẳng phải tôi chống đối vĩ nhân gì cho cam. Thưa ngài, theo thiển ý của mình, tôi cho rằng bản thân tôi cũng bằng vai phải lứa với các ngài. Song hễ nhìn thấy thủ tướng của chúng tôi cùng đám tùy tùng đạo mạo đến sân bay trong những chiếc xe màu đen, rồi bước ra và làm cử chỉ Namaste[1] với các ngài trước ống kính truyền hình, nói với các ngài về một đất nước Ấn Độ đạo đức và thần thánh, tôi phải thốt ra câu ấy bằng tiếng Anh.
Bây giờ, thưa ngài, ngài sắp sang thăm chúng tôi vào tuần tới, phải không ạ? Đài phát thanh Toàn Ấn thường rất đáng tin cậy trong những sự vụ như này.
Đó là một câu nói đùa, thưa ngài.
Ha!
Đó là lý do vì sao tôi muốn hỏi ngài trực tiếp xem ngài có thực sự đến Bangalore không. Vì nếu thế, tôi có việc quan trọng muốn nói với ngài. Này nhé, cô xướng ngôn viên trên đài phát thanh nói, “Ông Gia Bảo có một sứ mệnh: ông muốn biết sự thật về Bangalore”.
Máu tôi đông cứng. Nếu có ai đó biết rõ sự thật về Bangalore, thì người đó chính là tôi.
Sau đó, cô xướng ngôn viên nói, “Ông Gia Bảo muốn gặp một số nhà khởi nghiệp Ấn Độ để nghe những câu chuyện thành đạt từ chính miệng họ.”
Cô ấy có giải thích một chút. Thưa ngài, rõ ràng người Trung Quốc các ngài vượt xa chúng tôi về mọi mặt, trừ việc các ngài không có nhiều doanh nhân. Còn đất nước chúng tôi, dù không có nước uống, điện đóm, hệ thống thoát nước, giao thông công cộng, ý thức vệ sinh, kỉ luật, tác phong lịch sự, hay tính đúng giờ, lại có nhiều doanh nhân. Hàng nghìn hàng vạn người. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ. Và những doanh nhân này - những doanh nhân bọn tôi - đã lập ra toàn bộ các công ty thuê ngoài[2] về cơ bản đang điều hành nước Mỹ.
Ngài hy vọng biết được cách tạo ra dăm ba doanh nhân Trung Quốc, thế nên ngài mới đến đây. Tôi tâm đắc với điều ấy. Nhưng nó làm tôi phiền lòng ở chỗ, thể theo nghi thức ngoại giao quốc tế, thủ tướng và ngoại trưởng của nước tôi sẽ đón ngài tại sân bay với vòng hoa, những bức tượng nhỏ Gandhi bằng gỗ đàn hương làm quà lưu niệm, và một tập hồ sơ đầy ắp thông tin về quá khứ, hiện tại và tương lai Ấn Độ.
Thưa ngài, đó là khi tôi phải nói ra cái câu ấy bằng tiếng Anh. Nói thật to.
Đó là lúc 11g37 tối. Năm phút trước.
Tôi không văng tục hay chửi rủa. Tôi thuộc tuýp người hành động và thay đổi. Tôi quyết định ngay tại đó, vào lúc đó, bắt tay viết cho ngài một lá thư.
Để mở đầu, cho phép tôi bày tỏ lòng ngưỡng mộ lớn lao của mình về đất nước Trung Hoa cổ kính.
Tôi đã đọc về lịch sử đất nước của các ngài trong quyển sách Những câu chuyện lý thú về Phương Đông kì lạ mà tôi tìm thấy trên vỉa hè từ dạo cố mở mang đầu óc bằng cách lân la vào khu chợ sách cũ Chủ nhật ở Old Delhi. Quyển sách này chủ yếu nói về cướp biển và vàng ròng ở Hong Kong, nhưng nó cũng có vài thông tin cơ bản hữu ích: nó viết rằng người Trung Quốc các ngài rất yêu chuộng tự do và quyền tự do cá nhân. Người Anh những muốn biến các ngài thành kẻ tôi tớ, nhưng các ngài không bao giờ chịu phục tùng. Tôi ngưỡng mộ điều đó, thưa Thủ tướng.
Tôi từng là đầy tớ, ngài ạ.
Chỉ có ba quốc gia chưa bao giờ chịu khuất phục ngoại bang: Trung Quốc, Afghanistan, và Abyssinia[3]. Đây là ba quốc gia mà tôi ngưỡng mộ.
Xuất phát từ niềm tôn kính lòng yêu chuộng tự do mà người Trung Quốc thể hiện, đồng thời với niềm tin rằng tương lai thế giới nằm trong tay người da vàng và da nâu - trong khi ông chủ thuở xa xưa của chúng tôi, người da trắng, hãy còn phung phí cuộc đời vào chốn ăn chơi, xài điện thoại và nghiện ngập - tôi xin hầu chuyện ngài, miễn phí, sự thật về Bangalore.
Bằng cách kể cho ngài câu chuyện đời tôi.
Ngài xem, khi ngài đến Bangalore và dừng xe tại đèn giao thông, những đứa bé trai sẽ chạy đến xe ngài, gõ vào cửa xe và giơ lên một bản in lậu sách kinh doanh của Mỹ được bọc giấy bóng kính cẩn thận, với tiêu đề đại loại như:
MƯỜI BÍ QUYẾT KINH DOANH THÀNH CÔNG!
hoặc
TRỞ THÀNH DOANH NHÂN TRONG BẢY NGÀY NHƯ BỠN!
Đừng lãng phí tiền bạc của ngài cho những quyển sách Mỹ ấy.
Chúng lỗi thời quá rồi.
Tôi mới là tân thời.
Xét về giáo dục chính quy, tôi có phần nào thiếu sót. Tôi chưa học xong, nói trắng ra là vậy. Mà ai thèm quan tâm cơ chứ! Tôi chưa đọc nhiều sách, nhưng đã đọc hết những quyển đáng đọc. Tôi thuộc lòng tác phẩm của bốn thi hào vĩ đại nhất mọi thời đại - Rumi, Iqbal, Mirza Ghalib, và một người nữa tôi quên tên rồi. Tôi là một doanh nhân tự học.
Tin tôi đi, đó là loại doanh nhân giỏi nhất.
Khi ngài nghe xong chuyện tôi đã đến Bangalore như thế nào và trở thành một trong những doanh nhân thành đạt nhất (dù có lẽ ít được biết nhất) ra sao, ngài sẽ biết tất tần tật những điều cần biết về quá trình ra đời, hình thành và phát triển của tinh thần khởi nghiệp ở đây, ở thế kỉ hai mươi mốt vẻ vang của nhân loại này.
Thế kỉ, nói cho rõ hơn, của người da vàng và da nâu.
Của ngài và tôi.
Bây giờ sắp đến nửa đêm, thưa ngài Gia Bảo. Một thời điểm thích hợp để tôi kể chuyện.
Thưa ngài, tôi thức trắng đêm. Và chẳng còn ai khác trong văn phòng rộng 14 mét vuông[4] này. Chỉ có tôi và chiếc đèn chùm trên đầu, dù chiếc đèn chùm cũng có tính cách riêng của nó. Nó là một chùm đèn to, gắn đầy mảnh pha lê nhỏ hình kim cương, giống hệt loại đèn thường thấy trong dòng phim thập niên 1970. Dù buổi tối ở Bangalore trời mát dịu, nhưng tôi vẫn bật quạt - loại năm cánh - ngay bên trên chiếc đèn chùm. Xem này, khi quay, những cánh quạt nhỏ phạt ngang luồng ánh sáng của đèn chùm và phát tán chúng khắp phòng. Giống như ánh đèn nhấp nháy tại những vũ trường oách nhất Bangalore.
Đây là khoảng không gian 14 mét vuông duy nhất ở Bangalore có gắn đèn chùm! Nhưng nó cũng chỉ là một nơi cóc cáy mà thôi, và tôi thì ngồi đây suốt đêm.
Cái nghiệp của doanh nhân là thế. Phải một nắng hai sương canh chừng doanh nghiệp của mình.
Bây giờ tôi sẽ bật quạt để ánh đèn chùm lan tỏa khắp phòng.
Tôi đang thư giãn, thưa ngài. Tôi mong ngài cũng thế.
Ta bắt đầu nào.
Trước khi ta vào chuyện, thưa ngài, cái câu tiếng Anh mà tôi học được từ bà Pinky, vợ cũ ông Ashok quá cố, người từng là chủ của tôi, là:
What a fucking joke[5].
Bây giờ, tôi không còn xem phim Hindi nữa - cơ bản là thế - nhưng vào cái thời mà tôi từng xem, chỉ trước khi có phim hiện đại, thì hoặc là con số 786 sẽ lóe lên trên màn hình đen - người Hồi giáo nghĩ đấy là con số ma thuật tượng trưng cho thượng đế của họ - hoặc là ngài sẽ thấy hình ảnh một người phụ nữ mặc sari trắng với những đồng tiền vàng thòng xuống đến tận chân, đó là nữ thần Lakshmi trong Ấn Độ giáo. Ở nước tôi có một phong tục cổ xưa và thiêng liêng, đó là mở đầu câu chuyện bằng cách cầu nguyện Đấng bề trên.
Tôi đoán là, thưa ngài, mình cũng nên bắt đầu câu chuyện bằng cách vái mông[6] một vị thần nào đó.
Nhưng mà vị thần nào mới được chứ? Có nhiều lựa chọn quá.
Này nhé, tín đồ Hồi giáo có một thượng đế.
Tín đồ Cơ đốc giáo có chúa ba ngôi.
Còn tín đồ Ấn Độ giáo chúng tôi có những 36.000.000 vị thần.
Tính ra là có 36.000.004 cặp mông thần cho tôi chọn.
Một vài người, tôi không định nói những người Cộng sản như các ngài, mà là những người duy lý thuộc tất cả các đảng phái chính trị, cho rằng số thần thực sự hiện hữu không nhiều. Số khác lại đoan chắc chẳng có thần thánh gì sất. Chỉ có chúng ta và một đại dương của sự tăm tối bao phủ xung quanh. Tôi không phải triết gia hay thi sĩ, làm sao tôi biết sự thật? Có một sự thật là, những vị thần này xem ra toàn ngồi mát ăn bát vàng - cũng giống như các chính trị gia của chúng tôi - vậy mà vẫn tái đắc cử vào ngai vàng của họ trên thiên đường, năm này qua năm khác. Nói vậy không có nghĩa là tôi bất kính với họ, thưa Thủ tướng! Xin đừng bao giờ để cái ý tưởng hàm hồ đó vào trong đầu của ngài. Đất nước chúng tôi là nơi mà lưỡng cử thì nhất tiện: doanh nhân Ấn Độ phải vừa thẳng vừa cong, vừa nhạo báng lại vừa tin tưởng, vừa thật thà mà cũng lại vừa quỷ quyệt.
Vì vậy: tôi đang nhắm mắt, chắp tay cung kính trong tư thế namaste và cầu xin các vị thần soi sáng câu chuyện đen tối của tôi.
Hãy chịu đựng với tôi, ngài Gia Bảo. Việc này có thể mất chút thời gian đấy.
Ngài nghĩ có thể vái 36.000.004 cặp mông nhanh cỡ nào?
Xong.
Mắt tôi lại mở ra.
11g52 tối - và đây thực sự là lúc để bắt đầu.
Một lời cảnh báo theo quy định - như người ta thường ghi trên vỏ bao thuốc lá - trước khi chúng ta vào chuyện.
Một hôm, khi tôi đang chở chủ cũ của tôi là ông Ashok và bà Pinky trên chiếc ô tô Honda City của họ, ông Ashok đặt một tay lên vai tôi và nói: “Tấp xe vào lề đường”. Sau khi ra lệnh, ông chồm về trước, gần đến mức tôi có thể ngửi thấy mùi nước hoa sau khi cạo râu - hôm ấy nó có mùi hoa quả ngọt lịm - và nói, lịch thiệp như vẫn thế, “Balram, tôi có vài câu muốn hỏi cậu, được không?”
“Vâng, thưa ông”, tôi đáp.
“Balram”, ông Ashok hỏi, “có bao nhiêu hành tinh trên trời?”
Tôi vận dụng hết trí não để trả lời.
“Balram, ai là thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ?”
Và sau đó: “Balram, sự khác nhau giữa Ấn Độ giáo và Hồi giáo là gì?”
Rồi lại: “Lục địa của chúng ta tên là gì?”
Ông Ashok ngả người ra sau và hỏi bà Pinky, “Em có nghe những câu trả lời của cậu ấy không?”
“Nó nói đùa đấy hử?”, bà hỏi, và tim tôi đập nhanh hơn, như vẫn thế mỗi lần nghe bà nói ra điều gì.
“Không. Cậu ta thực sự cho rằng đấy là những câu trả lời đúng”.
Bà bật cười khi nghe điều đó, nhưng khuôn mặt ông ấy, tôi nhìn thấy trên kính chiếu hậu, rất nghiêm túc.
“Vấn đề là, cậu ta hình như chỉ có... bao nhiêu, hai, ba năm đi học? Cậu ta biết đọc biết viết, nhưng không hiểu những gì mình đọc. Cậu ta còn nửa vời lắm. Anh nói cho em nghe, đất nước này đầy rẫy những người như cậu ấy. Và chúng ta thì lại đặt niềm tin vào nền dân chủ nghị viện vẻ vang của chúng ta” - ông chỉ tay vào tôi - “vào những nhân vật như thế này. Đó là toàn bộ bi kịch của đất nước chúng ta.”
Ông thở dài.
“Được rồi, Balram, cho xe chạy tiếp.”
Tối hôm đó, tôi nằm trên giường, trong chiếc màn ngăn muỗi, nghĩ về những lời của ông ấy. Ông ấy đã đúng, thưa ngài - tôi không thích cách ông ấy nói về tôi, nhưng ông ấy đã đúng.
“Tự truyện của một người Ấn Độ Nửa Vời”. Tôi nên đặt tên cho câu chuyện đời mình như thế.
Tôi, và hàng nghìn kẻ khác giống tôi trong đất nước này, rất nửa vời, vì chúng tôi chưa bao giờ được học hành đến nơi đến chốn. Mở hộp sọ chúng tôi ra, dùng một cây đèn pin nhỏ rọi vào, ngài sẽ thấy một bảo tàng ý nghĩ kì dị: những câu văn về lịch sử hoặc công thức toán thuộc lòng từ sách giáo khoa (không đứa bé nào nhớ về thời cắp sách bằng những đứa bị buộc thôi học, tôi cam đoan với ngài như thế), những câu văn chính trị đọc trên báo trong lúc chờ gặp ai đó tại văn phòng, những hình tam giác và hình chóp thấy trên trang giấy rách của sách hình học mà bất cứ quán trà nào ở đất nước này cũng dùng làm giấy gói quà vặt, những mẩu tin từ đài phát thanh Toàn Ấn, những thứ rớt vào đầu óc, như thằn lằn rơi từ trần nhà xuống, trong nửa giờ trước khi ngủ - tất cả những ý nghĩ này, nửa tự tạo, nửa hấp thụ và nửa chính xác, trộn lẫn với những ý nghĩ nửa sống nửa chín khác trong đầu, và tôi đồ rằng những ý nghĩ ba rọi này giao cấu lẫn nhau, sản sinh thêm nhiều ý nghĩ ba rọi khác, trở thành nền tảng sống của chúng tôi.
Câu chuyện về học vấn của tôi là câu chuyện về một kẻ nửa vời đã được tạo ra như thế nào.
Nhưng hãy chú ý, thưa Thủ tướng! Đầy rẫy những kẻ học hành tử tế, sau mười hai năm đèn sách và ba năm đại học, thì diện đồ đẹp, vào công sở, và suốt đời tuân theo chỉ thị của người khác.
Các doanh nhân được làm từ đất sét nung dở.
Để cung cấp cho ngài những sự thật cơ bản về tôi - xuất xứ, chiều cao, cân nặng, khuynh hướng giới tính, v.v - không gì tốt hơn tấm áp phích ấy. Tấm áp phích do cảnh sát làm.
Tôi thừa nhận, nói mình là câu chuyện thành đạt ít được biết nhất ở Bangalore thì không hoàn toàn đúng. Khoảng ba năm trước, nói ngắn gọn, khi tôi trở thành một nhân vật quan trọng tầm quốc gia chỉ vì một hành vi khởi nghiệp kinh doanh, thì những tấm áp phích in hình chân dung tôi xuất hiện tại mọi bưu điện, ga tàu hỏa, và sở cảnh sát trong đất nước này. Rất nhiều người nhìn thấy khuôn mặt và tên của tôi lúc ấy. Tôi không có bản gốc, nhưng đã tải một tấm ảnh về máy tính xách tay Macintosh màu bạc của mình - tôi mua trên mạng từ một cửa hàng ở Singapore, nó chạy tốt như mơ - và nếu ngài chờ cho một chút, tôi sẽ mở máy tính, kéo tấm áp phích được scan ấy lên, rồi đọc trực tiếp từ đó...
Nhưng xin có đôi lời về tấm áp phích gốc. Tôi tìm thấy nó ở một ga tàu hỏa tại Hyderabad, giai đoạn mà tôi chẳng đem gì theo - trừ một chiếc túi màu đỏ rất nặng - và đang từ Delhi xuống Bangalore. Tôi đã cất bản gốc ngay tại căn phòng này, trong ngăn kéo của chiếc bàn này, suốt một năm. Một hôm cậu lao công vào dọn dẹp đồ của tôi, và suýt nhìn thấy tấm áp phích. Tôi không phải người nặng lòng, thưa ngài Gia Bảo. Doanh nhân không được phép như thế. Vì vậy tôi ném vật ấy đi - nhưng trước đó, tôi nhờ người chỉ cho mình cách scan ảnh - và ngài biết người Ấn Độ chúng tôi học công nghệ nhanh như vịt gặp nước. Chỉ mất một, hai giờ. Tôi thuộc tuýp người hành động, thưa ngài. Và nó đây, trên màn hình, trước mặt tôi:
CẦN TRỢ GIÚP TÌM NGƯỜI MẤT TÍCH
Công chúng xin chú ý người đàn ông trong ảnh tên Balram Halwai, tên thường gọi MUNNA, con trai phu xe Vikram Halwai, đang bị truy nã để thẩm vấn. Tuổi: Từ 25 đến 35. Màu da: Đen. Kiểu mặt: Trái xoan. Chiều cao: Khoảng năm foot bốn inch (1,62m). Dáng người: Gầy, nhỏ con.
E hèm, điều này không còn thực sự chính xác nữa, thưa ngài. Chi tiết “mặt đen” thì vẫn đúng - dù tôi đang định thử vài ba loại kem làm trắng da mà dạo này người ta vừa tung ra để đàn ông Ấn Độ cũng trắng trẻo như người phương Tây - nhưng những thứ còn lại, trời đất ơi, thảy đều vô nghĩa. Cuộc sống ở Bangalore rất tốt - đồ ăn phủ phê, lại còn bia rượu, hộp đêm, biết nói sao nhỉ! “Gầy” và “nhỏ con” - ha! Dạo này tôi phát tướng rồi! “Béo” và “bụng phệ” thì chính xác hơn.
Nhưng hãy tiếp tục nào, chúng ta không có thì giờ cả đêm. Tôi nên giải thích phần này ngay bây giờ.
Balram Halwai, tên thường gọi MUNNA...
Thế này, ngày đầu tiên đi học, thầy giáo bắt tất cả bọn con trai chúng tôi xếp hàng rồi đi đến bàn của thầy để ông điền tên vào sổ. Khi tôi nói tên mình, ông thầy há mồm nhìn tôi:
“Munna? Đó đâu phải tên thật!”
Ông ấy đã đúng, nó chỉ có nghĩa là “con trai”.
“Em chỉ có tên đó, thưa thầy”, tôi đáp.
Đúng là thế. Tôi chưa bao giờ được đặt tên.
“Mẹ em không đặt tên cho em à?”
“Mẹ em rất yếu, thưa thầy. Bà nằm trên giường và nôn ra máu. Bà chẳng có thời gian đặt tên cho em”.
“Thế còn bố em?”
“Bố em là phu xe, thưa thầy. Ông không có thời gian đặt tên cho em.”
“Chẳng lẽ em không có bà? Hay là cô dì, chú bác?”
“Họ cũng không có thời gian ạ.”
Thầy giáo quay qua nhổ đánh toẹt - một miếng paan[7] đỏ bắn tung tóe trên sàn lớp học. Ông liếm môi.
“Ái chà, vậy là tùy thuộc vào tôi, phải không nào?” Ông sờ tay lên đầu rồi nói, “Tôi sẽ gọi em là... Ram. Đợi đã - chẳng phải lớp ta có người tên Ram rồi sao? Tôi không muốn nhầm lẫn. Tên là Balram nhé. Em biết Balram là ai mà, đúng không?”
“Không ạ!”
“Đấy là người thân cận[8] của thần Krishna. Biết tên ta là gì không?”
“Không ạ!”
Ông bật cười. “Krishna”.
Hôm ấy tôi về nhà, nói với bố rằng thầy giáo đã cho tôi một tên mới. Ông nhún vai. “Nếu ông thầy muốn vậy thì chúng tao sẽ gọi mày bằng tên đó.”
Vậy là từ ngày ấy tôi mang tên Balram. Dĩ nhiên sau này tôi còn có thêm một tên nữa. Nhưng chuyện đó để hạ hồi phân giải.
Nói tiếp chuyện, ở cái xứ nào mà người ta lại quên cả việc đặt tên cho con đẻ mình cơ chứ? Xem lại tấm áp phích:
Nghi phạm đến từ làng Laxmangarh, ở...
Như mọi câu chuyện hay ho ở Bangalore, chuyện của tôi bắt đầu từ nơi rất xa Bangalore. Ngài biết không, bây giờ tôi đang ở trong Ánh sáng, nhưng tôi đã chào đời và lớn lên từ Bóng tối.
Tuy nhiên không phải tôi đang nói đến giờ giấc trong ngày, thưa Thủ tướng!
Tôi đang nói về một nơi ở Ấn Độ, rộng bằng ít nhất một phần ba đất nước, một nơi màu mỡ, bạt ngàn những cánh đồng lúa gạo và lúa mì cùng những ao sen, ao súng nằm giữa những đồng lúa ấy; có cả những con trâu nước lội xuống ao, nhai hoa sen, hoa súng. Những người sống ở nơi này gọi đó là Bóng tối. Xin ngài hiểu cho, Ấn Độ là hai nước trong một: một Ấn Độ của Ánh sáng, và một Ấn Độ của Bóng tối. Đại dương đem ánh sáng đến đất nước chúng tôi. Mọi nơi trên bản đồ của Ấn Độ nằm gần đại dương đều phát đạt. Nhưng dòng sông đem bóng tối đến Ấn Độ - dòng sông đen.
Tôi đang nói về dòng sông đen nào - dòng sông Chết nào mà hai bờ của nó đầy bùn đen đặc quánh vùi chôn mọi thứ trồng trên đó, làm cho chúng ngạt thở, sặc sụa và còi cọc?
Ấy là, tôi đang nói về mẹ Hằng Hà, con gái thần Vedas, dòng sông ánh sáng, người bảo vệ của tất cả chúng tôi, người phá vỡ mắt xích của sự sinh và sự tái sinh. Dòng sông này chảy đến đâu, Bóng tối bao trùm đến đó.
Có một thực tế về Ấn Độ là nếu ngài tiếp nhận hầu hết những gì nghe được từ thủ tướng chúng tôi rồi đảo ngược nó lại, ngài sẽ biết sự thật về nó. Thế này, ngài đã nghe nói Hằng Hà còn được gọi là dòng sông giải thoát, và mỗi năm có hàng trăm du khách Mỹ đến để chụp ảnh những sadhu[9] khỏa thân tại Hardwar hay Benaras. Thủ tướng chúng tôi ắt hẳn sẽ giải thích sự việc theo cách đó với ngài, rồi giục ngài nhúng mình xuống nước.
Không! - Thưa ngài Gia Bảo, tôi xin ngài đừng nhúng mình xuống dòng sông Hằng đó, nếu ngài không muốn mồm chứa đầy phân, rơm rạ, những bộ phận thi thể người trương nước, xác trâu thối rữa, và bảy loại axít công nghiệp khác nhau.
Tôi biết tất cả về Hằng Hà, thưa ngài - năm tôi khoảng sáu, bảy hay tám tuổi gì đó (trong làng tôi chẳng ai biết tuổi thực của mình), tôi đã đến nơi thiêng liêng nhất trên bờ sông Hằng - thành phố Benaras. Tôi nhớ mình đi bộ xuống một con đường dốc tại thánh địa Benaras, ở cuối đoàn tang lễ đưa thi thể mẹ tôi đến sông Hằng.
Bà nội Kusum của tôi đang dẫn đầu đoàn đưa tang. Bà già Kusum quỷ quái! Bà có thói quen chà xát cánh tay mỗi khi đắc chí, như thể cánh tay là củ gừng, mài một phát là bật ra nụ cười toe toét trên mặt. Răng bà rụng hết, nhưng như thế càng khiến nụ cười của bà thêm giảo quyệt. Bà đã đem kiểu cười ấy vào nhà rồi kiểm soát tất cả; từ con trai đến con dâu đều sợ bà một phép.
Bố tôi và anh Kishan đứng phía sau bà để đỡ đầu trước của chiếc giường mây đặt thi thể mẹ tôi; các chú bác tôi là Munnu, Jayram, pyram, và Umesh, đứng phía sau, nâng đầu còn lại. Xác mẹ đã được bọc kín từ đầu đến chân trong vải lụa màu vàng nghệ, phủ đầy cánh hoa hồng và những vòng hoa nhài. Tôi nghĩ mẹ chưa từng được mặc đồ đẹp như thế khi còn sống. (Cái chết của mẹ quá to tát đến nỗi tôi biết ngay cuộc đời bà hẳn rất khốn khổ. Gia đình tôi có lỗi gì đây). Các bác, các thím của tôi - Rabri, Shalini, Malini, Luttu, Jaydevi, và Ruchi - cứ liên tục ngoái lại và vỗ vỗ tay ra hiệu để tôi theo kịp họ. Tôi nhớ mình lúc lắc bàn tay và hát “Tên thần Shiva chính là sự thật!”
Chúng tôi đi ngang qua hết đền này đến đền khác, cầu nguyện hết vị thần này đến vị thần khác, rồi đi thành hàng một giữa một bên là ngôi đền đỏ thờ thần Hanuman và một bên là phòng tập thể hình mở, có ba vận động viên đang nâng những cái tạ gỉ sét qua khỏi đầu. Tôi ngửi thấy dòng sông trước khi nhìn thấy nó: một mùi hôi thối của thịt rữa bốc lên từ phía bên tay phải của tôi. Tôi hát to hơn: “...sự thật duy nhất!”
Tiếp đó là một tiếng ồn đinh tai: tiếng chặt củi. Một cái bục bằng gỗ được dựng bên kè ghat[10], ngay trên mặt nước; gỗ chất đầy trên bục, những người đàn ông đang dùng rìu bửa gỗ. Các khúc gỗ được gắn vào dàn thiêu đặt trên bậc thang của ghat dẫn xuống sông; khi chúng tôi đến nơi, có bốn thi thể đang cháy trên các bậc thang ghat. Chúng tôi chờ đến lượt mình.
Xa xa, một hòn đảo cát trắng lấp lóa dưới ánh mặt trời, những chiếc thuyền đầy ắp người đang tiến về đảo. Tôi tự hỏi liệu linh hồn mẹ tôi có bay đến đó, đến chốn sáng ngời trên dòng sông ấy không.
Tôi đã kể thi thể mẹ tôi quấn trong một lớp vải lụa. Lớp vải này giờ đây được kéo qua đầu bà, và những khúc gỗ, trả tiền chừng nào thì lấy chừng ấy, được chất lên trên cái xác. Rồi thầy tế châm lửa thiêu mẹ tôi.
“Nó là một đứa con gái ngoan, hiền như bụt hôm về nhà chồng,” bà Kusum nói, đặt tay lên mặt tôi. “Ta đâu phải loại người ưa gây gổ”.
Tôi đẩy tay bà ra khỏi mặt mình. Tôi nhìn mẹ.
Khi ngọn lửa nuốt chửng lớp vải lụa, một bàn chân tái nhợt bật ra, như một vật thể sống; những ngón chân đang tan chảy dưới sức nóng, bắt đầu quặp lại, chống chọi trước những gì đang xảy ra với chúng. Bà Kusum đẩy bàn chân vào lửa, nhưng nó không cháy. Tim tôi bắt đầu đập loạn xạ. Mẹ tôi không muốn để họ tiêu hủy bà.
Bên dưới cái bục chất củi thiêu có một ụ đất bùn đen, ngay nơi dòng sông vỗ vào bờ. Cái ụ vương đầy dây ruy-băng hoa nhài, cánh hoa hồng, những mảnh vải lụa, xương cháy thành than; một con chó da xám ngoét đang vừa bò vừa đánh hơi những cánh hoa, vải lụa và những khúc xương cháy xém.
Tôi nhìn đống bùn, rồi nhìn bàn chân cong queo của mẹ, và tôi hiểu ra.
Đống bùn này đang níu bà lại, chính cái ụ đất bùn đen ngòm to tướng này. Mẹ tôi đang cố chống chọi với bùn đen; các ngón chân bà cong queo và kháng cự; nhưng lớp bùn đang hút lấy hút để bà. Nó dày quá đỗi, và cứ dày thêm mỗi khi dòng sông vỗ vào bờ ghat. Mẹ tôi sẽ nhanh chóng trở thành một phần của bùn đen và con chó có lớp da xám ngoét sẽ bắt đầu liếm láp bà.
Và khi đó tôi hiểu ra: đây chính là vị thần thật sự của Benaras, cái lớp bùn đen này của Hằng Hà. Mọi thứ chết lún trong đó, phân hủy, rồi tái sinh từ đó, và chết lún trong đó một lần nữa. Điều tương tự sẽ xảy ra với tôi khi tôi chết và họ đem tôi đến đây. Không một thứ gì được giải thoát khỏi nơi này.
Tôi ngừng thở.
Đó là lần đầu tiên trong đời tôi ngất xỉu.
Tôi đã không quay lại Hằng Hà kể từ dạo ấy. Tôi để dòng sông lại cho du khách Mỹ!
... đến từ làng Laxamangarh, thuộc huyện Gaya.
Đây là một huyện nổi tiếng - vang danh thế giới. Lịch sử quốc gia ngài được định hình bằng huyện của tôi, thưa ngài Gia Bảo. Chắn chắn ngài đã nghe nói đến Bodh Gaya - thị trấn nơi Đức Phật ngồi dưới một cái cây và giác ngộ, khai sinh ra Phật giáo, tôn giáo này sau đó lan truyền ra toàn thế giới, kể cả Trung Quốc - nó ở đâu nếu không phải chính đây, tại huyện quê nhà của tôi! Chỉ cách Laxmangarh vài dặm!
Tôi không biết Đức Phật có đi ngang qua Laxmangarh không - vài người nói có. Tôi thì nghĩ ông ấy chạy băng qua nó - nhanh hết cỡ - đến đầu bên kia - và không bao giờ ngoái lại!
Có một nhánh nhỏ của Hằng Hà chảy ngay bên ngoài Laxmangarh; tàu bè đến từ thế giới bên ngoài, đem theo hàng hóa vào mỗi ngày thứ hai. Có một con đường trong làng; một đường cống rãnh chia nó ra làm hai. Ở mỗi bên rãnh cống có một cái chợ: dăm ba cửa hàng giống nhau bán những món tạp hóa cũ rích y hệt nhau như gạo, dầu ăn, dầu hỏa, bánh quy, thuốc lá, và đường thốt nốt. Cuối chợ có một cái tháp hình chóp cao nghệu quét vôi trắng, chung quanh vẽ những con rắn đen quấn vào nhau. Đó là ngôi đền. Bên trong, ngài sẽ thấy hình một sinh vật màu vàng nghệ nửa người nửa khỉ: đây là Hanuman, vị thần được già trẻ lớn bé ở khu Bóng tối sùng bái. Ngài có biết về Hanuman không, thưa ngài? Đó là kẻ hầu trung thành của thần Rama, và chúng tôi thờ cúng Hanuman trong đền của mình vì đó là tấm gương sáng ngời cho những kẻ phụng sự chủ nô của mình với lòng trung thành, tình yêu thương và sự tận tâm tuyệt đối.
Đây là những loại thần mà họ cài cắm vào chúng tôi, thưa ngài Gia Bảo. Bây giờ ngài đã hiểu một kẻ muốn chiến thắng trong cuộc chiến giành tự do của hắn ta ở Ấn Độ gian khổ nhường nào.
Nói về nơi này như thế đã quá đủ rồi. Bây giờ nói đến con người. Kính thưa ngài, tôi lấy làm vinh dự thông báo với ngài rằng Laxmangarh chính là thiên đường làng mạc điển hình ở Ấn Độ, với đầy đủ điện, nước và điện thoại; và rằng trẻ con làng tôi, được nuôi bằng nguồn dinh dưỡng từ thịt, trứng, rau và đậu lăng, khi đem ra cân đo sẽ đáp ứng chiều cao cân nặng tối thiểu do Liên Hiệp Quốc và các tổ chức khác đề ra. Thủ tướng của chúng tôi đã kí kết hiệp định và tham gia đều đặn, rầm rộ những diễn đàn do họ tổ chức.
Ha!
Cột điện - hỏng.
Vòi nước - gãy.
Trẻ con - quá thấp bé nhẹ cân so với tuổi, cùng những cái đầu to quá cỡ trên đó mang những đôi mắt sáng long lanh, như lương tâm tội lỗi của chính phủ Ấn Độ.
Vâng, một thiên đường làng mạc điển hình ở Ấn Độ, thưa ngài Gia Bảo. Sau này tôi sẽ đến Trung Quốc để xem các thiên đường làng mạc của ngài có khá hơn chút nào không.
Ở giữa con đường chính, họ nhà lợn đang sục sạo trong cống rãnh - thân trên của mỗi con đều khô ráo, những cọng lông dài bết chặt trên sống lưng; thân dưới đen quánh và lấp lánh nước cống. Những tia chớp lông vũ đỏ nâu sặc sỡ - bầy gà trống hết bay lên lại bay xuống mái nhà. Đi qua lũ lợn heo gà qué này, ngài sẽ đến nhà tôi - nếu nó còn ở đó.
Tại cửa ra vào, ngài sẽ thấy thành viên quan trọng nhất của gia đình chúng tôi.
Ả trâu cái.
Cô ả là thứ béo nhất trong nhà tôi; tương tự như ở mọi nhà khác trong làng này. Đám đàn bà con gái cho ả ăn cỏ tươi suốt cả ngày; cho trâu ăn là công việc chính trong đời họ. Mọi hi vọng của họ đều tập trung vào độ béo tốt của cô ả, thưa ngài. Nếu cô ả cho đủ sữa, đám đàn bà có thể bán một ít, và họ có thể kiếm thêm chút đỉnh vào cuối ngày. Ả ta rất béo, da bóng lưỡng, với một sợi dây to bằng cái mậm của một thằng nhóc lòi ra từ chiếc mũi lông lá, nước dãi màu ngọc trai sền sệt lòng thòng từ khóe mép. Ả ta nằm cả ngày trên đống phân vĩ đại của mình. Ả là kẻ ăn trên ngồi trước trong nhà chúng tôi!
Một khi bước vào trong nhà, ngài sẽ thấy đám đàn bà con gái - nếu bất kì ai trong số họ còn sống sau những gì tôi đã gây ra. Đang làm việc trên sân. Các bác các cô các thím, chị em họ và bà nội Kusum. Người chuẩn bị bữa ăn cho con trâu, người sàng thóc, người ngồi xổm vạch da đầu bắt chấy cho người khác. Thỉnh thoảng họ dừng tay, vì đã đến lúc đánh nhau. Tức là ném những chiếc lọ kim loại vào nhau, hay nắm tóc nhau, rồi lại làm hòa bằng cách hôn lên lòng bàn tay và áp lên má nhau. Buổi tối họ ngủ chung, những cặp chân gác lên nhau, giống như một con cuốn chiếu.
Đàn ông con trai ngủ ở một góc khác của căn nhà.
Sáng sớm. Bầy gà trống lên cơn điên khắp đầu làng cuối xóm. Một bàn tay lay tôi dậy... Tôi hất hai chân của anh Kishan ra khỏi bụng, đẩy bàn tay anh họ Pappu ra khỏi tóc, gỡ mình ra khỏi những kẻ đang ngủ như chết.
“Đi nào, Munna.”
Bố tôi gọi vọng vào từ cửa.
Tôi chạy lẽo đẽo sau ông. Chúng tôi đi ra khỏi nhà và tháo ả trâu cái ra khỏi cọc. Chúng tôi sẽ đưa cô ả đi tắm sáng - ở tít cái ao dưới Pháo đài đen.
Pháo đài đen ngự trên đỉnh một ngọn đồi nhìn xuống làng. Những người từng đi nước ngoài nói với tôi rằng pháo đài này đẹp không thua kém những gì ở châu Âu. Người Thổ Nhĩ Kì, hoặc người Afghanistan, hoặc người Anh, hoặc bất kì người ngoại quốc nào từng thống trị Ấn Độ thời đó, hẳn đã xây pháo đài này hàng thế kỉ trước.
(Vì vùng đất Ấn Độ này chưa bao giờ được tự do. Đầu tiên là người Hồi giáo, rồi đến người Anh thống trị chúng tôi. Năm 1947 người Anh ra đi, nhưng chỉ có kẻ dở hơi mới cho rằng chúng tôi đã được tự do khỏi họ).
Nay thì người ngoại quốc đã rời bỏ Pháo đài đen, một bầy khỉ chiếm cứ nó. Chẳng còn ai đi lên đó, chỉ có người chăn dê đưa bầy gia súc của mình đến gặm cỏ.
Khi bình minh đến, cái ao nằm dưới chân pháo đài bừng sáng. Những hòn đá trên tường pháo đài đã lăn xuống đồi, rơi vào ao. Chúng nằm đó, ẩm ướt, nhấp nhô trên mặt nước lấm bùn, như đám hà mã ngái ngủ mà tôi thấy nhiều năm sau đó ở Vườn thú quốc gia tại New Delhi. Hoa sen hoa súng nở đầy ao, mặt nước lấp lánh ánh bạc. Con trâu nước lội bì bõm, nhồm nhoàm nhai lá súng, cái mũi rẽ nước tạo thành hình chữ V. Mặt trời mọc lên trên con trâu, trên bố tôi, trên tôi, và trên toàn thế gian.
Thỉnh thoảng, ngài có tin được không, tôi chợt thấy lòng bâng khuâng về nơi ấy.
Bây giờ, trở lại tấm áp phích -
Nghi phạm được nhìn thấy lần cuối lúc mặc áo sơ mi polyester kẻ xanh, quần polyester cam, giày xăng đan màu hạt dẻ...
“Giày xăng đan màu hạt dẻ” - ối da. Chỉ có cảnh sát mới nghĩ ra chi tiết như thế. Tôi hoàn toàn phủ nhận.
“Áo sơ mi polyester kẻ xanh, quần polyester cam”... À, ừm, tôi cũng muốn chối luôn, nhưng không may là chúng lại đúng. Đó là loại quần áo bắt mắt những kẻ đầy tớ, thưa ngài. Mà tôi thì vẫn còn là đầy tớ vào buổi sáng hôm người ta làm tấm áp phích này. (Đến tối tôi đã được tự do, và mặc bộ đồ khác!)
Bây giờ, có một đoạn trong tấm áp phích làm tôi nổi cáu - để tôi quay lại đấy một chút và sửa nó:
... con trai Vikram Halwai, phu xe...
Ông Vikram Halwai, phu xe - cảm ơn! Bố tôi nghèo, nhưng là người sĩ diện và can đảm. Tôi sẽ không ngồi đây, dưới cái đèn chùm này, nếu không có sự bảo ban của ông.
Vào những buổi chiều sau khi tan học, tôi thường đến quán trà để tìm ông. Quán trà này là tâm điểm của làng chúng tôi; xe buýt từ Gaya dừng ở đó mỗi buổi trưa (không bao giờ muộn quá một hoặc hai giờ), còn cảnh sát đỗ xe jeep ở đấy mỗi khi đến để xử lý ai đó trong làng. Trước lúc mặt trời lặn, một người đạp xe vòng quanh quán trà ba lần, rung chuông inh ỏi. Một tấm áp phích quảng cáo phim khiêu dâm dán trên giấy bồi buộc phía sau chiếc xe đạp - có ngôi làng truyền thống nào ở Ấn Độ được gọi là hoàn hảo mà không có rạp chiếu phim đen, thưa ngài? Một rạp phim ở bên kia sông chiếu loại phim này mỗi buổi tối, những thước phim dài hai giờ rưỡi với tên gọi như Chàng là đàn ông thực thụ, hay Chúng ta đã mở nhật kí của nàng, hoặc Ông chú đã làm chuyện đó, quay những phụ nữ tóc vàng đến từ Mỹ hay những quý bà cô đơn ở Hong Kong, hoặc là tôi đoán thế. Ngài Gia Bảo, vì thực ra tôi chưa từng nhập bọn với đám thanh niên đi xem loại phim đó!
Những người phu đỗ xe thành hàng bên ngoài quán trà, chờ xe buýt thả khách.
Họ không được phép ngồi lên ghế nhựa dành cho khách; họ phải ngồi bẹp gần phía sau, cái tư thế ngồi xổm gập lưng thường thấy của đầy tớ ở khắp mọi nơi trên đất Ấn Độ. Bố tôi không bao giờ nép mình - tôi nhớ thế. Ông thích đứng, bất kể phải chờ bao lâu hoặc thấy khó chịu thế nào. Tôi hay tìm thấy ông đang ở trần, thường là một mình, uống trà và nghĩ ngợi.
Rồi một tiếng còi xe vang lên.
Lũ lợn và chó hoang gần quán trà chạy tán loạn, mùi bụi, cát, và phân lợn xộc vào quán. Một chiếc xe Ambassador màu trắng đỗ xịch bên ngoài. Bố tôi đặt ly trà xuống, đi ra.
Cửa xe Ambassador mở, một gã đàn ông bước ra, tay cầm sổ ghi chép. Các khách hàng khác của quán trà tiếp tục ăn uống, nhưng bố tôi và những người khác xếp thành hàng một.
Gã đàn ông cầm sổ không phải là Trâu Nước, gã ta chỉ là trợ lý.
Còn một người khác ngồi trong chiếc Ambassador, một người chắc mập với cái đầu hói có ngấn, với nét bình thản trên gương mặt, và một khẩu súng ngắn trên đùi.
Hắn là Trâu Nước.
Trâu Nước là một trong những địa chủ ở Laxmangarh. Còn ba kẻ khác, mỗi kẻ có một biệt danh gắn với tham vọng thầm kín trong lòng.
Cò là một lão béo ú với bộ ria màu mỡ, dày và cong vút ở hai bên mép. Lão sở hữu con sông chảy bên ngoài làng, kiếm chác một phần trong mỗi mẻ cá bắt được từ sông của bất kì ngư dân nào, và thu phí tất cả chủ thuyền đi đường sông đến làng chúng tôi.
Anh của lão tên là Lợn Rừng. Lão này làm chủ mọi thửa ruộng tốt ở Laxmangarh. Nếu muốn làm trên đất đó, ngài phải quỳ rạp dưới chân lão, chạm vào lớp bụi dưới dép lão, và cam tâm chấp nhận mức tiền công mà lão đưa ra. Khi chạy ngang qua đàn bà con gái, xe lão thường dừng lại, cửa kính kéo xuống để lộ cái mặt cười nhăn nhở; hai chiếc răng ở hai bên mũi lão rất dài và cong, tựa cặp nanh nhỏ.
Lão Quạ sở hữu mảnh đất xấu nhất, chính là sườn đồi lởm chởm và khô cằn quanh pháo đài. Lão thu tiền của những người chăn dê đưa dê lên đấy gặm cỏ. Nếu họ không có tiền, lão sẽ thọc cái ấy vào họ từ sau lưng, vì vậy họ gọi lão là Quạ.
Trâu Nước là tên tham lam nhất bọn. Hắn ăn dần ăn mòn những chiếc xe lôi và những con đường. Vì vậy nếu ngài kéo xe, hay sử dụng đường sá, ngài phải cống nạp cho hắn một phần ba những gì ngài kiếm được, không kém một xu mẻ.
Cả bốn tên Súc vật sống trong những dinh thự kín cổng cao tường ở ngoại ô Laxmangarh - khu địa chủ. Chúng có đền riêng trong nhà, giếng và ao riêng, chẳng việc gì phải vào làng, trừ những lần đi kiếm ăn. Thuở trước, lũ con của bộ tứ Súc vật thường đánh xe con dạo quanh thị trấn; bà Kusum còn nhớ những ngày ấy. Nhưng sau khi con trai của Trâu Nước bị nhóm Naxal bắt cóc - có lẽ ngài đã nghe về nhóm này, thưa ngài Gia Bảo, vì đó là những người ưa đi loanh quanh bắn vào những kẻ nhà giàu - bộ tứ Súc vật đã gửi con cái chúng đi chỗ khác, đến Dhanbad hoặc Delhi.
Lũ con đã đi, nhưng bọn Súc vật ở lại và ăn trên ngôi làng, trên mọi thứ mọc lên từ làng, cho đến khi người khác chẳng còn gì để ăn nữa. Vì thế những người còn lại trong làng đã rời bỏ Laxmangarh để kiếm sống. Hằng năm, toàn thể đàn ông trong làng tụ tập thành đám chờ đợi ngoài quán trà. Khi xe buýt đến, họ leo lên - chen chúc bên trong, đu bám rào chắn, trèo lên nóc xe - rồi đi đến Delhi, Calcutta, và Dhanbad để tìm việc.
Một tháng trước mùa mưa, cánh đàn ông trở về từ Dhanbad, Delhi và Calcutta, gầy hơn, đen hơn, nóng nảy hơn, nhưng túi quần rủng rỉnh tiền. Đám đàn bà chờ đợi họ. Các bà nấp sau cửa và ngay khi các ông bước vào, họ nhảy bổ ra, như những con mèo hoang vồ miếng thịt tươi. Có những màn giành giật, gào khóc, la hét. Các chú bác của tôi thường chống cự tìm cách giữ lại ít tiền, nhưng bố tôi thì lần nào cũng bị trấn lột sạch sẽ. “Tôi sống sót được ở thành phố, vậy mà không thoát nổi lũ đàn bà trong nhà”, ông thường nói, rồi ngả người xuống một góc phòng. Đám đàn bà cho ông ăn sau khi đã cho ả trâu no bụng.
Tôi thường đến chỗ ông, chơi đùa quanh ông bằng cách trèo lên lưng và áp bàn tay lên trán ông, qua hai mắt - dọc sống mũi - rồi xuống cổ, đến chỗ lõm ở đáy cổ. Tôi thường nấn ná ngón tay ở đấy - nó vẫn là phần tôi ưa thích nhất trên cơ thể con người.
Cơ thể người giàu cũng giống như một chiếc gối bông thượng hạng, trắng muốt, mềm mại và tinh tươm. Cơ thể chúng tôi thì khác. Cột sống của bố tôi là một sợi dây thừng thắt nút, loại mà đàn bà trong làng dùng để kéo nước giếng; xương đòn gánh cong oằn nhô cao bao quanh cổ ông, như chiếc vòng đeo cổ chó; những vết trầy xước, nứt nẻ và sứt sẹo như những dấu roi nhỏ trên thịt da, chạy xuống ngực và eo ông, luồn qua hông, xuống tận mông. Chuyện đời của một người nghèo được viết lên chính cơ thể người ấy, bằng ngòi bút sắc.
Các chú bác tôi cũng làm việc gãy cả lưng, nhưng ai làm gì họ làm nấy. Mỗi năm, ngay khi mùa mưa vừa chớm, họ lại xách liềm sơn đen ra đồng, van nài địa chủ cho việc gì đó để làm. Rồi họ gieo hạt, làm cỏ, thu hoạch lúa ngô. Bố tôi có thể làm cùng họ; ông có thể làm trên bùn lầy của địa chủ, nhưng ông đã chọn cách khác.
Ông chọn cách chống lại nó.
Tôi đồ rằng ở nước Trung Quốc của ngài không có phu xe - hay ở bất kì quốc gia văn minh nào trên trái đất - ngài phải tận mắt nhìn thấy họ. Xe lôi bị cấm trong những khu hào nhoáng của Delhi, vì chúng có thể khiến khách ngoại quốc trông thấy và há hốc mồm vì kinh ngạc. Hãy đòi đi Old Delhi, hoặc Nizamuddin - ở đấy ngài sẽ thấy phu xe đầy đường - những người đàn ông gầy nhom như que củi, rướn người về trước từ yên xe trong lúc nhấn bàn đạp để kéo cỗ xe chở một núi bị thịt trung lưu - một lão béo ị với bà vợ béo ú và một lô lốc nào túi mua sắm, nào giỏ đi chợ.
Và khi ngài nhìn thấy những ông-que-củi này, hãy nghĩ đến bố tôi.
Bố tôi có thể là phu xe đạp - phận lừa ưa nặng - nhưng ông là người có kế hoạch.
Tôi chính là kế hoạch của ông.
Một ngày nọ, ông nổi cơn thịnh nộ quát tháo đám đàn bà trong nhà. Đó là ngày họ nói với ông rằng tôi đã bỏ học. Ông làm một việc chưa từng dám làm trước đó - quát bà nội Kusum:
“Tôi nói với mẹ bao nhiêu lần rồi: Munna phải biết đọc biết viết!”
Bà Kusum thoáng sững sờ, rồi quát lại:
“Thằng oắt này trốn học chạy về nhà - đừng có mà mắng tao! Nó là đồ hèn nhát, lại thêm thói ăn tạp. Để nó ra quán trà đi làm kiếm tiền quách cho rồi.”
Các cô bác thím và chị em gái họ của tôi vây quanh bà. Tôi bò ra sau lưng bố khi họ mách lại với ông chuyện nhát gan của tôi.
Ngài sẽ thấy khó tin khi một đứa bé ở trong làng lại sợ con thằn lằn. Chuột, rắn, khỉ, cầy tôi đều không ngán. Ngược lại - tôi yêu động vật. Nhưng thằn lằn thì... mỗi khi thấy nó, bất kể nó nhỏ cỡ nào, tôi đều như biến thành con gái. Máu tôi đông cứng.
Có một cái tủ đồ sộ trong lớp học của tôi, cửa tủ lúc nào cũng khép hờ - không ai biết nó nằm đó để dùng vào việc gì. Một buổi sáng nọ, cánh cửa hé mở, một con thằn lằn phóng ra.
Nó có màu xanh lá nhạt, như một quả ổi gần chín. Lưỡi nó thò ra thụt vào. Con vật dài ít nhất hơn nửa mét.
Mấy đứa con trai khác chưa để ý. Cho đến khi một đứa trông thấy sắc mặt tôi. Chúng đứng thành vòng tròn xung quanh tôi.
Hai đứa khóa tay tôi sau lưng và giữ chặt đầu tôi. Một đứa bắt con vật trong tay, vừa cố tình bước thật chậm vừa tiến về phía tôi. Không gây ra tiếng động gì - chỉ thụt thò cái lưỡi đỏ của nó - con thằn lằn tiến gần hơn đến mặt tôi. Tiếng cười ngày một lớn. Tôi chết điếng không thốt nên lời. Thầy giáo đang nằm ở cái bàn sau lưng tôi, ngáy o o. Mặt con thằn lằn tiến đến ngay trước mặt tôi; rồi nó há cái miệng màu xanh nhạt ra, và tôi ngất xỉu lần thứ hai trong đời.
Tôi bỏ học từ ngày ấy.
Bố không cười khi nghe chuyện của tôi. Ông hít một hơi thật sâu; tôi cảm thấy lồng ngực ông căng về phía mình.
“Mẹ đã bắt thằng Kishan nghỉ học, nhưng con đã nói với mẹ thằng nhóc này phải đi học. Mẹ nó bảo nó phải là đứa học hành tới nơi tới chốn. Mẹ nói nó...”
“Ôi thôi, đi mà nói với mẹ nó ở âm ti ấy!” bà Kusum quát. “Mẹ nó là con dở dở ương ương, cũng may cái ngữ ấy chết rồi, đội ơn trời phật. Giờ thì nghe tao đây: để thằng nhỏ đến quán trà như thằng Kishan, tao bảo rồi đấy.”
Ngày hôm sau bố đi cùng tôi đến trường, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Mới rạng sáng; lớp còn vắng. Chúng tôi đẩy cửa ra. Một tia sáng xanh mờ chiếu vào lớp học. Thầy giáo của chúng tôi là một người chuyên nhai-trầu-rồi-nhổ - và những phế tích của ông ta đã tạo thành một thứ như giấy dán chân tường màu đỏ trên ba bức tường quanh chúng tôi. Khi ông thầy đi ngủ, thường là vào buổi trưa, chúng tôi trộm trầu trong túi ông; chia cho nhau rồi nhai nhồm nhoàm; đoạn, bắt chước kiểu phun của thầy - tay chống nạnh, lưng hơi cúi gập về phía trước - thay nhau nhổ vào ba bức tường bẩn.
Một bức bích họa phai màu vẽ cảnh Đức Phật đứng giữa bầy nai và sóc trang trí bức tường thứ tư - bức tường duy nhất mà thầy giáo chừa ra. Con thằn lằn khổng lồ có màu như quả ổi gần chín đang nằm trước bức tường, giả vờ làm một trong những con vật dưới chân Đức Phật.
Nó quay đầu về phía chúng tôi; tôi thấy mắt nó sáng lên.
“Đây là con quái vật đó hả?”
Con thằn lằn nhìn dáo dác tìm chỗ thoát thân. Đoạn nó bắt đầu đập binh binh vào tường. Chẳng khác gì tôi, nó đang sợ hãi.
“Xin bố đừng giết nó - chỉ cần ném nó ra ngoài cửa sổ thôi, được không ạ?”
Thầy giáo đang nằm ở một góc phòng, nồng nặc mùi rượu, ngáy đều đều. Cạnh bên là nồi rượu mạnh mà ông đã nốc cạn đêm hôm trước - bố tôi nhặt nó lên.
Con thằn lằn bỏ chạy, ông đuổi theo sau, giáng cái nồi vào nó.
“Đừng giết nó, bố ơi - con xin bố đấy!”
Nhưng ông không chịu nghe. Ông đá cái tủ, con thằn lằn văng ra, ông lại đuổi theo nó, đập vào mọi thứ trên đường chạy và hét, “Heeyaa! Heeyaa!” Ông lấy nồi đập nó tới khi cái nồi vỡ tan tành. Ông dùng nắm tay chèn nát cổ nó. Ông đạp lên đầu nó.
Không khí trở nên cay sè: mùi thịt bị nghiền nát. Ông nhặt con thằn lằn chết lên, ném nó ra khỏi cửa.
Bố tôi ngồi thở hổn hển, dựa vào bức bích họa vẽ Đức Phật và những con vật hiền hòa xung quanh.
Khi đã lấy lại hơi thở, ông nói, “Cả cuộc đời tao đã bị đối xử như một con lừa. Tất cả những gì tao muốn là một đứa con trai - ít nhất một đứa - sống như một con người.”
Thế nào là sống như một con người, đó là một điều bí ẩn. Tôi nghĩ nó có nghĩa là giống Vijay, tay bán vé xe buýt. Xe buýt dừng trong nửa giờ tại Laxmangarh, hành khách bước xuống, rồi người bán vé xuống xe làm một tách trà. Y là người mà những kẻ làm trong quán trà bọn tôi đều ngưỡng mộ. Chúng tôi ngưỡng mộ bộ đồng phục kaki của y do-công-ty-xe-buýt-phát cho, chiếc còi bạc của y và sợi dây đỏ móc chiếc còi rơi ra từ túi quần y. Mọi thứ về y nói lên một điều: y đã công thành danh toại.
Gia đình Vijay làm nghề chăn lợn, nghĩa là thuộc thành phần thấp kém nhất trong những kẻ thấp kém, nhưng y đã làm lại cuộc đời. Bằng cách này cách khác y còn đánh bạn với cả một chính trị gia. Người ta nói y đã để cho tay chính trị gia đó thọc cái ấy từ sau lưng. Dù phải làm gì thì y cũng đã làm rồi: y là doanh nhân đầu tiên mà tôi biết. Giờ thì y có việc làm, một chiếc còi bạc, và khi thổi còi - lúc xe buýt rời bến - đám con trai trong làng điên cuồng chạy theo sau xe, đập lên thành xe, xin được đi cùng. Tôi muốn được như Vijay - có một bộ đồng phục, một tấm phiếu lương, một chiếc còi sáng bóng với tiếng kêu lanh lảnh, và mọi người nhìn tôi, cặp mắt ngầm nói, Trông cậu ta mới quan trọng làm sao.
Hai giờ sáng rồi, thưa ngài Gia Bảo. Tối nay tôi phải dừng bút tương đối sớm. Để tôi lần tay lên màn hình máy tính xem còn thông tin nào hữu ích ở đây không.
Bỏ qua một số chi tiết không cần thiết...
... ở khu Dhaula Kuan của New Delhi vào đêm 2-9, gần khách sạn ITC Maurya Sheraton...
Thế này, khách sạn Sheraton là khách sạn tốt nhất Delhi - tôi chưa vào trong, nhưng chủ cũ của tôi, ông Ashok, từng rượu chè suốt đêm ở đấy. Có một nhà hàng ở tầng hầm nghe nói là rất ngon. Ngài nên ghé thăm nếu có dịp.
Người mất tích được thuê làm tài xế lái chiếc Honda City vào thời điểm xảy ra vụ việc. Căn cứ vào đó, một vụ án được lập, số hiệu 438/05, P. S. Dhaula Kuan, Delhi. Người này cũng bị nghi ngờ có giữ một túi xách với một lượng tiền mặt nào đó bên trong.
Túi xách màu đỏ, lẽ ra họ nên nói thế. Không có màu sắc thì thông tin chẳng còn giá trị gì, phải không ạ? Chẳng trách tôi không bao giờ bị phát hiện.
Một lượng tiền mặt nào đó. Mở bất kì tờ báo nào ở đất nước này, sẽ luôn có những thứ rác rưởi thế: “Một bên liên quan nào đó đang đồn đại rằng”, hay “Một cộng đồng tôn giáo nào đókhông tin vào biện pháp ngừa thai.” Tôi ghét kiểu nói này.
Bảy trăm nghìn rupee.
Đó là số tiền mặt nhét trong chiếc túi đỏ. Tin tôi đi, cảnh sát cũng biết thế. Ngần ấy là bằng bao nhiêu tiền Trung Quốc, tôi không biết, ngài Gia Bảo ạ! Nhưng nó mua được mười chiếc máy tính xách tay Macintosh màu bạc từ Singapore.
Tấm áp phích không nhắc gì đến trường học của tôi, thưa ngài - thật là một sự sỉ nhục. Nhất định là cũng nên nói về học vấn của một người khi mô tả người ấy chứ. Họ lẽ ra có thể nói một câu gì đó, đại loại như, Nghi phạm tốt nghiệp từ ngôi trường có con thằn lằn dài hơn nửa mét màu trái ổi sắp chín, nấp trong tủ...
Nếu làng mạc Ấn Độ là thiên đường, thì trường học chính là thiên đường nằm trong thiên đường.
Lẽ ra ở trường tôi có phát thức ăn miễn phí - một chương trình của chính phủ, cấp cho mỗi đứa con trai ba cái bánh kếp giòn roti, đậu lăng vàng, hoặc dưa góp, và mọi người đều biết tại sao: thầy giáo đã cuỗm tiền cơm trưa của chúng tôi.
Thầy có một cái cớ hợp lý để cuỗm số tiền này - ông nói mình đã không được trả lương trong sáu tháng liền. Ông định tham gia cuộc biểu tình theo kiểu Gandhi để lấy lại tiền công đã mất - ông định đình công trong lớp cho đến khi phiếu lương đến bằng đường bưu điện. Tuy nhiên ông vẫn sợ mất việc, bởi dù cho tiền lương công chức nhà nước ở Ấn Độ rất bèo, nhưng lợi lộc đột xuất thì vô kể. Lần nọ, một chiếc xe tải đến trường chở theo đồng phục mà chính phủ gửi cho chúng tôi; chúng tôi chả được nhìn thấy chúng ra sao cả, vậy mà một tuần sau chúng được bày bán ở làng bên cạnh.
Không ai trách thầy giáo vì đã làm việc này. Kẻ ăn cứt thì làm sao biết thối. Mỗi người trong làng đều biết rằng mình sẽ làm như thế nếu ở vào địa vị của thầy giáo. Vài người thậm chí còn tự hào về ông ta, vì đã làm việc đó êm xuôi trót lọt.
Một buổi sáng nọ, có một người đàn ông mặc bộ trang phục đẹp nhất mà tôi từng thấy trong đời - một bộ quần áo đi đường màu xanh biển trông còn ấn tượng hơn cả đồng phục của tay bán vé xe buýt - đi bộ xuống con đường dẫn đến trường tôi. Chúng tôi xúm xít ở cửa để nhìn chằm chằm bộ đồ ông đang mặc. Ông ta cầm gậy bằng một tay và vung nó lên ngay khi trông thấy chúng tôi ở cửa. Chúng tôi chạy thụt cả vào lớp và ngồi xuống bên sách vở của mình.
Đó là một cuộc thanh tra đột xuất.
Người đàn ông mặc đồ đi đường màu xanh - ông thanh tra - dứ gậy vào mấy cái lỗ trên tường, hoặc vào những vết ố màu đỏ, trong khi thầy giáo khúm núm bên cạnh nói, “Xin lỗi ngài, xin lỗi ngài.”
“Lớp học không có giẻ lau bảng, không có ghế, không có đồng phục cho nam sinh. Mi đã ăn cắp bao nhiêu tiền từ nguồn quỹ trường, hả tay khốn nạn kia?”
Ông thanh tra viết bốn câu văn lên bảng rồi chỉ gậy vào một học sinh:
“Đọc.”
Mấy đứa con trai lần lượt đứng dậy, hấp háy mắt nhìn lên bảng.
“Dạ thưa, ngài thử gọi Balram xem,” thầy giáo nói. “Em ấy sáng dạ nhất lớp. Em ấy đọc rất thạo.”
Vậy là tôi đứng lên, dõng dạc đọc, “Chúng ta sống trên một xứ sở vẻ vang. Đức Phật đã đắc đạo tại xứ sở này. Hằng Hà đem lại sự sống cho cây cối, động vật và con người chúng ta. Chúng ta biết ơn Thượng đế vì chúng ta được sinh ra trên xứ sở này.”
“Tốt,” ông thanh tra nói. “Vậy ai là Đức Phật?”
“Một người giác ngộ ạ.”
“Một vị thần giác ngộ.”
(Má ơi! Ba mươi sáu triệu lẻ năm...!)
Ông thanh tra kêu tôi viết tên mình lên bảng; đoạn đưa đồng hồ đeo tay cho tôi xem và bảo tôi đọc giờ. Ông móc ví của mình, lấy ra một tấm ảnh nhỏ, rồi hỏi tôi, “Người này là ai, người quan trọng nhất trong cuộc đời tất cả chúng ta là ai?”
Đó là tấm ảnh của một người đàn ông tròn trịa với mái tóc bạc trắng tua tủa, hai má phúng phính, đeo hai cái khuyên tai bằng vàng dày cộm; khuôn mặt bừng sáng trí thông minh và lòng nhân ái.
“Đó là Đảng viên Đại Xã hội ạ.”
“Giỏi. Vậy thông điệp của Đảng viên Đại Xã hội gửi đến trẻ nhỏ là gì?”
Tôi đã nhìn thấy câu trả lời trên bức tường bên ngoài ngôi đền: một viên cảnh sát đã viết nó lên bằng mực đỏ.
“Bất kỳ cậu bé ở bất kỳ ngôi làng nào đều có thể lớn lên trở thành thủ tướng Ấn Độ. Đó là thông điệp của ông ấy đến toàn thể trẻ nhỏ ở xứ sở này.”
Ông thanh tra chĩa cây gậy vào tôi. “Cậu, anh bạn trẻ ạ, là một người thông minh, trung thực, lanh lợi trong cái đám du côn và đần độn này. Thế ở trong rừng, loài vật nào quý hiếm nhất mà mỗi thế hệ chỉ có một con?”
Tôi suy nghĩ rồi đáp:
“Cọp Trắng.”
“Đấy chính là cậu, trong cái khu rừng này.”
Trước khi đi, ông thanh tra nói, “Ta sẽ viết thư đến Patna nói họ tặng học bổng cho cậu. Cậu cần đi học ở một ngôi trường thật sự - nơi nà