← Quay lại trang sách

BUỔI SÁNG THỨ TƯ

Kính gửi...

Nhưng ta đâu cần những thủ tục này nữa, phải không thưa ngài Gia Bảo?

Đến giờ thì ta đã biết nhau rồi. Thêm nữa, tôi e rằng ta chẳng có thì giờ để khách sáo với nhau.

Hôm nay buổi trao đổi sẽ ngắn thôi, thưa ngài - khi nãy tôi đang nghe một chương trình trên đài phát thanh nói về một người tên là Castro đã tống cổ bọn nhà giàu ra khỏi đất nước và giải phóng nhân dân của ông ấy. Tôi rất thích nghe những chương trình về vĩ nhân - và trước khi tôi kịp nhận ra thì đồng hồ đã điểm 2 giờ sáng! Tôi còn muốn nghe thêm về ông Castro này, nhưng vì ngài, tôi đành phải tắt đài. Tôi sẽ kể tiếp câu chuyện ngay từ đoạn ta đang dang dở.

Ôi, dân chủ!

Thế này, ngài Gia Bảo, quyển sách mỏng nho nhỏ mà ngài sẽ được thủ tướng của chúng tôi tặng, ắt hẳn sẽ có một phần rất lớn nói về sự vẻ vang của chế độ dân chủ ở Ấn Độ - quang cảnh choáng ngợp của một tỉ người đi bỏ phiếu để quyết định tương lai mình, bằng quyền tự do bầu cử tuyệt đối, vân vân và vân vân.

Theo tôi được biết thì những người da vàng các ngài, cho dù đã đạt nhiều thành tựu trong hệ thống cống rãnh, nước uống, và huy chương vàng Olympic, vẫn không có dân chủ. Một chính trị gia nọ từng nói trên đài phát thanh rằng đó là lý do vì sao người Ấn Độ sẽ đánh bại các ngài: chúng tôi có thể không có cống rãnh, nước uống, và huy chương vàng Olympic, nhưng lại có dân chủ.

Nếu tôi tạo dựng một đất nước, tôi sẽ lắp đặt ống cống trước, sau đó đến dân chủ, rồi mới tính đến chuyện tặng sách mỏng và tượng Gandhi cho người khác, nhưng tôi thì biết gì? Tôi chỉ là một kẻ sát nhân!

Tôi không có ác cảm gì đối với chế độ dân chủ, thưa ngài Gia Bảo. Trái lại, tôi nợ nền dân chủ rất nhiều - thậm chí cả ngày sinh của mình. Chuyện xảy ra từ dạo tôi còn đập than lau bàn trong quán trà tại Laxmangarh. Có tiếng vỗ tay phát ra từ tấm ảnh chân dung của Gandhi - ông già chủ quán hò hét buộc toàn thể nhân viên dừng ngay việc đang làm để đi đến trường.

Một người đàn ông mặc đồng phục nhà nước ngồi tại bàn giáo viên trong phòng học, với một quyển sổ dài và cây bút đen. Ông ta hỏi mỗi người hai câu.

“Tên.”

“Balram Halwai.”

“Tuổi.”

“Không có tuổi.”

“Không có ngày sinh à?”

“Không ạ, bố mẹ con không ghi lại.”

Ông ta nhìn tôi, phán, “Tao nghĩ mày mười tám tuổi đấy. Theo tao thì hôm nay mày vừa tròn mười tám. Chỉ có điều mày quên thôi, đúng không?”

Tôi cúi mình trước ông. “Đúng rồi thưa ông. Con đã quên. Hôm nay là sinh nhật của con.”

“Ngoan lắm.”

Sau đó ông ta ghi vào sổ rồi bảo tôi đi. Vậy là tôi có ngày sinh nhờ chính phủ.

Tôi phải mười tám tuổi. Tất cả bọn tôi trong quán trà phải mười tám tuổi, tuổi hợp lệ để bỏ phiếu. Sắp có một cuộc bầu cử, và ông chủ quán trà đã bán chúng tôi. Ông ta bán dấu vân tay của chúng tôi - những dấu vân tay dính mực mà kẻ mù chữ lăn lên phiếu bầu để làm dấu rằng mình đã bỏ phiếu. Tôi nghe lén được chuyện này từ một người khách. Cuộc bầu cử sắp tới rất căng; ông chủ quán đã được trả giá hậu hĩnh cho mỗi người chúng tôi từ Đảng Đại Xã hội.

Chuyện là, đảng viên Đại Xã hội đã hùng cứ khu Bóng tối suốt một thập niên cho đến thời điểm diễn ra cuộc bầu cử này. Biểu tượng của đảng ông ta, đôi bàn tay phá vỡ gông cùm -hàm ý người nghèo đập tan kẻ giàu - được in bằng khuôn tô đen lên tường ở tất cả văn phòng chính phủ trong khu Bóng tối. Một số người khách ở quán trà nói rằng đảng viên Đại Xã hội ban đầu là một người tốt. Ông ta xuất hiện để thanh tẩy mọi thứ, nhưng bùn lầy của Mẹ Hằng Hà đã hút lấy ông ta. Người khác nói ông ta vốn dĩ là kẻ bẩn thỉu, nhưng đã khéo lừa phỉnh mọi người, chỉ đến giờ chúng tôi mới nhận ra chân tướng của ông ta. Dù thế nào đi nữa, dường như không ai dám gạch tên ông ta. Ông ta đã trị vì khu Bóng tối, thắng hết cuộc bầu cử này đến cuộc bầu cử khác, nhưng giờ thì quyền cai trị của ông ta đang suy yếu.

Ngài biết không, có tổng cộng chín mươi ba vụ án hình sự - cho các tội giết người, cưỡng hiếp, trộm cắp lớn, buôn lậu súng, chăn dắt gái, và nhiều tội nhỏ tương tự khác - đang chờ ngày xét xử dành cho đảng viên Đại Xã hội và các bộ trưởng của ông ta vào thời điểm hiện tại. Không dễ tuyên bố kết tội khi mà quan tòa tiến hành xét xử ở khu Bóng tối, song đã có ba lời kết án được đưa ra, và ba bộ trưởng đang ở trong tù, nhưng vẫn tiếp tục làm bộ trưởng. Bản thân đảng viên Đại Xã hội bị cáo buộc tham ô một tỉ rupee từ Bóng tối, và đã chuyển số tiền ấy vào một tài khoản ngân hàng ở một đất nước bé nhỏ xinh đẹp tại châu Âu toàn người da trắng và những đồng tiền đen.

Giờ thì ngày bầu cử đã được ấn định và tuyên bố trên đài phát thanh, cơn sốt bầu cử lại bắt đầu lan rộng lần nữa. Sau đây là ba dịch bệnh chính ở đất nước chúng tôi, thưa ngài: thương hàn, tả và sốt bầu cử. Dịch bệnh cuối cùng là kinh khủng nhất; nó khiến người ta nói lảm nhảm về những chuyện mà họ không được có ý kiến. So với lần bầu cử trước, xem ra các đối thủ của đảng viên Đại Xã hội mạnh hơn ông ta trong cuộc bầu cử này. Họ đã in sách mỏng, đi tuyên truyền bằng

micro trên xe buýt và xe tải, tuyên bố rằng họ sẽ lật đổ ông ta và kéo Hằng Hà cũng như mọi người sống trên bờ sông ra khỏi Bóng tối, đưa vào Ánh sáng.

Tại quán trà, đám người ngồi lê đôi mách ngày một hăng tiết. Người ta hớp trà rồi bàn đi tán lại những chuyện đã nói.

Liệu lần này họ có thành công không? Liệu họ có đánh bại đảng viên Đại Xã hội và chiến thắng trong cuộc bầu cử? Họ vận động đủ tiền chưa, hối lộ đủ cảnh sát chưa, và liệu có mua đủ số vân tay để thắng? Như đám hoạn quan bàn tán về kinh Kama Sutra, các cử tri ở Laxmangarh say sưa luận bàn về tình hình bầu cử.

Một sáng nọ, tôi trông thấy viên cảnh sát dùng cọ màu đỏ sơn khẩu hiệu lên bức tường ngoài ngôi đền:

CÁC BẠN CÓ MUỐN ĐƯỜNG TỐT, NƯỚC SẠCH, BỆNH VIỆN TỐT KHÔNG? NẾU CÓ, HÃY GẠCH TÊN ĐẢNG VIÊN ĐẠI XÃ HỘI!

Trong nhiều năm, các địa chủ và đảng viên Đại Xã hội đã có thỏa thuận với nhau - mọi người trong làng đều biết thỏa thuận này - nhưng năm nay thỏa thuận gặp chút rắc rối, vì thế bộ tứ Súc vật đã nhóm họp để tự lập ra một đảng phái.

Và bên dưới khẩu hiệu, viên cảnh sát viết: MẶT TRẬN XÃ HỘI CẤP TIẾN TOÀN ẤN

Chính là tên gọi đảng của nhóm địa chủ.

Trong nhiều tuần lễ trước cuộc bầu cử, những chiếc xe tải xóc lên nảy xuống đi về trên con đường bẩn thỉu ở Laxmangarh, trên xe lúc nhúc đám người cầm micro: “Vùng lên chống bọn nhà giàu!”

Vijay, tay bán vé xe buýt, luôn có mặt trên một chiếc xe trong số đó. Y đã nghỉ việc cũ và hiện đang tham gia chính trị. Đó là đặc điểm của Vijay; mỗi lần gặp lại ngài đều thấy y ưu tú hơn. Y đúng là một chính trị gia bẩm sinh. Y đeo một chiếc dây buộc đầu màu đỏ để cho thấy mình là người ủng hộ đảng viên Đại Xã hội, cứ sáng sáng lại đến trước quán trà đọc diễn văn. Đám địa chủ đưa những chiếc xe tải chở đầy người ủng hộ đến để đáp trả. Và từ những chiếc xe này, bọn đàn ông hô hào, “Đường sá! Nước nôi! Bệnh viện! Hãy gạch tên đảng viên Đại Xã hội!”

Một tuần trước khi diễn ra bầu cử, cả hai bên dừng mọi chuyến xe. Tôi nghe được chuyện gì xảy ra trong lúc lau bàn.

Chiêu của bọn Súc vật đã thành công. Đảng viên Đại xã hội đồng ý về một thỏa thuận với chúng.

Vijay cúi xuống chạm chân lão Cò tại một buổi mít tinh lớn trước quán trà. Xem ra mọi bất đồng đã được dàn xếp, lão Cò được bổ nhiệm làm chủ tịch phân nhánh đảng Đại Xã hội ở Laxmangarh. Vijay sẽ giữ chức phó.

Giờ thì cuộc mít tinh đã kết thúc. Thầy tế tiến hành nghi lễ pooja để cầu nguyện cho chiến thắng của đảng viên Đại Xã hội; món biryani[14] thịt cừu được xúc lên những đĩa giấy cúng trước đền; vào buổi tối, mọi người được uống rượu miễn phí.

Rất nhiều cảnh sát đem theo bụi mù đến làng vào sáng hôm sau. Một sĩ quan đọc to bảng hướng dẫn bầu cử ở khu chợ.

Dù họ có đang làm gì đi nữa thì đấy cũng là vì lợi ích của chúng tôi cả thôi. Các đối thủ của đảng viên Đại Xã hội sẽ tìm cách đánh cắp cuộc bầu cử từ dân nghèo chúng tôi, đoạt lấy quyền lực từ dân nghèo chúng tôi, rồi đeo gông cùm trở lại tay chúng tôi mà ông ta, Đảng viên Đại xã hội, đã âu yếm tháo ra. Chúng tôi đã sáng mắt ra chưa? Rồi sau đó, đám cảnh sát lên xe bỏ đi trong một đám bụi mờ.

“Mọi chuyện đã được an bài,” bố nói với tôi đêm hôm ấy. “Tao đã chứng kiến mười hai kì bầu cử - năm đợt tổng tuyển cử, năm đợt bầu cử tiểu bang, hai đợt bầu cử địa phương - và người khác đã bỏ phiếu cho tao mười hai lần. Nghe nói người dân ở xứ Ấn Độ kia được tự mình bỏ phiếu - ít ra phải thế chứ?”

Vào ngày bầu cử, có một người phát rồ.

Chuyện này cứ xảy ra suốt, vào mỗi kì bầu cử ở Bóng tối.

Một đồng nghiệp của bố tôi, một người đàn ông nhỏ bé có nước da đen mà chẳng ai để ý cho đến lúc này, bị một đám phu xe bao vây, trong đó có bố tôi. Họ đang tìm cách khuyên can ông ta, nhưng không mấy tha thiết.

Trước đây họ đã chứng kiến chuyện tương tự. Họ sẽ không thể ngăn cản được người đàn ông này.

Thỉnh thoảng, ngay cả ở một nơi như Laxmangarh, tia sáng mặt trời vẫn rọi xuyên qua. Tất thảy những áp phích, bài diễn văn và khẩu hiệu trên tường này có thể ám vào đầu óc người ta. Kẻ bị ám tuyên bố mình là công dân của chế độ dân chủ Ấn Độ và muốn tự mình bỏ phiếu. Đó chính là điều đã xảy ra với người phu xe này. Ông ta tuyên bố mình được tự do khỏi khu Bóng tối: ngày hôm ấy, ông ta đã tự tìm đường đến thánh địa Benaras.

Ông ta đi thẳng đến phòng bỏ phiếu ở trường. “Tôi có nghĩa vụ vùng lên chống bọn nhà giàu, đúng không?” ông hét to. “Đó là điều người ta tuyên truyền đến chúng ta mà?”

Khi ông ta đến đó, đám ủng hộ đảng viên Đại Xã hội đã viết kết quả kiểm phiếu lên tấm bảng đen treo bên ngoài: họ đã kiểm 2.341 phiếu tại phòng bỏ phiếu này. Mọi người đều bầu cho đảng viên Đại Xã hội. Vijay tay bán vé xe buýt đang đứng trên thang, đóng lên tường tấm băng rôn mang biểu tượng của đảng Đại Xã hội (đôi tay phá gông cùm). Tấm băng rôn mang khẩu hiệu:

CHÚC MỪNG ĐẢNG VIÊN ĐẠI XÃ HỘI TRƯỚC CHIẾN THẮNG ĐỒNG LÒNG TỪ LAXMANGARH!

Vijay đánh rơi đinh, búa và tấm băng rôn khi trông thấy người phu xe.

“Ông làm gì ở đây?”

“Bỏ phiếu,” ông ta quát lại. “Chứ hôm nay không phải ngày bầu cử à?”

Tôi không biết chắc chuyện gì xảy đến sau đó, ngay cả khi tôi chỉ đứng sau ông ta vài bước chân. Một đám đông đã tụ tập lại để xem ông ta từ đằng xa, nhưng khi bị cảnh sát ra đòn, chúng tôi quay người giẫm đạp lên nhau bỏ chạy. Vì vậy tôi không thấy được họ đã làm gì với người đàn ông phát rồ can đảm đó.

Tôi nghe ngóng chuyện đó vào ngày hôm sau, trong lúc đang giả vờ kì cọ một vết bẩn trên mặt bàn. Vijay và một tay cảnh sát đã vật người phu xe xuống, rồi nện ông ta tới tấp; chúng đánh ông ta bằng gậy; và khi ông ta quẫy đạp thì lại nhận thêm những cú đá. Chúng thay phiên nhau. Vijay thì đánh còn tay cảnh sát đạp lên mặt ông ta, sau đó đến lượt Vijay. Sau một lúc, cơ thể người phu xe không còn quằn quại và phản kháng nữa, nhưng chúng tiếp tục đạp lên người ông ta, cho đến khi ông ta bị đóng bẹp dí xuống đất.

Xin mạn phép dành một khoảnh khắc quay trở lại tấm áp phích TRUY NÃ đó, thưa ngài. Bị gọi là kẻ giết người: ổn thôi, tôi không phản đối gì cả. Đó là sự thực: tôi là kẻ tội đồ, một người mất nhân tính. Nhưng bị cảnh sát gọi là kẻ giết người!

Nghe mà đ. chịu nổi.

Đây là món quà lưu niệm nho nhỏ cho ngài trong chuyến thăm Ấn Độ. Balram Halwai là một gã đã biến mất, một kẻ đào tẩu, một người mà hành tung không cảnh sát nào hay biết, đúng không?

Ha!

Cảnh sát biết chính xác phải tìm tôi ở đâu. Họ sẽ tìm thấy tôi đang nghiêm túc bỏ phiếu trong ngày bầu cử tại điểm bỏ phiếu ở trường học trong làng Laxmangarh thuộc huyện Gaya, như tôi đã làm trong mỗi kì bầu cử cấp địa phương, tiểu bang và tổng tuyển cử kể từ khi tôi mười tám tuổi.

Tôi là cử tri trung thành nhất Ấn Độ, ấy vậy mà tôi vẫn chưa biết bên trong phòng bỏ phiếu nó ra làm sao.

***

Giờ thì, mặc dù sắp có bầu cử ở Dhanbad, cuộc sống vẫn tiếp diễn như thường lệ bên trong bốn bức tường của nhà lão Cò. Lão thở dài khi đôi chân bị nhấn vào nước ấm; trò chơi cricket và cầu lông vẫn diễn ra xung quanh lão; còn tôi thì vẫn tận tình tắm rửa sạch sẽ cho hai con chó Pomeran.

Rồi một ngày nọ, một khuôn mặt quen thuộc xuất hiện tại cổng. Vijay, tay bán vé xe buýt từ Laxmangarh. Người anh hùng trong tuổi thơ tôi và lần này, trong một bộ đồng phục mới. Y mặc toàn đồ trắng, đội một chiếc mũ Nehru trên đầu, nhẫn vàng ròng đeo kín mít tám ngón tay!

Dịch vụ công quả là một công việc béo bở đối với y.

Tôi đứng chờ ở cổng và nhìn theo. Lão Cò đích thân ra tiếp Vijay, và cúi mình trước y - một địa chủ cúi mình trước con trai người chăn lợn! Sự kì diệu của nền dân chủ!

Hai ngày sau, đảng viên Đại Xã hội đến nhà.

Cả nhà nhặng lên vì cuộc thăm viếng này. Ông Ashok đứng ở cổng, chờ đợi với vòng hoa nhài. Anh trai và bố ông ta đứng cạnh.

Một chiếc xe ô tô trờ đến cổng, cửa xe mở ra, và rồi khuôn mặt mà tôi đã nhìn thấy trên triệu tấm áp phích bầu cử kể từ khi tôi còn bé xuất hiện - tôi trông thấy đôi má phúng phính, mái tóc bạc trắng tua tủa, đôi hoa tai dày cộm bằng vàng.

Hôm nay Vijay đeo dây quấn đầu màu đỏ, và cầm cờ với biểu tượng phá-gông-cùm. Y hô vang, “Đảng viên Đại xã hội muôn năm!”

Con người vĩ đại chắp tay cúi chào xung quanh. Ông ta có nét mặt năm mươi/ năm mươi mà mọi chính trị gia vĩ đại ở Ấn Độ đều có. Khuôn mặt này hàm ý giờ đây nó đang yên bình - và ngài cũng sẽ bình yên nếu ngài tuân theo người chủ khuôn mặt ấy. Nhưng cùng một khuôn mặt có thể nói lên, với một chút thay đổi biểu hiện, rằng nó đã biết mặt trái của yên bình: và nó cũng có thể biến vận mệnh đối lập ấy thành vận mệnh của ngài, nếu nó muốn.

Ông Ashok đeo vòng hoa qua chiếc cổ dày như cổ bò của vĩ nhân.

“Con trai tôi đấy ạ,” lão Cò nói. “Mới về từ Mỹ.”

Đảng viên Đại Xã hội bẹo má ông Ashok. “Tốt. Chúng ta cần thêm nhiều trai tráng trở về và xây dựng Ấn Độ thành một siêu cường.”

Rồi sau đó họ đi vào nhà, mọi cánh cửa chính lẫn cửa sổ được đóng kín. Sau một lúc, đảng viên Đại Xã hội bước ra sân, nối gót theo sau là lão già, Cầy Mangut và ông Ashok.

Tôi đã cố nghe lỏm họ, giả vờ quét sân trong lúc tiến sát dần đến họ. Tôi đang vừa quét vừa nhích lại đến khoảng cách vừa đủ nghe thì bị đảng viên Đại Xã hội vỗ vào lưng.

“Con tên gì, con trai?” ông ta hỏi.

Rồi ông bảo, “Chủ con đang định chơi xỏ ta, Balram. Con nói sao về chuyện này?”

Ông Ashok trông sững sờ. Lão Cò cười cầu tài.

“Một triệu rưỡi thì nhiều quá, thưa ngài. Chúng tôi sẽ rất vui lòng thỏa thuận với ngài ạ.”

Đảng viên Đại Xã hội phẩy tay ra chiều gạt bỏ lời thỉnh cầu đó.

“Rõ thối. Ông đang vớ bẫm ở đây còn gì - khai thác than đá miễn phí từ mỏ than của chính phủ. Ông làm ăn trót lọt là nhờ tôi nhắm mắt làm ngơ. Lúc tôi tìm thấy ông, ông chỉ là một tay địa chủ làng cóc ké mà thôi - tôi đã đưa ông đến đây - tôi đã làm cho ông có được ngày nay: vậy mà thề có Chúa, ông chơi ba que xỏ lá, tôi sẽ tống ông về cái làng đấy. Tôi nói một triệu rưỡi con mẹ nó, tức có nghĩa là một triệu với...”

Ông ta phải dừng lại - ông ta đang nhai trầu, giờ thì nước cốt trầu ngập trong miệng đang bắt đầu rỉ ra. Ông ta quay qua tôi khum hai tay làm thành hình chiếc bát. Tôi lao về phía chiếc Honda City để lấy cái ống nhổ.

Khi tôi trở lại với cái ống nhổ, ông ta lạnh lùng quay sang Cầy Mangut bảo, “Con trai, con cầm cái ống nhổ cho ta một chút nhé?”

Cầy Mangut chẳng chịu nhúc nhích, vì thế đảng viên Đại Xã hội đón cái ống nhổ từ tay tôi và chìa nó ra.

“Cầm đi nào, con trai.”

Cầy Mangut cầm lên.

Sau đó đảng viên Đại Xã hội nhổ vào cái ống, ba lần.

Đôi tay Cầy Mangut run bần bật, mặt trắng bệch vì ngượng.

“Cám ơn nhé, con trai,” đảng viên Đại Xã hội vừa nói vừa lau mép. Ông ta quay sang tôi và gãi trán. “Ta nói đến đâu rồi nào?”

Mãn nguyện rồi nhé. Đấy chính là mặt tích cực của đảng viên Đại Xã hội. Ông ta làm bẽ mặt toàn thể chủ nô của chúng tôi - vì thế mà chúng tôi cứ bỏ phiếu chọn ông ấy.

Đêm hôm đó, tiếp tục dàn cảnh quét sân, tôi tiến đến sát bố con lão Cò; họ đang ngồi trên băng ghế, cầm những chiếc ly thủy tinh đựng chất lỏng màu vàng và bàn bạc. Ngài Mukesh vừa dứt lời; ông già đã lắc đầu.

“Chúng ta không thể làm thế, Mukesh ạ. Chúng ta cần hắn.”

“Con bảo bố này. Bây giờ chúng ta đâu cần hắn nữa. Ta có thể đi thẳng đến Delhi. Hiện ta đã có mối mang ở đấy cả rồi.”

“Con đồng ý với anh Mukesh, thưa bố. Chúng ta không thể để hắn đối xử với mình như thế này nữa - làm như chúng ta là đầy tớ của hắn vậy.”

“Im nào, Ashok. Để Mukesh và ta bàn chuyện.”

Tôi quét sân những hai lần và dỏng tai nghe ngóng. Đoạn tôi căng lại tấm lưới cầu lông đã chùng của bà Pinky để có thể đứng gần họ.

Nhưng cặp mắt ngờ vực Nepal đã phát hiện ra tôi: “Đừng bén mảng vào sân. Đi về phòng ngồi chờ ông chủ gọi.”

“Được thôi.”

Ram Bahadur liếc tôi, nên tôi đành nói, “Được thôi, thưa ông.”

(Những kẻ hầu người hạ thường vô tình bị ám ảnh với việc được đầy tớ khác gọi bằng “ông”, thưa ngài.)

Sáng hôm sau, tôi đang sấy lông cho Puddles và Cuddles sau khi đã tắm gội cho chúng, thì Ram Bahadur đến trước tôi hỏi, “Mày có bao giờ đến Delhi chưa?”

Tôi lắc đầu.

“Một tuần nữa họ sẽ đi Delhi. Ông Ashok và bà Pinky. Họ sẽ đến đấy trong ba tháng.”

Tôi quỳ xuống, chĩa chiếc máy sấy xuống dưới chân Cuddles, vờ như không quan tâm, rồi cố tỏ ra thật bình thản hỏi, “Tại sao?”

Ông già Nepal nhún vai. Ai mà biết? Ta chỉ là kẻ hầu người hạ thôi mà. Tuy nhiên, có một điều ông ta biết rõ.

“Chỉ một tài xế được đi theo. Và người này sẽ được trả ba nghìn rupee một tháng - đó là số tiền họ sẽ trả tại Delhi.”

Chiếc máy sấy rơi khỏi tay tôi. “Thật không? Ba nghìn?”

“Ừ.”

“Liệu họ có đưa con đi cùng không, thưa ông?” Tôi đứng dậy khẩn khoản hỏi. “Ông làm sao để họ chọn con được không?”

“Họ sẽ chọn Ram Persad,” ông ta nhếch đôi mép Nepal của mình. “Trừ phi...”

“Trừ phi?”

Ông ta xoa xoa ngón tay ra dấu đếm tiền.

Năm nghìn rupee - và ông ta sẽ bảo với lão Cò nên chọn tôi đi Delhi.

“Năm nghìn - con đào đâu ra ngần ấy tiền? Nhà con vét sạch tiền lương của con rồi!”

“Ái chà. Nếu thế thì Ram Persad sẽ đi. Còn mày” - ông ta chỉ vào Cuddles và Puddles - “sẽ suốt đời tắm chó thôi, con ạ.”

***

Tôi choàng tỉnh, hai lỗ mũi nóng ran.

Trời vẫn còn tối.

Ram Persad đã thức giấc. Hắn đang ngồi trên giường, thái hành tây trên tấm thớt gỗ: tôi nghe tiếng dao chạm vào thớt tách, tách, tách.

Hắn ta thái hành sớm thế làm cái quái gì nhỉ? Tôi nghĩ ngợi, xoay người sang bên nhắm mắt lại. Tôi muốn ngủ tiếp, song tiếng dao chạm vào thớt tách, tách, tách nhấn mạnh một điều:

Con người này có một bí mật.

Tôi tỉnh ngủ, trong khi gã này ngồi trên giường thái hành. Tôi thử tìm hiểu sự việc.

Tôi nhận thấy gì ở Ram Persad trong mấy ngày gần đây?

Có một điều, hơi thở của hắn đã trở nên nồng nặc hơn. Ngay cả bà Pinky cũng than phiền. Hắn đột nhiên không ăn cùng chúng tôi nữa, trong nhà lẫn bên ngoài. Thậm chí vào ngày chủ nhật, khi có món gà, Ram Persad cũng không chịu ăn chung, viện cớ đã ăn rồi, hoặc là không đói, hoặc...

Vẫn tiếp tục thái hành, còn tôi nghĩ ngợi miên man trong đêm tối.

Tôi quan sát hắn cả ngày. Đến tối, như tôi dự đoán, hắn tiến về phía cổng.

Sau khi dò la người đầu bếp, tôi biết được rằng Ram Persad dạo này tối nào cũng đi ra khỏi nhà vào cùng một thời điểm. Tôi đi theo ở một cự li nhất định. Hắn đi vào một khu ở thành phố mà tôi chưa từng thấy, băng qua vài con ngõ. Có lúc tôi rõ ràng thấy hắn quay người lại, như thể để đảm bảo không có ai theo sau; rồi hắn chạy như bay.

Hắn dừng chân trước một tòa nhà hai tầng. Trên tường có một lớp lưới kim loại chia thành những ô vuông; một dãy vòi nước màu đen thò ra từ bức tường bên dưới tấm lưới. Hắn cúi xuống một cái vòi, rửa mặt, súc miệng và xối nước. Rồi hắn tháo giày. Giày dép được xếp lại nhét vào các ô vuông trên tấm lưới - hắn cũng làm thế với đôi giày của mình. Đoạn hắn đi vào trong tòa nhà và đóng cửa lại.

Tôi vỗ trán.

Tôi mới ngốc làm sao! “Là tháng Ramadan! Họ không được ăn uống gì suốt cả ngày.”

Tôi chạy về nhà đi tìm ông quản gia người Nepal. Ông ta đang đứng ở cổng, dùng một nhánh cây neem[15] gãy để chà răng - thói quen của nhiều người nghèo trên đất nước tôi khi họ muốn làm sạch răng, thưa ngài thủ tướng.

“Con mới xem một bộ phim, thưa ông.”

“Biến đi.”

“Một phim hay lắm ông ạ. Có nhiều màn nhảy múa. Nhân vật anh hùng là một người Hồi giáo. Tên là Mohammad Mohammad.”

“Đừng làm mất thì giờ của tao, nhóc con. Nếu không có gì làm thì đi lau xe đi.”

“Cái gã Mohammad Mohammad này là một người Hồi giáo nghèo khổ, thật thà, siêng năng, nhưng gã ta lại muốn làm việc trong nhà của một địa chủ độc ác, vốn không thích tín đồ Hồi giáo - vì thế, để có việc làm nuôi sống gia đình đang chết đói của mình, hắn nói mình là tín đồ Ấn Độ giáo! Và lấy tên là Ram Persad.”

Nhánh cây rơi khỏi cái miệng Nepal.

“Và ông biết nhờ đâu hắn đã làm trót lọt vụ này không? Vì ông quản gia người Nepal ở ngôi nhà này, một người được chủ tin cậy tuyệt đối, một người có nhiệm vụ kiểm tra nhân thân của Ram Persad, đã đồng lõa trong vụ lừa bịp này!”

Trước khi ông ta kịp chạy, tôi túm cổ áo ông ta. Về mặt kĩ thuật, trong những sự vụ người-hầu-với-nhau thế này, đó là tất cả những gì ngài cần làm để nói lên: “Tao đã thắng.” Nhưng nếu ngài định làm như thế, tốt hơn hết là làm cho ra trò, đúng không? Vì thế, tiện tay, tôi tát ông ta.

Từ giờ phút đó, tôi là đầy tớ số một trong ngôi nhà này.

Tôi chạy trở lại đền thờ Hồi giáo. Namaz[16] giờ này hẳn đã kết thúc. Và quả thực, Ram Persad - hay Mohammad hay bất kể tên thật của hắn là gì - đã rời đền, lấy giày từ khung cửa sổ, vỗ vỗ xuống đất, xỏ chân vào, và bắt đầu bước đi. Hắn trông thấy tôi - tôi nháy mắt với hắn - và hắn biết cuộc chơi đã kết thúc.

Tôi đã làm những việc cần thiết chỉ trong vài từ ngắn ngủi.

Sau đó tôi trở về nhà. Ông quản gia Nepal đứng sau song sắt đen dõi theo tôi. Tôi lấy xâu chìa khóa của ông ta cho vào túi mình. “Pha cho tôi ít trà. Và một ít bánh bích quy.” Tôi nhón chiếc áo sơ mi ông ta đang mặc. “Tôi cũng muốn bộ đồng phục của ông nữa. Bộ của tôi cũ rồi.”

Đêm hôm ấy tôi ngủ trên giường.

Buổi sáng, có người vào phòng. Đó là cựu tài xế số một. Lẳng lặng không nói, hắn bắt đầu thu dọn. Tất cả đồ đạc gói gọn vào một chiếc túi nhỏ.

Tôi nghĩ ngợi, Cuộc đời hắn mới khổ sở làm sao, phải giấu giếm tín ngưỡng, tên tuổi của mình chỉ để xin được một chân tài xế - mà hắn quả là tài xế giỏi, miễn bàn, cả đời mình cũng không bằng nổi hắn. Một phần trong tôi muốn ngồi dậy xin lỗi hắn ngay tại đấy và nói, Anh đi mà làm tài xế ở Delhi. Anh có làm gì hại đến tôi đâu. Tha thứ cho tôi nhé, ông anh.

Tôi quay sang bên kia, đánh rắm một phát, rồi ngủ tiếp.

Khi tôi tỉnh dậy, hắn đã ra đi - hắn để lại tất cả hình ảnh các vị thần, và tôi gom chúng nhét vào giỏ. Ai mà biết nhỡ sau này có khi cần đến.

Buổi tối, ông quản gia Nepal đến chỗ tôi với nụ cười cầu cạnh trên mặt - y hệt kiểu cười đầy tớ mà ông ta đã trưng ra với lão Cò suốt cả ngày. Ông ta nói rằng, vì Ram Persad đã bỏ làm không nói một lời, nên tôi sẽ lái xe đưa ông Ashok và bà Pinky đi Delhi. Ông ta đã tự nguyện - và nhiệt tình - đề xuất tên tôi với lão Cò.

Tôi trở lại giường của mình - bây giờ tất cả đã là của tôi - duỗi thẳng chân trên đó và nói, “Hay quá. Giờ thì ông quét mấy cái mạng nhện trên trần nhà đi, được không?”

Ông ta lườm tôi, chẳng ừ hữ mà đi lấy chổi. Tôi hét to:

“Thưa ông ạ!”

Kể từ đó, mỗi buổi sáng, luôn có trà Nepal nóng và một ít bánh quy đường thơm ngon, bày trên một chiếc đĩa bằng sứ.

Anh Kishan đến cổng vào Chủ nhật hôm ấy và nghe được tin từ tôi. Tôi cứ ngỡ anh đến để xài xể tôi vì cái tội bỏ làng đi đột ngột, nhưng không ngờ anh lại sung sướng quá đỗi - nước mắt anh chảy đầm đìa. Vậy là gia đình anh sắp có người thoát khỏi Bóng tối để đến New Delhi!

“Thật đúng với những gì mẹ luôn nói. Mẹ biết em sẽ làm được.”

Hai ngày sau, tôi lái xe chở ông Ashok, Cầy Mangut và bà Pinky đến Delhi trên chiếc Honda City. Không khó tìm đường đi - tôi chỉ cần theo sau những chiếc xe buýt. Vì xe buýt và xe jeep chạy đầy đường - muốn nổ tung với hành khách chen chúc bên trong, đeo bám ngoài cửa xe, thậm chí ngồi cả trên nóc. Tất cả họ đều đi từ Bóng tối đến Delhi. Ngài trông mà cứ ngỡ cả thế giới đang di cư.

Mỗi lần vượt qua một chiếc xe buýt thế này, tôi lại mỉm cười khoái trá; tôi ước gì mình có thể hạ kính xe xuống và hét lên với họ, Tao đang đến Delhi bằng ô tô đây này - ô tô có điều hòa hẳn hoi nhá!

Nhưng tôi chắc họ nhìn thấy ngôn từ trong mắt tôi.

Tầm buổi trưa, ông Ashok vỗ vai tôi. Ngay từ đầu, thưa ngài, tôi đã có một cách hiểu điều ông ấy muốn nói, y như cách mà chó hiểu chủ. Tôi dừng xe, rồi dịch sang trái, còn ông nhích sang phải, hai cơ thể chúng tôi lướt qua nhau (gần đến nỗi lớp râu lởm chởm trên mặt ông ấy cạ vào má tôi như chiếc bàn chải cạo râu tôi dùng mỗi sáng, và mùi nước hoa từ da thịt ông ấy - một mùi hương hoa quả nồng nàn đáng yêu - xộc vào mũi tôi trong một tích tắc, trong khi mùi mồ hôi đầy tớ của tôi chà xát lên mặt ông ấy), và sau đó ông trở thành tài xế còn tôi biến thành hành khách.

Ông nổ máy xe.

Cầy Mangut, mải đọc báo từ đầu buổi, giờ trông thấy chuyện gì đã xảy ra.

“Đừng lái xe, Ashok.”

Ông ta là một người già đời, ông Cầy Mangut này. Ông ta biết phân biệt đúng sai.

“Anh nói phải - chuyện này thật kì cục,” ông Ashok đáp.

Chiếc xe dừng lại. Cơ thể chúng tôi lướt qua nhau lần nữa, mùi hương của chúng tôi được trao đổi lần nữa, và tôi lại làm tài xế kiêm người hầu, còn ông Ashok lại làm hành khách kiêm ông chủ.

Chúng tôi đến Delhi khi trời đã tối muộn.

Vẫn chưa đến ba giờ, tôi có thể nói thêm một chút nữa. Nhưng tôi muốn dừng lại, vì từ lúc này tôi phải kể cho ngài một câu chuyện mới.

Ngài có nhớ chăng, thưa ngài Gia Bảo, lần đầu tiên, có thể khi còn là một đứa bé, ngài mở nắp đậy xe ô tô và nhìn vào ruột gan nó? Ngài có nhớ những sợi dây màu cột xoắn một phần của động cơ với một phần khác, chiếc hộp đen lô nhô những cái núm vàng, những chiếc ống bí ẩn xì hơi và dầu mỡ ra tứ phía - có nhớ mọi thứ trông thần bí và kì diệu thế nào không? Khi tôi nhìn vào giai đoạn câu chuyện đời mình mở ra ở New Delhi, tôi cũng có cảm giác tương tự. Nếu ngài yêu cầu tôi giải thích sự kiện này liên hệ với sự kiện nọ như thế nào, hay một động cơ làm suy yếu hoặc mạnh thêm động cơ kế tiếp ra sao, hoặc tôi đã đi thế nào từ việc nghĩ về ông chủ như thế này sang thế kia - tôi sẽ đáp rằng bản thân tôi cũng không hiểu hết những điều ấy. Tôi không thể chắc chắn rằng chuyện này, như tôi sẽ kể, là chuyện nên kể. Tôi không thể biết chắc chính xác tại sao ông Ashok chết.

Tốt hơn hết tôi nên dừng lại ở đây.

Khi ta gặp nhau lần nữa, vào giữa đêm, nhớ nhắc tôi tăng độ sáng chiếc đèn chùm lên một chút. Câu chuyện trở nên tối tăm hơn kể từ lúc này.