← Quay lại trang sách

ĐÊM THỨ BẢY

Ngài có nghe không, ngài Gia Bảo? Tôi sẽ mở to lên cho ngài.

Bộ trưởng y tế hôm nay tuyên bố kế hoạch loại trừ bệnh sốt rét khỏi Bangalore trong năm nay. Ông đã hướng dẫn toàn bộ quan chức thành phố làm việc không ngày nghỉ cho đến khi bệnh sốt rét chỉ còn là chuyện quá khứ. Bốn mươi lăm triệu rupee sẽ được đầu tư để xóa sổ bệnh sốt rét.

Trong một tin khác, thủ hiến của bang hôm nay tuyên bố kế hoạch xóa bỏ tình trạng suy dinh dưỡng ở Bangalore trong vòng sáu tháng. Ông tuyên bố rằng đến cuối năm nay thành phố sẽ không còn một trẻ em nào bị đói. Toàn bộ quan chức sẽ làm việc chuyên tâm để đạt được mục tiêu này, ông khẳng định. Năm trăm triệu rupee sẽ được đầu tư để xóa bỏ tình trạng suy dinh dưỡng.

Trong một tin khác, bộ trưởng tài chính tuyên bố ngân sách năm nay sẽ bao gồm những khoản thúc đẩy đặc biệt để biến các ngôi làng của chúng ta thành các thiên đường công nghệ cao...

Đây là loại tin tức họ cho chúng tôi nghe trên Đài phát thanh Toàn Ấn, đêm này qua đêm khác: và ngày mai vào lúc bình minh chúng sẽ xuất hiện trên báo in. Người ta toàn nuốt những thứ rác rưởi này. Đêm này qua đêm khác, sáng nọ tiếp sáng kia. Tuyệt thật, phải không nào?

Nhưng nghe đài thế đủ rồi. Nó đã được tắt. Bây giờ hãy để tôi nhìn lên chiếc đèn chùm để tìm cảm hứng.

Ôn tiên sinh!

Bạn già!

Đêm nay chúng ta sẽ đưa câu chuyện vẻ vang này đến hồi kết. Khi tôi đang tập yoga sáng nay - đúng thế, tôi thức dậy lúc mười một giờ sáng mỗi ngày và dành ngay một giờ tập yoga - tôi bắt đầu hồi tưởng về tiến trình câu chuyện của tôi, và nhận ra tôi đã gần xong. Những gì còn lại để kể là tôi đã thay đổi từ một tên tội phạm bị săn đuổi thành một trụ cột vững chắc của xã hội Bangalore như thế nào.

Nhân tiện, thưa ngài, khi nhắc đến chủ đề yoga - cho phép tôi nói rằng một giờ hít thở sâu, yoga và thiền vào buổi sáng tạo ra sự khởi đầu hoàn hảo cho một ngày làm việc của doanh nhân. Làm thế nào để đương đầu với những căng thẳng trong công việc chó chết này mà không có yoga, tôi cũng chẳng biết. Hãy biến yoga thành môn bắt buộc trong mọi trường học Trung Quốc - đó là khuyến nghị của tôi.

Nhưng bây giờ, hãy quay lại câu chuyện nào.

Trước tiên, tôi muốn giải thích một điều về cuộc sống của kẻ trốn chạy.

Làm một kẻ chạy trốn không có nghĩa là suốt đời sống trong sợ hãi - một kẻ trốn chạy cũng có quyền được hưởng vui thú.

Tối hôm ấy trong lúc đang lau những mảnh vỡ chai Johnnie Walker trong bãi đỗ xe, tôi đã vạch kế hoạch về việc đến Bangalore như thế nào. Sẽ không đi tàu suốt - không. Có người sẽ trông thấy tôi, và rồi cảnh sát sẽ biết tôi đi đâu. Thay vào đó, tôi sẽ đổi hết tàu này đến tàu khác, đi đường chữ chi xuống Bangalore.

Dù kế hoạch của tôi bị tan thành trăm mảnh khi tôi quay lại đón Dharam - nó đang ngủ trong màn, và tôi đánh thức nó dậy, bảo với nó rằng chúng tôi sẽ đi nghỉ ở miền nam, rồi lôi nó ra - và thật khó để giữ chiếc túi đỏ trong một tay còn tay kia giữ Dharam, (vì ga tàu hỏa là nơi nguy hiểm đối với một đứa bé, ngài biết đấy - nhan nhản những kẻ khả nghi xung quanh), nhưng tôi vẫn bắt đầu di chuyển theo kiểu ngoằn ngoèo xuống miền nam từ Delhi.

Vào ngày thứ ba di chuyển như thế này, với túi đỏ trong tay, tôi có mặt ở Hyderabad, xếp hàng tại quán trà của nhà ga để mua một tách trà trước giờ tàu chạy. (Dharam đang giữ chỗ trong toa tàu.) Có một con thằn lằn nằm trên quán, tôi nhìn nó lo ngại, hi vọng nó sẽ bò đi trước khi đến phiên tôi mua trà.

Con thằn lằn bò sang trái - nó chạy trên một tờ giấy to dán trên tường - nó dừng lại một chốc, như thế, rồi phóng sang bên.

Tờ giấy lớn trên tường là tấm áp phích cảnh sát - tấm áp phích cảnh sát của tôi. Nó đã đến đây rồi. Tôi nhìn nó với một nụ cười tự hào.

Nụ cười tắt ngóm sau một giây. Vì lý do kì quặc nào đó - ngài sẽ thấy ở Ấn Độ người ta làm ăn tùy tiện thế nào - tấm áp phích của tôi lại dán chồng lên một tấm khác, của hai gã đến từ Kashmir - hai tên khủng bố bị truy nã vì đánh bom hay đại loại thế.

Ngài hẳn sẽ nghĩ, khi trông thấy những tấm áp phích này, rằng tôi cũng là một tên khủng bố. Thật là bực mình.

Tôi nhận ra mình đang bị theo dõi. Một gã chắp tay sau lưng đang nhìn vào tấm áp phích rồi nhìn tôi chăm chú. Tôi bắt rầu run lên. Tôi dịch ra xa khỏi tấm áp phích, nhưng đã quá muộn. Vừa trông thấy tôi bỏ đi, gã chạy đến chỗ tôi, nắm cổ tay tôi, rồi nhìn trừng trừng vào mặt tôi.

Rồi gã nói, “Nó nói gì? Tấm áp phích mà mày đang đọc ấy?”

“Đi mà đọc lấy.”

“Chịu.”

Giờ thì tôi hiểu tại sao gã lại chạy đến. Đó là sự tuyệt vọng của một gã mù chữ để được một gã biết đọc chú ý đến. Nghe giọng nói của gã tôi biết gã cũng đến từ Bóng tối.

“Đấy là danh sách truy nã tuần này,” tôi đáp. “Hai thằng ấy là khủng bố. Từ Kashmir.”

“Bọn chúng làm gì?”

“Chúng làm nổ tung một trường học. Chúng giết chết tám trẻ em.”

“Còn thằng này? Thằng có ria mép ấy?” Gã gõ đốt tay phải lên tấm ảnh của tôi.

“Đấy là người bắt được bọn chúng.”

“Hắn làm thế nào?”

Để làm ra vẻ đang đọc những chữ in trên tường, tôi nheo mắt nhìn vào hai tấm áp phích, rồi mấp máy môi.

“Anh ta là tài xế. Nói là anh ta ngồi trong xe, rồi hai tên khủng bố tiến đến chỗ anh ta.”

“Rồi sao?”

“Nói là anh ta giả vờ không biết chúng là khủng bố, và chở chúng đi một vòng quanh Delhi trong xe. Sau đó anh ta dừng xe ở một nơi tối, đập nát một cái chai và dùng nó cắt cổ chúng.” Tôi cắt ngang hai cái cổ bằng ngón tay cái.

“Loại chai gì?”

“Một chai rượu Anh. Loại ấy có vẻ khá cứng.”

“Tao biết,” gã đáp. “Tao từng đi mua rượu cho chủ tao ở quầy rượu Anh thứ sáu hàng tuần. Ông ta thích Smir-fone.”

“Smir-noff,” tôi nói, nhưng gã chẳng nghe. Gã đang nhìn lần nữa vào tấm ảnh trong tấm áp phích.

Bỗng nhiên gã đặt tay lên vai tôi.

“Mày biết thằng trong tấm áp phích trông giống ai không?”

“Ai?” tôi hỏi.

Gã cười.

“Tao.”

Tôi nhìn mặt gã, rồi nhìn vào tấm ảnh.

“Đúng thật,” tôi nói, vỗ lưng hắn và trở về tàu.

Tôi đã bảo ngài mà: đấy có thể là khuôn mặt của một nửa số đàn ông Ấn Độ.

Và sau đó, cảm thấy tội nghiệp cho gã mù chữ ấy, nghĩ rằng gã đã chịu đựng những gì mà bố tôi hẳn đã chịu đựng tại rất nhiều nhà ga tàu hỏa - bị người lạ giễu cợt và bịp bợm - tôi mua cho gã một tách trà, trước khi trở lại tàu.

***

Thưa ngài:

Tôi không phải chính trị gia hay nghị sĩ. Chẳng có ai trong số những con người kiệt xuất ấy có thể giết người rồi thản nhiên như thể chẳng có gì xảy ra. Tôi phải mất bốn tuần ở Bangalore mới hoàn hồn được.

Trong bốn tuần ấy tôi làm đi làm lại một việc. Tôi rời khách sạn - một nơi nhỏ bé tồi tàn gần ga tàu hỏa mà tôi dọn đến sau khi đặt cọc năm trăm rupee - mỗi buổi sáng vào lúc tám giờ và đi bộ lăng quăng với một chiếc túi đầy ắp tiền trong tay trong bốn giờ đồng hồ (tôi không dám để nó lại khách sạn) trước khi trở về dùng bữa trưa.

Dharam và tôi cùng ăn với nhau. Nó chơi gì trong buổi sáng thì tôi không biết, nhưng nó rất phấn chấn. Đây là kì nghỉ đầu tiên trong đời của nó. Nụ cười của nó làm tôi vui lây.

Bữa trưa giá bốn rupee một đĩa. Thức ăn ở miền nam rất đáng giá. Dù vậy, món ăn rất lạ, rau được thái ra cho vào trong nước cà ri. Sau đó tôi đi lên phòng và ngủ. Lúc bốn giờ tôi đi xuống, gọi một gói bánh quy Parle Milk và một tách trà, vì lúc ấy tôi chưa biết uống cà phê.

Tôi rất muốn thử cà phê. Ngài thấy đấy, người nghèo ở miền bắc nước này uống trà, còn người nghèo ở miền nam uống cà phê. Ai quyết định mọi việc phải như thế, tôi không biết, nhưng nó là như thế. Vì vậy đấy là lần đầu tiên tôi ngửi mùi cà phê mỗi ngày. Tôi thèm được uống thử. Nhưng trước khi uống, ngài phải biết uống như thế nào đã. Có một nghi thức, một thói quen, đi kèm với nó khiến tôi thích mê tơi. Cà phê được đựng trong một cái cốc rồi rót vào cái ly đáy bằng, sau đó nó phải được rót ra với một lượng nhất định và nhấm nháp từng ngụm ở một tốc độ nhất định từ cái ly đáy bằng. Phải rót thế nào, phải nhấm nháp thế nào, tôi không biết. Suốt một thời gian tôi chỉ nhìn thôi.

Mất một tuần tôi mới nhận ra mọi người làm khác nhau.

Có người rót hết cà phê vào ly một lúc; người khác chẳng bao giờ dùng đến cái ly cả.

Ở đây họ đều là người lạ, tôi tự nhủ. Tất cả họ đều lần đầu uống cà phê.

Đấy là một điểm thu hút khác của Bangalore. Thành phố này đầy rẫy người ngoại tỉnh. Chẳng ai buồn bận tâm nữa.

Tôi dành bốn tuần ở trong khách sạn gần ga tàu hỏa ấy, chẳng làm gì. Tôi thừa nhận trong đầu đã nảy nhiều mối hoài nghi.

Liệu tôi có nên đi Mumbai không nhỉ? Nhưng cảnh sát cũng sẽ nghĩ ngay đến đó - trong phim ảnh mọi người đều đến Mumbai sau khi giết một ai đấy còn gì?

Calcutta! Tôi nên đến đó.

Một sáng nọ Dharam bảo, “Cậu ơi, trông cậu căng thẳng quá. Hãy đi dạo nào.” Chúng tôi đi dạo qua một công viên nơi những kẻ say xỉn nằm trên băng ghế giữa cỏ dại mọc um tùm. Chúng tôi đi ra một con đường rộng; ở phía bên kia đường có một tòa nhà bằng đá to với một con sư tử bằng vàng nằm ở trên.

“Đây là tòa nhà gì vậy cậu?”

“Tao không biết, Dharam. Chắc đấy là nơi các bộ trưởng sống ở Bangalore.”

Trên đầu hồi tòa nhà tôi trông thấy câu khẩu hiệu:

CÔNG VIỆC CỦA CHÍNH PHỦ LÀ CÔNG VIỆC CỦA THƯỢNG ĐẾ

“Cậu đang cười đấy.”

“Đúng rồi, Dharam. Tao đang cười. Tao nghĩ chúng ta sẽ có một thời gian rất tuyệt ở Bangalore,” tôi đáp và nháy mắt với nó.

Tôi dọn khỏi khách sạn rồi thuê một căn hộ. Giờ thì tôi phải kiếm kế sinh nhai ở Bangalore - tôi phải tìm xem mình thích nghi với thành phố này thế nào.

Tôi cố gắng lắng nghe tiếng nói của Bangalore, như tôi đã lắng nghe tiếng nói của Delhi.

Tôi đi xuống phố M.G. rồi ngồi tại Café Coffee Day, quán cà phê có bàn ngoài trời. Tôi có một mảnh giấy và một cây bút, và tôi viết mọi thứ mà tôi nghe lỏm được.

Tôi viết xong chương trình máy tính đó trong hai phút rưỡi.

Hôm nay một người Mỹ đề nghị mua doanh nghiệp đầu tay của tôi với giá bốn trăm nghìn đô la và tôi bảo ông ta, “Thế không đủ!”

Công ty Hewlett-Packard có tốt hơn IBM không?

Dường như mọi thứ trong thành phố đều hội tụ ở một điều.

Thuê ngoài. Có nghĩa là làm việc ở Ấn Độ cho người Mỹ qua điện thoại. Mọi thứ chảy ra từ đó - bất động sản, của cải, quyền lực, tình dục. Vì thế tôi phải tham gia trò thuê ngoài này, bằng cách này hay cách khác.

Ngày hôm sau tôi đón xe lam đến Thành phố điện tử. Tôi thấy một cây đa bên đường và ngồi xuống dưới gốc cây. Tôi ngồi đấy nhìn các tòa nhà cho đến khi trời tối và trông thấy những chiếc SUV rồ máy vào trong; rồi sau đó tôi quan sát đến hai giờ sáng, khi những chiếc SUV lao ra khỏi các tòa nhà.

Và tôi nghĩ, Chính là nó. Đấy là cách mình thích nghi.

Để tôi cắt nghĩa, thưa thủ tướng. Ngài thấy đấy, đàn ông đàn bà ở Bangalore sống như thú trong rừng. Ngủ ban ngày và rồi làm việc suốt đêm, đến hai, ba, bốn, năm giờ, tùy, vì chủ họ ở bên kia trái đất, ở Mỹ. Câu hỏi lớn: vậy còn các chàng trai cô gái - đặc biệt là các cô gái - làm sao đi từ nhà đến sở làm vào tối muộn và trở về nhà lúc ba giờ sáng? Không có hệ thống xe buýt đêm ở Bangalore, không hệ thống tàu như ở Mumbai. Mà trên xe buýt hay tàu thì các cô gái cũng không được an toàn. Đàn ông của thành phố này, thành thực mà nói, toàn một lũ súc vật.

Đấy là khi các doanh nghiệp vào cuộc.

Việc tiếp theo tôi làm là tìm đến một người bán xe Toyota Qualis trong thành phố rồi nói, bằng giọng ngọt ngào nhất, “Tôi muốn lái xe của quý vị.” Người bán xe nhìn tôi, không hiểu.

Tôi không thể tin nổi mình đã nói thế. Một ngày là tôi tớ, suốt đời là tôi tớ: bản năng luôn luôn ở đó, bên trong người, ở một nơi gần cuối cột sống. (Nếu ngài có đến văn phòng của tôi, thưa thủ tướng, biết đâu chừng tôi lại tìm cách bóp chân ngài ngay ấy chứ!)

Tôi véo lòng bàn tay trái. Tôi mỉm cười khi cứ giữ nó bị véo như thế và nói - bằng một giọng trầm, cộc lốc, “Tôi muốn thuê xe của quý vị.”

***

Công đoạn cuối cùng trong câu chuyện thành đạt đáng kinh ngạc của tôi, thưa ngài, là đi từ một doanh nhân xã hội đến một doanh nhân kinh tế.

Phần này chẳng dễ tẹo nào.

Tôi gọi điện đến tất thảy, từng người một, nhân viên của tất cả các công ty thuê ngoài ở Bangalore. Họ có cần dịch vụ taxi đón nhân viên vào buổi tối không? Họ có cần dịch vụ taxi trả nhân viên vào tối muộn không?

Và ngài biết tất cả họ nói gì đấy, lẽ dĩ nhiên.

Có một phụ nữ tương đối tốt bụng giải thích cho tôi:

“Anh muộn quá rồi. Mọi doanh nghiệp ở Bangalore đều có dịch vụ taxi đưa đón nhân viên buổi tối cả. Rất tiếc phải nói với anh như thế.”

Giống như tôi đang bắt tay từ đầu ở Dhanbad - tôi bị căng thẳng. Tôi nằm trên giường cả ngày.

Ông Ashok thì sẽ làm gì nhỉ? Tôi tự hỏi.

Rồi tôi chợt nhận ra. Tôi không đơn độc - tôi có người bên cạnh! Tôi có hàng nghìn người bên cạnh!

Ngài sẽ gặp bạn tôi khi viếng thăm Bangalore - những người đàn ông béo tốt bụng phệ xoay gậy trên phố Brigade, chọc ngoáy và làm tình làm tội những người bán hàng rong để moi tiền họ.

Tôi đang nói đến cảnh sát, dĩ nhiên rồi.

Ngày hôm sau tôi trả tiền một người địa phương làm phiên dịch - ngài biết đấy, tôi chắc rằng người miền bắc và miền nam ở nước tôi nói ngôn ngữ khác nhau - rồi đi đến đồn cảnh sát. Trong tay tôi cầm chiếc túi đỏ. Tôi hành xử như thể mình là nhân vật quan trọng, và làm cho cảnh sát trông thấy chiếc túi đỏ bằng cách đung đưa nó nhiều lần, rồi đưa cho họ tấm danh thiếp vừa mới in. Sau đó tôi đòi gặp sếp lớn ở đấy, ông thanh tra. Cuối cùng họ cho tôi vào phòng ông ấy - chiếc túi đỏ đã phát huy tác dụng.

Ông lớn ngồi tại một chiếc bàn to, bộ đồng phục kaki gắn nhiều phù hiệu sáng bóng và trên trán có nhiều chấm đỏ tôn giáo. Sau lưng ông ta là ba chân dung thần thánh. Nhưng không phải người mà tôi đang tìm.

Ôi, tạ ơn trời. Có một tấm ảnh của Gandhi nữa. Nó nằm ở góc.

Với nụ cười tươi rói - và cử chỉ namaste - tôi đưa ông ta chiếc túi đỏ. Ông ta thận trọng mở nó ra.

Tôi nói, thông qua người phiên dịch, “Thưa ông, tôi muốn dâng chút lễ vật gọi là để biểu hiện lòng biết ơn của mình đối với ông.”

Thật kinh ngạc. Ngay khi ngài đưa tiền ra, mọi người đều biết ngôn ngữ của ngài.

“Biết ơn gì cơ?” ông thanh tra hỏi bằng tiếng Hindi, nheo một mắt liếc nhìn vào túi.

“Vì tất cả những việc tốt mà ngài sắp làm cho tôi, thưa ông.”

Ông ta đếm tiền - mười nghìn rupee - lắng nghe điều tôi muốn, rồi đòi gấp đôi. Tôi đưa ông ta thêm một chút, và ông ta vui ra mặt. Tôi nói với ngài, thưa Thủ tướng, tấm áp phích của tôi nằm ngay đấy, tấm mà tôi đã nhìn thấy trước đó, trong suốt thời gian tôi ngã giá với ông ta. Tấm áp phích truy nã, với bức ảnh nhỏ lem luốc của tôi.

Hai ngày sau, tôi gọi đến người phụ nữ dễ thương ở công ty Internet từng từ chối tôi, và nghe một chuyện động trời. Dịch vụ taxi của bà ta đã bị đình chỉ. Sau một cuộc bố ráp, cảnh sát phát hiện ra hầu hết tài xế đều không có bằng lái.

“Tôi rất lấy làm tiếc, thưa bà,” tôi nói. “Tôi xin gửi đến bà lòng cảm thông. Ngoài ra, tôi xin giới thiệu công ty của mình với bà. Những Tài xế Cọp Trắng.”

“Tài xế của anh có bằng lái cả chứ?”

“Hẳn rồi, thưa bà. Bà có thể gọi điện đến cảnh sát để kiểm tra.”

Bà ta làm ngay, và gọi lại cho tôi. Tôi nghĩ cảnh sát hẳn đã nói tốt cho mình. Và đấy là cách tôi có “doanh nghiệp đầu tay” của mình - như người ta vẫn nói trong tiếng Anh.

Những ngày đầu tôi cũng làm tài xế, nhưng rồi tôi từ bỏ. Tôi không thực sự nghĩ rằng mình thích lái xe, ngài biết không? Nói chuyện vui hơn nhiều. Giờ thì doanh nghiệp đầu tay đã phát triển thành doanh nghiệp lớn mạnh. Chúng tôi có mười sáu tài xế làm việc theo ca với hai mươi sáu xe. Vâng, đúng thế: vài trăm nghìn rupee tiền của người khác, và rất nhiều nỗ lực vất vả, có thể khiến phép màu xảy ra ở đất nước này. Cộng cả bất động sản và cổ phần ngân hàng của tôi nữa thì tôi đáng giá gấp mười lăm lần số tiền mà tôi vay ông Ashok. Ngài hãy đích thân xem trong trang web của tôi. Hãy xem câu châm ngôn của tôi: “Chúng tôi đưa công nghệ tiến lên.” Bằng tiếng Anh! Hãy xem những tấm ảnh của đội xe tôi: hai mươi sáu chiếc Toyota Qualis mới cáu bóng lộn, toàn bộ gắn máy điều hòa cho những tháng mùa hè, toàn bộ kí hợp đồng với các công ty công nghệ nổi tiếng. Nếu ngài thích những chiếc SUV của tôi, nếu ngài muốn các cô cậu ở trung tâm dịch vụ khách hàng của mình được đưa đón đúng điệu, chỉ cần nhấp chuột vào dòng chữ LIÊN HỆ ASHOK SHARMA NGAY!

Vâng, Ashok! Dạo này tôi gọi mình bằng tên ấy. Ashok Sharma, doanh nhân Bắc Ấn lập nghiệp ở Bangalore.

Nếu ngài đang ngồi đây với tôi, dưới chiếc đèn chùm to này, tôi sẽ cho ngài thấy mọi bí mật kinh doanh của tôi. Ngài có thể nhìn vào màn hình chiếc máy tính Macintosh màu bạc của tôi và xem ảnh những chiếc SUV của tôi, tài xế của tôi, garage của tôi, thợ cơ khí của tôi, và các cảnh sát được lót tay của tôi.

Tất cả họ thuộc về tôi - Munna, kẻ mà theo số phận lẽ ra phải là một người làm bánh kẹo!

Ngài cũng sẽ thấy ảnh các chàng trai của tôi. Toàn bộ mười sáu người. Tôi từng là tài xế của ông chủ, nhưng bây giờ tôi là chủ của các tài xế. Tôi không đối xử với họ như kẻ hầu người hạ - tôi không tát, hay bắt nạt, hay xúc xiểm ai. Tôi cũng không làm nhục bất kì ai bằng cách gọi họ là “gia đình”. Họ là nhân viên của tôi, tôi là sếp, thế thôi. Tôi yêu cầu họ kí vào hợp đồng và tôi cũng kí, và hai bên chúng tôi phải tôn trọng hợp đồng đó. Thế thôi. Nếu họ lưu ý cách tôi nói năng, cách tôi ăn mặc, cách tôi giữ mọi thứ sạch sẽ, họ sẽ thăng tiến trong cuộc sống. Bằng không, họ sẽ làm tài xế suốt đời. Tôi để họ toàn quyền lựa chọn. Khi công việc đã xong tôi đá họ ra khỏi văn phòng: không tán gẫu, không cà phê cà pháo. Cọp Trắng không có bạn. Như thế quá nguy hiểm.

Bây giờ, bất chấp câu chuyện thành công kinh ngạc của mình, tôi không muốn mất liên lạc với những nơi chốn mà tôi được giáo dục thực sự trong đời.

Đường phố và vỉa hè.

Tôi đi dạo lăng quăng trong Bangalore vào buổi tối, hoặc lúc sáng sớm, chỉ để lắng nghe con đường.

Một tối nọ khi tôi ở gần ga tàu hỏa, tôi thấy khoảng một tá lao động tay chân tụ tập trước một bức tường và nói chuyện rì rầm. Họ nói bằng một ngôn ngữ lạ; họ là người địa phương. Tôi không cần hiểu những lời của họ để biết họ đang nói gì. Trong một thành phố có quá nhiều người đổ xô đến từ bên ngoài, họ chính là những kẻ bị bỏ rơi.

Họ đang đọc gì đấy trên tường. Tôi muốn xem nó là gì, nhưng họ dừng nói và túm tụm lại trước bức tường. Tôi phải dọa gọi cảnh sát họ mới chịu giãn ra và cho tôi thấy họ đang đọc gì.

Đó là hình ảnh đúc khuôn của đôi tay phá gông cùm:

ĐẢNG VIÊN ĐẠI XÃ HỘI SẮP ĐẾN BANGALORE

Một vài tuần sau ông ta đến. Ông ta có một buổi mít tinh rầm rộ ở đây và đọc một bài diễn văn hùng hồn, toàn nói về lửa với máu và thanh lọc đất nước khỏi những kẻ giàu có vì sẽ không còn nước sạch cho người nghèo trong mười năm nữa vì thế giới đang ngày càng nóng hơn. Tôi đứng phía sau lắng nghe. Cuối cùng mọi người vỗ tay như điên. Lòng căm phẫn hun đúc thành phố này, đó là điều chắc chắn.

Hãy mở căng tai khi ngài đến Bangalore - ở bất kì thành phố hay thị trấn nào tại Ấn Độ - và ngài sẽ nghe thấy những sự náo động, những lời đồn thổi, những mối đe dọa về sự nổi loạn. Những người đàn ông ngồi dưới cột đèn buổi tối và đọc. Những con người túm tụm vào nhau và chỉ ngón tay lên thiên đàng. Một đêm nào đó, liệu họ có tập hợp lại với nhau - liệu họ sẽ phá vỡ chiếc Chuồng Gà?

Ha!

Có lẽ phải mất một trăm năm mới có một cuộc cách mạng giải phóng người nghèo xảy ra. Tôi đọc điều này từ trang sách giáo khoa cũ kĩ mà người bán hàng ở quầy trà thường dùng để gói samosa[27]. Đây này, trong lịch sử chỉ có bốn người từng lãnh đạo những cuộc cách mạng thành công để giải phóng nô lệ và tiêu diệt chủ nô, trang này nói:

Alexander Đại đế.

Abraham Lincoln của Mỹ.

Mao của đất nước ngài.

Và một người thứ tư. Chắc là Hitler, tôi chẳng nhớ nổi. Nhưng tôi không nghĩ rằng một cái tên thứ năm sẽ sớm được đưa vào danh sách.

Một cuộc cách mạng Ấn Độ?

Không, thưa ngài. Nó sẽ không xảy ra. Người dân ở đất nước này vẫn đang chờ đợi cuộc chiến giành tự do cho họ đến từ một nơi nào khác - từ rừng rậm, từ núi non, từ Trung Quốc, từ Pakistan. Việc ấy sẽ không bao giờ xảy ra. Mỗi người phải tự tìm đường đến Benaras cho mình.

Quyển sách về cuộc cách mạng của các người nằm ở đáy bụng của các người, hỡi những thanh niên Ấn Độ. Hãy ị nó ra, và đọc.

Thay vì làm như thế, họ lại đang ngồi trước màn hình ti vi màu mà xem cricket và quảng cáo dầu gội.

Nhân nói về quảng cáo dầu gội, thưa thủ tướng, tôi phải nói rằng mái tóc màu vàng óng ấy giờ đây làm tôi phát ốm. Tôi nghĩ thật chẳng tốt chút nào cho phụ nữ có màu tóc ấy. Tôi không tin vào truyền hình hay các tấm áp phích to tướng ngoài trời của các phụ nữ da trắng mà ngài thấy nhan nhản ở Bangalore. Bây giờ tôi dựa trên kinh nghiệm cá nhân, từ thời gian tôi đến các khách sạn năm sao. (Đúng thế, thưa ngài Gia Bảo: tôi không còn đi đến “khu đèn đỏ” nữa. Thật không phải khi mua bán phụ nữ sống trong lồng chim và bị đối xử như súc vật. Tôi chỉ mua những cô gái tôi tìm được ở khách sạn năm sao.) Dựa trên kinh nghiệm của tôi, gái Ấn Độ là tốt nhất.

(Ừm, tốt thứ hai. Tôi bảo ngài, ngài Gia Bảo ạ, đấy là một trong những cảnh rùng mình nhất của một người đàn ông ở Bangalore, bắt gặp đôi mắt của hai cô gái Nepal lóe sáng nhìn ngài từ mui xe tối om của chiếc xe lam.)

Thực ra, cảnh các cô gái ngoại quốc tóc vàng này - và ngài sẽ phát hiện ra Bangalore dạo này nhan nhản các cô kiểu ấy - chỉ thuyết phục được tôi rằng người da trắng đang trên đường diệt vong. Trông họ mới hốc hác làm sao - thật yếu ớt. Ngài sẽ chẳng bao giờ trông thấy họ với một vòng bụng tử tế. Việc này tôi đổ lỗi cho tổng thống Mỹ; ông ta đã làm cho việc quan hệ đồng tính trở nên hợp pháp ở đất nước ông ta, và đàn ông giờ đây đang kết hôn với đàn ông thay vì phụ nữ. Chuyện này có trên đài phát thanh. Nó đang dẫn đến sự suy giảm số đàn ông da trắng. Rồi người da trắng lại còn dùng điện thoại di động quá nhiều, điều đó làm hỏng não họ. Đấy là chuyện có thật. Điện thoại di động có thể gây ung thư não vào làm giảm nam tính, người Nhật phát minh ra chúng để cùng lúc thu nhỏ não và tinh hoàn của đàn ông da trắng. Tôi nghe thấy điều này tại một nhà chờ xe buýt đêm hôm nọ. Cho đến trước đó tôi vẫn còn rất tự hào với chiếc Nokia của mình, khoe nó với mọi cô gái làm ở trung tâm dịch vụ khách hàng mà tôi muốn đút cái ấy của mình vào, nhưng tôi đã ném nó ngay lập tức. Mỗi khi muốn gọi cho tôi, ngài phải gọi bằng điện thoại bàn. Nó tổn hại đến việc làm ăn của tôi, nhưng não tôi quan trọng quá, thưa ngài: nó là tất cả những gì một kẻ biết tư duy có trên thế gian này.

Người da trắng sẽ bị kết liễu trong giai đoạn tôi còn sống. Còn có cả người da đen và da đỏ, nhưng tôi chẳng biết họ muốn gì - đài phát thanh không bao giờ nói về họ. Dự đoán khiêm tốn của tôi: trong vòng hai mươi năm tới, sẽ chỉ còn người da vàng và da nâu chúng ta trên đỉnh hình tháp, và chúng ta sẽ thống trị toàn thế giới. Và Thượng đế cứu vớt mọi người còn lại.

***

Bây giờ tôi nên giải thích về sự gián đoạn dài trong lần kể chuyện của tôi cách đây hai đêm.

Nó cũng sẽ cho phép tôi minh họa sự khác biệt giữa Bangalore và Laxmangarh. Xin hiểu cho, ngài Gia Bảo, không phải cứ đến Bangalore là ngài thấy ở đây ai cũng đạo đức ngay thẳng cả. Thành phố này còn có lũ du côn và chính trị gia nữa. Chỉ có điều ở đây, nếu một người muốn trở thành người tốt, anh ta có thể trở thành người tốt. Ở Laxmangarh, anh ta thậm chí còn không được lựa chọn. Đấy chính là điểm khác biệt giữa Ấn Độ này và Ấn Độ kia: sự lựa chọn.

Thế này, đêm hôm ấy, tôi đang ngồi đây, kể cho ngài câu chuyện đời tôi, thì chuông điện thoại bàn reo lên. Vẫn còn trò chuyện với ngài, tôi nhấc máy và nghe giọng của Mohammad Asif.

“Thưa ông, có rắc rối ạ.”

Ấy là khi tôi dừng nói chuyện với ngài.

“Rắc rối gì?” tôi hỏi. Tôi biết đêm ấy là ca trực của Mohammad Asif, vì thế tôi chuẩn bị tinh thần đón nhận điều tồi tệ nhất.

Im lặng, rồi cậu ta nói, “Con đang chở mấy cô gái về nhà thì đâm phải một thằng bé đi xe đạp. Nó chết rồi, thưa ông.”

“Gọi điện cho cảnh sát ngay,” tôi bảo.

“Nhưng ông ơi - lỗi của con. Con đã đâm vào nó, thưa ông.”

“Chính vì vậy cậu phải gọi điện cho cảnh sát.”

Cảnh sát đã có mặt khi tôi lái xe đến đấy. Chiếc Qualis đỗ bên vệ đường; các cô gái vẫn còn ngồi trong xe.

Có một cái xác, một bé trai, nằm trên mặt đất, bê bết máu.

Chiếc xe nằm trên mặt đất, vỡ nát và cong vênh.

Mohammad Asif đang đứng qua một bên, lắc đầu. Có người đang chửi bới cậu ấy - chửi bới với xúc cảm chỉ có thể thấy trên gương mặt của thân nhân một người đã chết. Viên cảnh sát tại hiện trường ngăn mọi người lại. Y gật đầu khi trông thấy tôi. Đến nay chúng tôi biết nhau quá rõ rồi.

“Đấy là anh trai của thằng bé bị chết, thưa ông,” y thì thào vào tai tôi. “Nó đang nổi cơn thịnh nộ. Tôi không thể lôi nó ra khỏi đây.”

Tôi lay Mohammad Asif khỏi trạng thái lơ mơ. “Trước tiên, lấy xe tôi đưa các cô này về nhà.”

“Để nhân viên tôi đi,” tôi nói lớn tiếng với viên cảnh sát. “Cậu ta phải đưa khách về nhà. Muốn phân xử gì thì phân xử với tôi.”

“Sao ông có thể để hắn đi?” anh trai của đứa bé quát viên cảnh sát.

“Nghe này, cậu em,” tôi bảo, “tôi là chủ chiếc xe này. Cậu trút giận với tôi, đừng trút vào đầu tài xế này. Cậu ta làm theo lệnh của tôi, lái nhanh hết tốc lực. Máu nằm trên tay tôi, không phải tay cậu ấy. Các cô này cần được về nhà. Hãy đến đồn cảnh sát với tôi - tôi tình nguyện nộp mình làm vật cầm tin cho cậu. Hãy để họ đi.”

Viên cảnh sát hùa theo tôi. “Đó là ý hay đấy, chú em. Chúng ta cần khai báo vụ việc ở đồn.”

Trong khi tôi làm người anh bận tâm bằng cách chạm vào lý trí và lòng nhân từ của cậu ta, Mohammad Asif và các cô gái đã vào xe tôi và chuồn mất. Đấy là mục tiêu đầu tiên - đưa các cô gái về nhà. Tôi đã kí hợp đồng với công ty họ, và tôi tôn trọng những gì mình đã kí.

Tôi đến đồn cảnh sát với anh trai đứa bé. Những cảnh sát trực đêm mua cà phê cho tôi. Họ không đem cà phê đến cho cậu bé. Cậu ta liếc tôi khi tôi đón chiếc cốc; trông sẵn sàng xé tôi thành trăm mảnh. Tôi nhấp một ngụm.

“Trợ lý thanh tra sẽ đến đây trong năm phút nữa,” một viên cảnh sát nói.

“Đó có phải là người ghi chép vụ việc không?” người anh hỏi. “Vì từ nãy đến giờ chưa ai làm việc đó.”

Tôi nhấm nháp thêm một ít cà phê.

Viên trợ lý thanh tra ngồi tại đồn này chính là người mà tôi thường xuyên bôi trơn. Ông ta từng giúp tôi xử lý một đối thủ. Ông ta là hạng người xấu xa nhất, trong đầu chẳng có gì ngoài việc lấy tiền của những người đến phòng mình. Đồ cặn bã.

Tim tôi nhẹ nhõm khi nhác thấy ông ta. Ông ta đã đi cả một chặng đường xa trong đêm đến đồn để giúp tôi. Kẻ xấu có danh dự của kẻ xấu, người ta vẫn nói thế. Lão hiểu ngay tình hình. Phớt lờ tôi, lão đi thẳng đến chỗ người anh và nói, “Cậu muốn gì?”

“Tôi muốn nộp đơn F.I.R.[28],” người anh đáp. “Tôi muốn trình báo án mạng.”

“Án mạng gì?”

“Cái chết của em trai tôi. Bởi chiếc xe - chỉ một ngón tay vào tôi - của người này.”

Trợ lý thanh tra nhìn đồng hồ. “Trời đất, muộn rồi. Gần năm giờ rồi. Sao cậu không về nhà đi? Chúng tôi sẽ quên chuyện cậu ở đây. Chúng tôi sẽ để cậu về nhà.”

“Còn người này thì sao? Đầu tiên ông có nhốt ông ấy lại không?”

Trợ lý thanh tra đan các ngón tay vào nhau. Ông ta thở dài. “Thế này, vào lúc xảy ra tai nạn, xe đạp của em trai cậu không có đèn. Thế là phạm luật, cậu biết chứ. Còn nhiều việc khác lộ ra. Tôi hứa với cậu, mọi việc sẽ lộ ra.”

Chàng trai nhìn trừng trừng. Cậu ta lắc đầu, như thể chưa nghe rõ. “Em tôi chết rồi. Người này là kẻ giết người. Tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra ở đây.”

“Nghe này - về nhà. Tắm rửa. Cầu nguyện. Đi ngủ. Trở lại vào buổi sáng. Khi ấy chúng ta sẽ nộp đơn F.I.R., được chứ?”

Người anh cuối cùng cũng hiểu tại sao tôi đưa cậu ta đến đồn - cậu ta cuối cùng đã hiểu cái bẫy đã sập lên người cậu. Có lẽ đến lúc ấy cậu chỉ mới trông thấy cảnh sát trên phim Hindi mà thôi.

Tội nghiệp cậu bé.

“Đây là một sự vi phạm trắng trợn! Tôi sẽ gọi điện đến báo chí! Tôi sẽ gọi đến luật sư! Tôi sẽ gọi cảnh sát!”

Trợ lý thanh tra, vốn là người không dễ chọc cười, cho phép mình mỉm cười. “Chắc rồi. Gọi cảnh sát đi.”

Người anh đùng đùng bỏ ra ngoài, quát tháo những lời dọa dẫm.

“Số xe sẽ được đổi vào ngày mai,” trợ lý thanh tra nói. “Chúng tôi sẽ nói đó là một vụ đâm xe rồi bỏ chạy. Một chiếc xe khác sẽ được thế chỗ. Ở đây chúng tôi giữ những chiếc xe móp méo vì mục đích này. May cho ông là chiếc Qualis của ông đâm vào người đi xe đạp đấy.”

Tôi gật đầu.

Người đi xe đạp thiệt mạng - cảnh sát chẳng buồn ghi chép gì về vụ việc. Người đi xe máy bị thiệt mạng - họ hẳn sẽ báo cáo vụ đó. Người ngồi trong xe ô tô bị thiệt mạng - họ sẽ tống tôi vào tù.

“Ngộ nhỡ nó đi đến mấy tờ báo thì sao?”

Trợ lý thanh tra vỗ bụng. “Mọi nhà báo ở thị trấn này nằm cả trong đây rồi.”

Tôi không đưa phong bì cho ông ta ngay. Có thời gian và địa điểm để làm những việc ấy. Giờ là lúc mỉm cười, và nói cảm ơn, rồi uống cà phê nóng mà ông ta mời tôi; giờ là lúc tán gẫu về mấy đứa con trai của ông ta - cả hai đều đang học ở Mỹ, ông ta muốn chúng về để lập một công ty Internet ở Bangalore - và gật đầu và mỉm cười và khoe hàm răng trắng bóng ngừa sâu răng của tôi. Chúng tôi nhấm nháp cà phê hết tách này đến tách khác dưới tấm lịch có gương mặt nữ thần Lakshmi - bà đang đổ những đồng tiền vàng từ một chiếc lọ xuống dòng sông thịnh vượng. Phía trên bà là bức chân dung đóng khung của vị thần của tất cả các vị thần, một Mahatma Gandhi đang tươi cười.

Tuần tới tôi sẽ đi gặp ông ta lần nữa với chiếc phong bì, và rồi ông ta sẽ thôi không còn tử tế thế nữa. Ông ta sẽ đếm tiền trước mặt tôi rồi nói, Chỉ có chừng này thôi ư? Ông có biết nuôi hai đứa con trai ăn học ở trường nước ngoài tốn kém thế nào không? Ông nên xem hóa đơn American Express mà chúng gửi cho tôi hằng tháng! Và rồi ông ta sẽ đòi thêm một phong bì nữa. Rồi một cái nữa, một cái nữa, cứ như thế. Ở Ấn Độ mọi thứ đều không có điểm dừng, ngài Gia Bảo ạ, như ông Ashok vẫn thường nói quá chính xác. Ngài cứ phải chi rồi lại chi cho lũ khốn nạn ấy. Nhưng tôi than phiền về cảnh sát theo kiểu nhà giàu; không phải theo kiểu nhà nghèo.

Sự khác biệt chính là tất cả.

Ngày hôm sau, thưa ngài, tôi gọi Mohammad Asif đến văn phòng.

Cậu ta đang nhục nhã ê chề vì việc mình gây ra - tôi không cần chửi mắng cậu ấy nữa.

Và đấy không phải lỗi cậu ta. Cũng không phải lỗi của tôi. Các công ty thuê ngoài của chúng tôi rẻ tiền đến nỗi buộc các nhà điều hành taxi phải cam kết thực hiện số chuyến đưa đón không thể chấp nhận nổi mỗi đêm. Để đáp ứng lịch chạy đó, chúng tôi phải phóng nhanh vượt ẩu; chúng tôi phải đâm và làm bị thương người đi đường. Đấy là vấn đề mà nhà điều hành taxi nào ở thành phố này cũng gặp phải. Đừng đổ lỗi cho tôi.

“Đừng lo gì về chuyện ấy cả, Asif,” tôi nói. Cậu chàng trông có vẻ suy sụp quá.

Tôi đã biết cách tôn trọng người Hồi giáo, thưa ngài. Họ không phải nhóm người sáng dạ nhất, ngoại trừ bốn nhà thơ nọ, nhưng họ là những tài xế giỏi, và họ là người thật thà, nhìn chung là vậy, dù một vài gã dường như không kiềm nổi ham muốn làm nổ tung tàu hỏa hằng năm. Tôi sẽ không sa thải Asif vì chuyện này.

Nhưng tôi có bảo cậu ta tìm cho ra địa chỉ của thằng bé, người mà cậu ta đã giết chết.

Cậu ta nhìn tôi chằm chằm.

“Tại sao lại đi, thưa ông? Chúng ta chẳng cần sợ bố mẹ nó. Xin đừng làm thế.”

Tôi buộc cậu ta phải tìm địa chỉ và buộc cậu đưa cho tôi.

Tôi lấy từ két sắt ra những tờ bạc một trăm rupee mới cáu; cho vào một phong bì màu nâu. Tôi lên xe và tự lái đến chỗ ấy.

Người mẹ ra mở cửa. Bà hỏi tôi muốn gì, và tôi đáp, “Tôi là chủ hãng taxi.”

Tôi không cần nói với bà hãng nào.

Bà mời tôi cà phê đựng trong một chiếc cốc kèm một ly kim loại. Họ có phong thái thật lịch thiệp, những người Nam Ấn này.

Tôi rót cà phê vào ly, rồi nhấm nháp đúng điệu.

Có di ảnh một thiếu niên, với một vòng hoa nhài quấn quanh, treo trên tường.

Tôi không nói gì cho đến khi uống xong cà phê. Sau đó tôi đặt chiếc phong bì màu nâu lên bàn.

Một ông già bước vào phòng, và ông đứng đấy nhìn tôi trân trối.

“Trước tiên, tôi muốn gửi lời chia buồn sâu sắc đến cái chết của con trai bà. Tôi cũng từng mất nhiều người thân - quá nhiều người - nên tôi biết nỗi đau mà bà chịu đựng. Cậu ấy lẽ ra không nên chết.”

“Thứ hai, lỗi là của tôi. Không phải của người tài xế. Cảnh sát đã thả tôi đi. Đó là cách hành xử của khu rừng mà chúng ta đang sống trong đó. Nhưng tôi xin nhận trách nhiệm. Tôi xin bà tha thứ.”

Tôi chỉ vào chiếc phong bì màu nâu nằm trên bàn.

“Ở đây có hai mươi lăm nghìn rupee. Tôi đưa cho bà không phải vì tôi phải làm thế, mà vì tôi muốn thế. Bà có hiểu không ạ?”

Bà già không chịu nhận tiền.

Nhưng ông già, người bố, đang dán mắt vào chiếc phong bì. “Ít ra thì anh cũng còn chút tình người mới đến đây,” ông ta nói.

“Tôi muốn giúp người con kia của ông bà,” tôi nói. “Đó là một chàng trai dũng cảm. Cậu ta đã đương đầu với cảnh sát đêm nọ. Cậu ta có thể đến và làm tài xế ở chỗ tôi nếu ông bà muốn. Tôi sẽ chăm sóc cậu ta nếu ông bà muốn.”

Người phụ nữ đanh mặt lại và lắc đầu. Nước mắt rơi từ đôi mắt bà ta. Thế cũng dễ hiểu. Hẳn bà đã có những hi vọng dành cho cậu con trai ấy như mẹ tôi từng có đối với tôi. Nhưng người bố thì dễ bảo; đàn ông thường biết điều hơn trong những vấn đề như thế.

Tôi cảm ơn ông ta vì đã mời cà phê, cúi đầu kính cẩn trước người mẹ mất con, rồi bước đi.

Mohammad Asif đang đợi tôi trong văn phòng khi tôi quay về. Cậu ta lắc đầu hỏi, “Tại sao? Tại sao ông lại tốn nhiều tiền thế?”

Chính lúc đó tôi nghĩ, Có lẽ mình đã sai lầm. Có lẽ Asif sẽ nói với các tài xế khác rằng tôi sợ bà già ấy, và bọn họ sẽ nghĩ là họ có thể gian lận tôi. Điều đó khiến tôi hồi hộp. Tôi không thích thể hiện yếu điểm trước mặt nhân viên mình. Tôi biết nó dẫn đến hậu quả nào.

Nhưng tôi phải làm một điều gì đó khác biệt, ngài thấy không? Tôi không thể sống như Lợn Rừng và Trâu nước và lão Quạ đã sống, và có thể vẫn còn sống, ở Laxmangarh.

Bây giờ tôi đã ở trong Ánh sáng.

***

Bây giờ, điều gì xảy ra trong câu chuyện Tuần san giết người điển hình - hoặc trong phim Hindi? Một gã nghèo giết chết một người giàu. Được rồi. Sau đó gã lấy tiền. Được rồi. Nhưng rồi gã lại có những giấc mơ trong đó người chết đuổi theo gã với những ngón tay vấy máu và nói, Kẻ-giết-người, kẻ-giết-người.

Chuyện không xảy ra như thế trong đời thật. Tin tôi đi. Đó là một trong những lý do tôi không còn đi xem phim Hindi nữa.

Chỉ có một đêm hôm ấy tôi mơ thấy bà nội đuổi theo tôi trên con trâu nước, nhưng nó không bao giờ xảy ra nữa.

Loại ác mộng thực sự ngài gặp là loại khác. Ngài trằn trọc trên giường mơ rằng mình đã không làm thế - rằng ngài đã chùn tay và để ông Ashok đi - rằng ngài vẫn ở Delhi, vẫn là đầy tớ của một người khác, và rồi ngài tỉnh dậy.

Mồ hôi ngừng chảy. Nhịp tim chậm lại.

Mày đã làm thế! Mày đã giết ông ấy!

Khoảng ba tháng sau khi đến Bangalore, tôi đến một ngôi đền và thực hiện nghi lễ cuối cùng ở đấy cho tất cả bọn họ: bà Kusum, Kishan, và toàn thể cô bác, anh chị em họ, cháu trai và cháu gái họ. Tôi còn cầu nguyện cho con trâu nước. Ai mà biết ai còn sống và ai không? Rồi tôi nói với Kishan, và với bà Kusum, và với tất cả họ: “Từ nay hãy để tôi yên.”

Và họ đã làm thế, thưa ngài, nhìn chung là vậy.

Một ngày nọ tôi đọc được một câu chuyện trên báo: “Gia đình 17 người bị giết hại tại một ngôi làng ở Bắc Ấn.” Tim tôi bắt đầu đập mạnh - mười bảy? Không thể thế được - đấy không phải gia đình của tôi. Đấy chỉ là một mẩu truyện kinh dị năm centimet xuất hiện mỗi buổi sáng trên báo - họ không nói tên của ngôi làng. Chỉ nói nó nằm đâu đấy ở Bóng tối - gần Gaya. Tôi đọc đi đọc lại - mười bảy! Ở nhà không có mười bảy người... tôi thở hắt ra... Nhưng ngộ nhỡ người nào đó mới sinh con thì sao...?

Tôi vò tờ báo ném đi. Tôi thôi đọc báo trong một vài tháng sau đó. Chỉ để yên tâm.

Xem này, đây có thể là điều đã xảy đến với họ. Hoặc là lão Cò đã cho người giết họ, hoặc giết một số, số khác bị đánh đập. Bây giờ, ngay cả khi nhờ một phép màu, lão - hoặc cảnh sát - không làm thế, hàng xóm cũng sẽ xa lánh họ. Ngài thấy đấy, đứa con hư trong một gia đình làm thanh danh của cả làng tan thành cát bụi. Vì thế dân làng có thể tống cổ họ đi - và họ phải đến Delhi, hoặc Calcutta, hoặc Mumbai, để sống dưới những gầm cầu bê tông, xin thức ăn, không có hi vọng cho tương lai. Như thế chẳng hơn gì chết.

Ngài nói gì đấy, ngài Gia Bảo? Có phải tôi nghe ngài gọi tôi là con quái vật máu lạnh không?

Có một câu chuyện tôi nghĩ là mình nghe được tại một ga tàu, thưa ngài, hoặc có thể tôi đọc được trên trang giấy bị xé dùng để gói bỏng ngô mua ở chợ - tôi không nhớ nổi. Đấy là chuyện về Đức Phật. Một ngày nọ một người Bà La Môn lắt léo hỏi Đức Phật, “Bạch Đấng thế tôn, ngài xem mình là người hay là thần?”

Đức Phật mỉm cười nói, “Không là gì cả. Ta chỉ là kẻ thức tỉnh trong khi các người còn say ngủ.”

Tôi sẽ đưa ra câu trả lời tương tự cho câu hỏi của ngài, ngài Gia Bảo.

Ngài hỏi, “Mi là người hay là quỷ?”

Không là gì, tôi đáp. Tôi đã thức tỉnh, trong khi các ngài hãy còn say ngủ, và đó là sự khác biệt duy nhất giữa chúng ta.

Tôi không nên nghĩ đến họ một chút nào. Gia đình tôi ấy.

Dharam chắc chắn là không.

Đến giờ nó đã nhận biết chuyện gì xảy ra. Lúc đầu tôi bảo nó chúng tôi đi nghỉ mát, và tôi nghĩ nó tin như thế trong một hai tháng. Nó chẳng nói chẳng rằng, nhưng đôi khi tôi thấy nó trộm nhìn tôi.

Nó biết.

Buổi tối chúng tôi ăn chung, ngồi đối diện nhau tại bàn ăn, nhìn nhau và không nói gì nhiều. Sau khi nó ăn xong, tôi đưa nó một ly sữa. Hai đêm trước, sau khi nó uống sữa xong, tôi hỏi nói, “Mày có bao giờ nghĩ đến mẹ mày không?”

Không một lời.

“Bố mày?”

Nó cười mỉm với tôi rồi nói, “Cho cháu một ly sữa nữa nhé, cậu?”

Tôi đứng dậy. Nó nói thêm, “Và một bát kem nữa.”

“Kem để ăn Chủ nhật, Dharam ạ,” tôi nói.

“Không. Để ăn hôm nay.”

Và nó cười mỉm với tôi.

Ôi, nó đã biết hết mọi chuyện, tôi phải nói với ngài. Thằng lõi giở trò đe dọa. Nó sẽ giữ im lặng chừng nào tôi còn cho nó ăn. Nếu tôi đi tù, nó sẽ mất kem và sữa, phải không nào? Hẳn là nó nghĩ thế. Thế hệ mới, tôi bảo với ngài, đang lớn lên mà chẳng có đạo đức gì cả.

Nó đi học ở một ngôi trường tốt tại Bangalore - một trường tiếng Anh. Bây giờ nó phát âm tiếng Anh như con nhà giàu ấy. Nó có thể nói “pizza” như cách ông Ashok nói. (Và nó mới mê ăn pizza chứ - thằng nhãi ranh ấy.) Tôi đứng xem đầy tự hào khi nó làm phép tính chia dài ngoằng trên tờ giấy trắng tại bàn ăn. Tất cả những thứ này tôi chưa bao giờ được học.

Một ngày nào đó, tôi biết, Dharam, thằng nhóc đang uống sữa của tôi và ăn kem trong bát lớn của tôi, sẽ hỏi, Cậu không thể tha chết cho mẹ của cháu sao? Cậu không thể viết thư bảo bà ấy trốn kịp lúc sao?

Và rồi tôi sẽ nghĩ ra một câu trả lời - hoặc giết nó, tôi cho là thế. Nhưng câu hỏi ấy còn vài năm nữa mới đến. Cho đến khi ấy chúng tôi sẽ ăn tối cùng nhau, mỗi buổi tối, Dharam, người nhà cuối cùng của tôi, và tôi.

Như vậy chỉ còn một người để nhắc đến.

Chủ cũ của tôi.

Tôi nghĩ chẳng cần phải cầu nguyện đến thánh thần cho ông ấy, vì gia đình ông ấy sẽ cúng tế lễ vật đắt tiền dọc Hằng Hà cho linh hồn ông ấy. Những lời cầu nguyện của một gã nghèo có ý nghĩa gì với 36.000.004 vị thần so với những lời cầu nguyện của người giàu?

Nhưng tôi quả thật nghĩ đến ông ấy rất nhiều - và, tin hay không tùy ông, tôi có nhớ ông ấy. Ông ấy không đáng chịu số phận ấy.

Lẽ ra tôi nên cắt cổ Cầy Mangut.

***

Bây giờ, thưa ngài, một bước tiến lớn trong quan hệ Trung-Ấn đã diễn ra trong bảy đêm qua. Hindi-Chini Bhai Bhai, như người ta vẫn nói. Tôi đã kể cho ngài tất cả những gì ngài cần biết về tinh thần doanh nghiệp - nó đã được nuôi dưỡng, vượt qua khó khăn, kiên định với mục tiêu của nó, và được tưởng thưởng với huy chương vàng thành công thế nào.

Thưa ngài: dù câu chuyện của tôi đã xong, và những bí mật của tôi giờ đã là bí mật của ngài, nếu ngài cho phép, tôi sẽ chia tay ngài với một lời cuối cùng.

(Đấy là chiêu xưa như trái đất của Đảng viên Đại xã hội - ngay khi thính giả của ông ta bắt đầu ngáp, ông ta nói “một lời cuối cùng” - và rồi ông ta nói tiếp suốt hai giờ. Ha!)

Khi tôi lái xe xuống đại lộ Hosur, khi tôi rẽ vào Thành phố điện tử giai đoạn 1 và nhìn thấy các công ty lướt qua, tôi không thể diễn tả được với ngài rằng mình cảm thấy kích động thế nào. General Electric, Dell, Siemens - tất cả họ đều hiện diện tại Bangalore. Và còn nhiều nữa trên đường. Công trình xây dựng ở khắp mọi nơi. Những đống bùn khắp nơi. Những đống đá. Những đống gạch. Toàn thành phố chìm trong khói bụi, bột, bụi xi măng. Nó nằm dưới lớp mạng. Khi lớp mạng được giở lên, Bangalore sẽ trông như thế nào?

Có thể nó sẽ thành một thảm họa: khu ổ chuột, cống rãnh, khu mua sắm, tắc nghẽn giao thông, cảnh sát. Nhưng ngài không bao giờ biết. Nó có thể trở thành một thành phố tử tế, nơi con người có thể sống như con người còn con vật sống như con vật. Một Bangalore mới cho một Ấn Độ mới. Và khi đó tôi có thể nói rằng, theo cách của tôi, tôi đã giúp tạo dựng Bangalore Mới.

Tại sao không? Tôi không phải là một phần trong tất cả những thứ đang biến đổi ở đất nước này sao? Chẳng lẽ tôi không thành công trong cuộc tranh đấu mà mỗi người nghèo đều nên phát động - tranh đấu để không hứng lấy những lằn roi mà bố tôi đã chịu, không kết cục thành một đống thi thể bầy nhầy thối rữa trong bùn đen của Mẹ Hằng Hà? Đúng, còn chuyện giết người - là một việc sai trái không nên làm, miễn tranh luận về chuyện ấy. Nó đã nhuộm đen tâm hồn tôi. Toàn bộ những loại kem làm trắng da bán ngoài chợ của Ấn Độ không thể gột sạch đôi tay tôi được nữa.

Nhưng biết đâu mọi người trên thế gian này, kể cả thủ tướng chúng tôi, đã giết một ai đó hoặc người nào đó trên con đường tiến đến đỉnh cao? Hãy giết đủ số người rồi họ sẽ dựng tượng đồng cạnh Tòa nhà quốc hội ở Delhi - nhưng đấy là vinh quang, và không phải là thứ tôi theo đuổi. Tất cả những gì tôi muốn là cơ hội được làm người - và vì lẽ đó, một vụ giết người là đủ.

Điều gì xảy ra tiếp theo cho tôi? Tôi biết đó là điều ngài đang thắc mắc.

Để tôi trình bày thế này. Chiều nay, khi lái xe xuống Phố M.G., là phố mua sắm hào nhoáng của chúng tôi với rất nhiều cửa hiệu Mỹ và công ty công nghệ, tôi trông thấy nhân viên Yahoo! dựng một bảng hiệu mới bên ngoài văn phòng họ:

SÁNG KIẾN CỦA BẠN TO TÁT CHỪNG NÀO?

Tôi rời tay khỏi vô lăng và giữ nó ở khoảng cách rộng hơn dương vật con voi.

“Chừng ấy, khốn kiếp!”

Tôi yêu quý doanh nghiệp đầu tay của mình - chiếc đèn chùm này, và chiếc laptop bạc này, và hai mươi sáu chiếc Toyota Qualis này - nhưng nói thật, sớm muộn tôi cũng sẽ chán chúng. Tôi là người thuộc nhóm số một, thưa Thủ tướng. Cuối cùng, tôi sẽ phải bán doanh nghiệp này cho một gã khờ nào đấy - ý tôi là doanh nhân - và bước sang giai đoạn mới. Tôi đang nghĩ tiếp đến là bất động sản. Ngài thấy đấy, tôi luôn là người nhìn thấy “ngày mai” trong khi những người khác chỉ thấy “hôm nay”. Mai này toàn thế giới sẽ đến Bangalore. Chỉ cần lái xe đến sân bay và đếm số hộp kính và thép xây dang dở khi ngài lướt qua. Hãy nhìn những cái tên của các công ty Mỹ đang xây nên chúng. Và khi tất thảy những người Mỹ này đến đây, ngài nghĩ họ sẽ ngủ ở đâu? Trên đường ư?

Ha!

Bất kì đâu cũng có một căn hộ trống, tôi nhìn vào đấy, và tự hỏi, Mình có thể lấy của một thằng Mỹ bao nhiêu cho căn hộ này vào năm 2010? Nếu nơi ấy có tương lai trở thành nhà của một người Mỹ, tôi đặt cọc nó ngay. Bangalore chính là tương lai ngành địa ốc, ngài Gia Bảo ạ. Ngài có thể tham gia trò giết chóc nếu ngài muốn - tôi sẽ giúp ngài!

Sau ba bốn năm làm trong ngành địa ốc, tôi nghĩ mình có thể bán tất cả, lấy tiền, và mở một trường học - một trường nói tiếng Anh - cho trẻ em nghèo ở Bangalore. Một trường học mà ngài không được phép làm hỏng đầu óc bất kì ai với những lời cầu nguyện và chuyện về Thượng đế hoặc Gandhi - không có gì ngoài những thực tế cuộc sống cho lũ trẻ này. Một trường học đầy những Cọp Trắng, tháo cũi để tấn công Bangalore! Chúng tôi sẽ hạ thành phố này xuống chân mình, tôi cho ngài biết. Tôi có thể trở thành Ông chủ của Bangalore. Tôi sẽ xử lý tay trợ lý thanh tra cảnh sát ấy ngay tức thì. Tôi sẽ đặt ông ta lên xe đạp rồi bảo Asif lái chiếc Qualis đâm vào ông ta.

Tất cả những giấc mơ này - rất có thể trở thành vô nghĩa.

Ngài thấy đấy, đôi khi tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ bị bắt. Tôi nghĩ Chuồng Gà cần những người như tôi thoát ra. Nó cần những ông chủ như ông Ashok - người mà, vì vô số những tính tốt của ông ấy, không giống một ông chủ lắm - bị loại bỏ, và những đầy tớ cá biệt như tôi thế chỗ. Vào những lúc ấy, tôi hả hê rằng gia đình ông Ashok có thể treo giải một triệu đô la cho cái đầu tôi, và nó chẳng ích gì. Vị thế tôi đã thay đổi: giờ đây tôi là một trong những người không thể bị bắt ở Ấn Độ. Vào những lúc ấy, tôi nhìn lên chiếc đèn chùm này, và tôi chỉ muốn vung tay lên hò hét, to đến nỗi giọng tôi có thể át cả tiếng điện thoại trong các căn phòng ở trung tâm dịch vụ khách hàng đến người ở Mỹ:

Ta đã làm được! Ta đã thoát khỏi chuồng gà!

Nhưng vào những lúc khác một người nào đấy trên đường gọi to, “Balram”, và tôi quay đầu lại nghĩ, Mình đã nộp mạng.

Bị bắt - đó luôn luôn là một khả năng. Ở Ấn Độ mọi thứ chẳng có kết thúc, như ông Ashok thường nói. Ngài có thể đưa cảnh sát hết phong bì màu nâu và túi đỏ ngài muốn, và họ vẫn có thể làm ngài toi đời. Một người mặc đồng phục có thể một ngày nào đó chỉ ngón tay vào tôi và nói, Hết giờ rồi, Munna.

Tuy vậy cho dù tất cả những chiếc đèn chùm của tôi có rơi xuống sàn - cho dù họ tống tôi vào tù và để tất cả những tù nhân khác thọc cái ấy vào tôi - cho dù họ buộc tôi đi lên những bậc thang gỗ đến đoạn đầu đài - tôi sẽ không bao giờ nói mình đã phạm sai lầm đêm hôm ấy ở Delhi khi tôi cắt cổ chủ của mình.

Tôi sẽ nói thật là đáng giá để biết, chỉ trong một ngày, chỉ trong một giờ, chỉ trong một phút, cảm giác không phải là đầy tớ ra sao.

Tôi nghĩ mình đã sẵn sàng có con, thưa thủ tướng.

Ha!

Bạn ngài mãi mãi,

Ashok Sharma

Cọp Trắng

Của Bangalore

[email protected]