- 8 - CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO VÀ QUÂN ĐỘI-- -Từ Cách Mạng Thế Giới Đến Nguyên Trạng (Statu quo)
Chính sách ngoại giao bao giờ và ở đâu cũng là sự tiếp nối của đường lối đối nội, bởi lẽ nó là đường lối của cùng một giai cấp thống trị và theo đuổi cùng những chủ đích của giai cấp này. Sự suy thoái của đẳng cấp lãnh đạo ở Liên xô không thể không kéo theo một sự thay đổi tương ứng những chủ đích và phương pháp của ngoại giao xô viết. “Lý thuyết” chủ nghĩa xã hội trong riêng một nước, lần đầu tiên được nêu ra vào mùa thu năm 1924, có ý nghĩa là sự mong muốn tước bỏ đường lối ngoại giao Liên xô ra khỏi chương trình cách mạng quốc tế. Tuy nhiên đẳng cấp quan liêu không muốn cắt đứt quan hệ với Quốc tế cộng sản vì như thế Quốc tế này có thể trở thành một tổ chức đối lập toàn cầu, từ đó sẽ có những hậu quả khá thiệt hại cho tương quan các lực lượng ở Liên xô. Ngược lại, đường lối của Kơremlanh càng đi xa khỏi chủ nghĩa quốc tế trước đây, những người lãnh đạo càng bám chặt vào tay lái Đệ tam Quốc tế. Vẫn với các tên gọi xưa kia, Quốc tế cộng sản có nhiệm vụ phục vụ những mục tiêu mới. Mục tiêu mới đòi hỏi những con người mới. Từ năm 1923, lịch sử Quốc tế cộng sản là lịch sử đổi mới bộ tham mưu của nó ở Matxcơva và các bộ tham mưu ở các phân bộ quốc gia bằng những cuộc cách mạng cung đình, những cuộc thanh lọc có chỉ huy, những vụ khai trừ v.v… Hiện nay Quốc tế cộng sản chỉ còn là một bộ máy hoàn toàn ngoan ngoãn, sẵn sàng theo mọi dích dắc, phục vụ cho chính sách ngoại giao của Liên xô.[1]
Đẳng cấp quan liêu không chỉ đoạn tuyệt với quá khứ, nó còn mất cả năng khiếu rút những bài học chính yếu. Bài học là chính quyền xô viết không thể đứng được mười hai tháng nếu không có sự ủng hộ trực tiếp của giai cấp vô sản thế giới, trước nhất là vô sản châu Âu, và phong trào cách mạng nhân dân các nước thuộc địa. Chủ nghĩa quân phiệt Áo-Đức không thể đẩy đến cùng cuộc tấn công vào nước Nga xô viết bởi vì nó cảm thấy hơi thở nóng bỏng của cách mạng trên gáy nó. Các cuộc cách mạng Đức và Áo-Hung đã hủy bỏ hoà ước Bơret-Litôp (Brest-Litovsk) sau chín tháng. Cuộc nổi loạn của hạm đội Hắc hải, tháng tư 1919, buộc chính phủ Đệ tam Cộng hòa Pháp phải từ bỏ việc tấn công vào miền nam đất nước Liên xô. Chính do áp lực trực tiếp của công nhân Anh mà chính phủ Anh đã phải rút khỏi miền bắc tháng chín 1919. Năm 1920, sau việc hồng quân rút lui trước Vacxôvi, chỉ nhờ có một làn sóng cách mạng phản đối mạnh mẽ mới ngăn cản được các nước Liên minh giúp Ba lan giáng cho các xô viết Nga một đòn thất bại quyết định. Huân tước Cớcdon (Lord Curzon), năm 1923, khi đưa tối hậu thư cho Matxcơva đã bị trói tay vì sự kháng cự của các tổ chức công nhân ở Anh. Những sự kiện đặc biệt ấy không đứng biệt lập với nhau. Chúng đặc trưng cho giai đoạn đầu tiên, khó khăn nhất, của sự tồn tại các xô viết. Dù cách mạng chưa thắng được ở đâu, ngoài nước Nga, những hy vọng đặt vào nó (cách mạng) không phải là vô nghĩa.
Chính phủ xô viết từ đó ký những hiệp ước với các quốc gia tư sản: hiệp ước Bờrêt Litốp tháng ba 1918; hiệp ước với Ettôni tháng hai 1920; hiệp ước Riga với Ba lan tháng mười 1920; hiệp ước Rapalô (Rapallo) với Đức tháng tư 1922 và những ký kết ngoại giao khác ít quan trọng. Tuy nhiên không bao giờ chính phủ Matxcơva hoặc một thành viên trong đó lại coi những người tư sản ký kết với mình là những “người bạn của hòa bình”, càng không chủ trương cho các đảng cộng sản Đức, Ettôni hoặc Ba lan ủng hộ bằng lá phiếu các chính phủ tư sản đó. Chính vấn đề đó lại có một tầm quan trọng quyết định trong sự giáo huấn cách mạng quần chúng. Chính quyền xô viết không thể không ký hòa ước Bơret-Litôp cũng như những người đình công kiệt sức không thể khước từ những điều kiện khắc nghiệt của chủ, nhưng sự tán thành của đảng Xã hội-dân chủ Đức đối với Hiệp ước ấy, dưới hình thức giả dối bỏ phiếu trắng, đã bị những người bônsêvích phản đối, coi như ủng hộ bọn ăn cướp và hành động bạo lực của chúng. Dù rằng hiệp ước Rapalô, bốn năm sau, được ký trên cơ sở một sự bình đẳng hình thức giữa đôi bên, đảng cộng sản Đức lúc đó nếu biểu thị sự tín nhiệm vào đường lối ngoại giao của nước mình, chắc sẽ là bị trục xuất ngay khỏi Quốc tế cộng sản. Tư tưởng chủ đạo của đường lối ngoại giao Liên xô là các ký kết thương mại, ngoại giao, quân sự của Nhà nước xô viết với các đế quốc, những ký kết không thể tránh khỏi, không thể tạo ra lý do nào ngăn hãm hoặc làm yếu đi hoạt động của giai cấp vô sản trong các nước tư bản ký kết. Số phận của Nhà nước lao động cuối cùng chỉ có thể bảo đảm bằng sự phát triển của cách mạng thế giới. Trong thời kỳ chuẩn bị hội nghị Giênơ (Gênes), khi Sisêrin (Tchitchérine) đề nghị đưa một vài sửa đổi “dân chủ” vào hiến pháp xô viết để thỏa mãn “công luận” Mỹ, Lênin, trong bức công hàm ngày 23 tháng giêng 1922, nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa ngay không trì hoãn Sisêrin vào nghỉ trong một viện điều dưỡng. Nói thí dụ, nếu có ai hồi đó muốn lấy lòng đế quốc bằng cách tham gia một hiệp ước trống rỗng và giả dối như hiệp ước Kenlô (Kellog), hoặc làm giảm bớt hoạt động của Quốc tế cộng sản, Lênin chắc sẽ không quên đề nghị tống kẻ có đầu óc canh tân ấy vào nhà thương điên – và chắc chắn ông sẽ không bị phản đối trong bộ chính trị.
Thời đó, những người lãnh đạo tỏ ra đặc biệt cứng rắn trong những gì thuộc về ảo tưởng hòa bình chủ nghĩa đủ loại như hội Quốc liên, an ninh tập thể, trọng tài, giải trừ binh bị v.v… chỉ coi đó là những thủ đoạn ru ngủ sự cảnh giác của quần chúng công nhân để rồi trói tay họ khi chiến tranh bùng nổ. Chương trình của đảng do Lênin vạch ra và được đại hội 1919 chấp nhận, về vấn đề này, có đoạn viết, không chút lẫn lộn: “Áp lực ngày càng tăng của giai cấp vô sản và nhất là thắng lợi của vô sản trong một số nước làm tăng sức kháng cự của bọn bóc lột và đẩy tư bản quốc tế đến những hình thức liên kết mới (Hội Quốc liên, v.v…) tổ chức có hệ thống sự bóc lột nhân dân thế giới trên qui mô toàn cầu, trước hết là tìm cách đàn áp phong trào cách mạng vô sản của tất cả các nước. Tất cả những cái đó không tránh khỏi kéo theo những cuộc nội chiến trong một số nước, đồng lượt với những cuộc chiến tranh cách mạng tự bảo vệ của các nước vô sản và các dân tộc bị áp bức nổi dậy chống các nước đế quốc. Trong những điều kiện ấy, các khẩu hiệu của hòa bình chủ nghĩa như là giải trừ binh bị quốc tế trong chế độ tư bản, các tòa án làm trọng tài, v.v… không những mang tính không tưởng phản động mà đối với những người lao động còn là sự lừa bịp hiển nhiên nhằm tước vũ khí của họ và khiến họ từ bỏ nhiệm vụ tước bỏ vũ khí bọn bóc lột”. Những dòng chữ ấy trong chương trình bônsêvích như đã tiên đoán và phê phán thẳng tay đường lối đối ngoại của Liên xô hiện nay, đường lối của Quốc tế cộng sản và của các “người bạn” hòa bình chủ nghĩa của họ trong khắp năm châu…
Sau một thời kỳ can thiệp và bao vây, áp lực kinh tế và quân sự của thế giới tư bản đối với Liên bang xô viết đã nhẹ đi nhiều, không như người ta đã lo ngại. Châu Âu vẫn còn sống trong khung cảnh của cuộc chiến tranh vừa qua chứ không trong khung cảnh của cuộc chiến tranh sắp tới. Tiếp đến là một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cực kỳ trầm trọng, nhấn chìm các giai cấp thống trị trên thế giới trong sự mệt mỏi rã rời. Tình hình đó cho phép Liên xô rảnh tay làm cuộc thí nghiệm với kế hoạch năm năm lần thứ nhất, đất nước lại rơi vào tình trạng nội chiến, đói kém và dịch bệnh. Những năm đầu của kế hoạch năm năm lần thứ hai mang lại một sự cải tiến rõ rệt tình hình trong nước, giữa lúc bắt đầu giảm nhẹ cơn khủng hoảng trong các nước tư bản; những hy vọng, tham vọng, nôn nóng lại được phục hồi, cuối cùng là việc vũ trang tái hoạt. Dưới mắt chúng tôi, nguy cơ một cuộc tấn công phối hợp vào Liên xô chỉ có tính chất cụ thể khi Liên xô vẫn còn lẻ loi; khi “phần sáu của địa cầu” một phần lớn vẫn còn là vương quốc của sự man rợ cổ sơ: khi năng suất lao động ở đó, mặc dù có quốc hữu hóa các phương tiện sản xuất, vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với các nước tư bản; cuối cùng, khi – và đây là sự việc chính - những đội ngũ của vô sản thế giới bị đánh bại, thiếu tự tin và thiếu sự lãnh đạo chắc chắn. Cho nên cuộc cách mạng Tháng mười mà những người lãnh đạo nó coi là giai đoạn mở đầu của cách mạng thế giới, do tình thế, phải tạm thời coi là một nhân tố tự thân, cuộc cách mạng đó đã vạch rõ, trong giai đoạn mới này của lịch sử, sự lệ thuộc của nó vào tình hình phát triển của phong trào quốc tế. Một lần nữa lại càng tỏ rõ câu hỏi lịch sử “ai sẽ thắng?” không thể giải quyết được trong phạm vi biên giới quốc gia; rằng những thành công hay thất bại trong một nước chỉ là để chuẩn bị những điều kiện nhiều hoặc ít thuận lợi cho một giải pháp quốc tế của vấn đề.
Công bằng mà nói, đẳng cấp quan liêu xô viết đã có một kinh nghiệm dồi dào trong việc dẫn đạo quần chúng, hoặc để ru ngủ, hoặc để chia rẽ, làm yếu họ, hoặc đơn thuần lừa phỉnh để rồi chuyên chế đối với họ. Nhưng chính cũng vì lẽ đó, bọn quan liêu đã mất hết khả năng giáo dục cách mạng cho quần chúng. Đã bóp nghẹt tính tự phát sáng kiến của quần chúng trong nước mình, họ (bọn quan liêu) không thể gây được trên thế giới tư duy phê phán và tinh thần táo bạo cách mạng. Với tư cách lãnh đạo và đặc quyền, họ đánh giá cao sự ủng hộ và tình hữu nghị của bọn cấp tiến tư sản, nghị viện cải lương, quan liêu công đoàn phương Tây hơn là sự ủng hộ của công nhân lao động cách xa họ một vực thẳm. Lúc này không phải lúc viết lịch sử sự xuống dốc và suy thoái của Đệ tam Quốc tế, đề tài này tác giả đã dành ra nhiều bài nghiên cứu đặc biệt, đã được dịch ra trong hầu hết thứ tiếng các nước văn minh. Sự việc cần nói tới là với tư cách người lãnh đạo Quốc tế cộng sản, đẳng cấp quan liêu xô viết, dốt nát và vô trách nhiệm, bảo thủ và thấm sâu một tinh thần quốc gia thiển cận, chỉ đem lại cho phong trào công nhân thế giới những tai ương chướng họa. Như một thứ quả báo lịch sử, vị trí quốc tế của Liên xô trong giờ phút hiện nay được quyết định bởi những thất bại của vô sản thế giới hơn là những kết quả thắng lợi của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước riêng lẻ. Chỉ cần nhắc lại sự thất bại của cách mạng Trung quốc năm 1925-27 đã cởi trói cho chủ nghĩa quân phiệt Nhật bản ở Viễn đông và sự thất bại của giai cấp vô sản Đức đã dẫn đến thắng lợi của Hitle và sự vũ trang điên cuồng của Đệ tam Raisơ (Reich) - đế chính Đức - tất cả, đều là những kết quả của đường lối của Quốc tế cộng sản.
Phản bội cách mạng thế giới, nhưng tự cho là bị cách mạng thế giới phản bội, đẳng cấp quan liêu tecmido tự đặt cho mình mục tiêu chính là “trung hòa” giai cấp tư sản. Nhằm mục tiêu đó, họ phải tỏ vẻ bề ngoài ôn hòa và vững chắc của con người đứng ra bảo vệ trật tự. Nưng để tỏ vẻ lâu dài phải tiến đến đó thật sự. Sự chuyển hóa hữu cơ của giới lãnh đạo đã chuẩn bị đầy đủ điều kiện cho việc đó. Cứ lùi dần trước những hậu quả của sai lầm bản thân, đẳng cấp quan liêu cuối cùng đi đến chỗ, để bảo đảm an ninh cho Liên xô, phải quan niệm sự toàn vẹn của Liên xô trong hệ thống nguyên trạng (statu quo) của Tây Âu. Còn gì tốt hơn một hiệp ước vĩnh viễn không xâm phạm giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản? Công thức hiện nay của đường lối đối ngoại chính thức, viết bằng tiếng nói ước lệ mà giới ngoại giao xô viết và Quốc tế cộng sản vừa công bố, đáng lẽ phải nói bằng tiếng nói cách mạng, thì lại viết: “Chúng tôi không muốn một tấc đất nào của nước ngoài, nhưng chúng tôi cũng không nhường ai một tấc đất của chúng tôi”. Làm như là những cuộc xung đột chỉ đơn thuần về đất đai chứ không phải cuộc đấu tranh thế giới giữa hai hệ thống không thể dung hòa!
Khi Liên xô tưởng là khôn ngoan nhường cho Nhật bản con đường sắt phía đông Trung quốc, hành động yếu đuối ấy, do kết quả thất bại của cuộc cách mạng Trung quốc, lại được ca ngợi là một biểu thị của sức mạnh và là điều bảo đảm cho sự phục vụ hòa bình. Thật ra là giao nộp cho quân thù một con đường chiến lược cực kỳ quan trọng, chính phủ xô viết tạo điều kiện cho Nhật bản sau này xâm lược dễ dàng phần bắc Trung quốc và xâm phạm vào Mông cổ. Sự hy sinh bắt buộc không phải là sự trung hòa một hiểm họa, may lắm nó chỉ là một bước dừng ngắn hạn; và nó kích thích đến tột độ sự tham lam của đám lộng quyền quân phiệt ở Đông kinh.
Vấn đề Mông cổ là vấn đề các vị trí chiến lược tiên tiến của Nhật bản trong cuộc chiến tranh với Liên xô. Chính phủ Liên xô lần này buộc phải tuyên bố trả lời bằng chiến tranh nếu có sự xâm lược Mông cổ. Nhưng ở đây không phải là bảo vệ “lãnh thổ chúng ta”: Mông cổ là một quốc gia độc lập. Bảo vệ biên giới Liên xô một cách thụ động, có thể coi là đủ, khi biên giới đó không bị đe dọa một cách thật sự. Nhưng bảo vệ Liên xô thật sự là phải làm yếu các chỗ đứng của chủ nghĩa đế quốc, và củng cố vị trí của giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. Một tương quan lực lượng bất lợi có thể dẫn chúng ta đến chỗ phải nhường rất nhiều đất đai lãnh thổ, như lúc phải ký hòa ước Bơret-Litôp, rồi đến hòa ước Riga và cuối cùng khi phải nhượng đường sắt phía đông Trung quốc. Cuộc chiến đấu để thay đổi thuận lợi tương quan lực lượng thế giới đặt cho Nhà nước lao động nhiệm vụ thường xuyên, là phải giúp đỡ các phong trào giải phóng dân tộc, nhiệm vụ chủ yếu và đúng là không dung hòa được với đường lối bảo vệ tình hình nguyên trạng (statu quo).
Hội Quốc Liên Và Quốc Tế Cộng Sản
Do thắng lợi của Đức quốc xã, sự xích lại gần với Pháp, chẳng bao lâu thể hiện bằng một hiệp ước quân sự, có lợi cho Pháp, là người chủ yếu gìn giữ tình hình nguyên trạng, nhiều hơn là có lợi cho Liên xô. Theo hiệp ước đó, sự viện trợ quân sự của Liên xô cho Pháp hứa không điều kiện; ngược lại, sự viện trợ của Pháp cho Liên xô phải chịu điều kiện có sự đồng ý trước của Anh và Ý, điều này mở ra một môi trường không giới hạn cho những mưu đồ chống Liên xô. Trong dịp quân đội Hitle tiến vào vùng sông Ranh, các sự kiện đã chứng tỏ nếu Matxcơva tỏ ra cứng rắn hơn, có thể buộc Pháp phải có những đảm bảo chắc chắn hơn, nếu như các hiệp ước có tác động bảo đảm, trong một thời kỳ có những bước ngoặt đột ngột, khủng hoảng ngoại giao thường xuyên, xích lại gần nhau và đoạn tuyệt. Nhưng không phải là lần đầu, người ta thấy ngoại giao Liên xô tỏ thái độ cứng rắn trong cuộc đấu tranh với lao động nước mình ngàn lần hơn là trong các cuộc thương thuyết với các nhà ngoại giao tư sản.
Luận chứng cho rằng sự viện trợ của Liên xô đối với Pháp sẽ ít hiệu lực vì thiếu một đường biên giới chung giữa Liên xô và Đức (Reich) không thể coi là nghiêm chỉnh. Ở trường hợp Đức xâm lược Liên xô, kẻ xâm lược tự nhiên sẽ tìm ra đường biên giới cần thiết. Ở trường hợp Đức xâm lược Áo, Tiệp khắc, Pháp, Ba lan không thể đứng trung lập lấy một ngày; nếu Ba lan làm tròn nghĩa vụ đồng minh đối với Pháp, họ sẽ phải mở ngay biên giới cho hồng quân; nếu ngược lại, Ba lan xé hiệp ước liên minh, họ sẽ trở thành kẻ trợ thủ của Đức và Liên xô tìm ra cái “biên giới chung” chẳng khó khăn gì. Vả lại các “biên giới” hải phận và không phận trong chiến tranh tương lai sẽ đóng một vai trò cũng lớn như các đường biên giới trên đất liền.
Việc Liên xô nhập hội Quốc liên được trình bày trong nước, xuyên qua một cuộc tuyên truyền xứng với Gơben (Goebbels), như là một thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và là kết quả của “áp lực” vô sản thế giới, thật ra nó được chấp thuận là sau khi giai cấp tư sản nhận thấy hiểm họa cách mạng đã suy yếu tới cùng cực. Đó không phải là thắng lợi của Liên xô mà là sự đầu hàng của đẳng cấp quan liêu tecmido trước thể chế ở Giơnevơ, một thể chế đã bị phá hoại sâu sắc mà cương lĩnh bônsêvích đã cho chúng ta biết, “đem mọi cố gắng trực tiếp để đàn áp các phong trào cách mạng”. Cái gì đã thay đổi căn bản từ ngày hiến chương của chủ nghĩa bônsêvích được chấp nhận? Bản chất của hội Quốc liên? Chức năng của hòa bình chủ nghĩa trong xã hội tư bản? Hay đường lối chính trị của Liên xô? Đặt vấn đề là đã trả lời.
Kinh nghiệm đã nhanh chóng chứng tỏ sự tham gia hội Quốc liên không đem lại lợi ích thực tiễn có thể được bảo đảm bằng những hiệp ước riêng lẻ với các quốc gia tư sản, mà ngược lại, đặt ra những hạn chế và nghĩa vụ mà Liên xô phải thực hiện chu đáo vì cái uy tín bảo thủ mới mẻ của mình. Sự cần thiết phải thích ứng đường lối của mình với chính trị của Pháp và các đồng minh đã buộc Liên xô phải có một thái độ hết sức mâu thuẫn trong cuộc xung đột Ý - Á (Abixini). Trong khi Lítvinôp (Litvinov), cái bóng của Lavan (Laval) ở Giơnevơ, nói lên lòng biết ơn đối với nhà ngoại giao Pháp và Anh vì những cố gắng “đem lại hòa bình”, đã kết thúc may mắn bằng sự chiếm lĩnh Abixini, dầu lửa ở Côcadơ của Liên xô tiếp tục cung ứng cho hạm đội Ý. Người ta có thể hiểu rằng chính phủ Matxcơva tránh bãi bỏ công khai một hiệp định thương mại nhưng các công đoàn xô viết hoàn toàn không buộc phải tôn trọng các công việc của bộ ngoại thương. Trên thực tế, sự ngừng xuất cảng dầu lửa xô viết sang Ý, theo quyết định của các công đoàn xô viết, chắc chắn sẽ là khởi điểm cả một phong trào tẩy chay quốc tế có hiệu lực hơn rất nhiều những “trừng phạt” xảo trá, tính toán của các nhà ngoại giao và pháp lý đã thỏa thuận với Muytxôlini (Mussolini). Và nếu các công đoàn xô viết năm 1926 công khai góp quỹ hàng triệu rúp để ủng hộ cuộc đình công các thợ mỏ Anh, lần này tuyệt đối không làm gì cả là vì tầng lớp quan liêu lãnh đạo đã cấm họ mọi sáng kiến như thế, chủ yếu là để làm vừa lòng Pháp. Nhưng trong cuộc chiến tranh sắp tới, không một liên minh quân sự nào bù được cho Liên xô sự mất tín nhiệm của nhân dân các thuộc địa và quần chúng cần lao nói chung.
Lẽ nào người ta lại không hiểu điều đó ở Kơremlanh? Cơ quan không chính thức ở Matxcơva trả lời chúng ta: “Mục đích chủ yếu của phát xít Đức là cô lập Liên xô.. Thế ư? Nhưng Liên xô ngày nay có nhiều bạn hơn lúc nào hết trên thế giới” [Tin Tức, (Izvestia) 17 tháng chín 1935]. Giai cấp vô sản Ý ở dưới gót sắt của chủ nghĩa phát xít; cách mạng Trung quốc bị đánh bại; giai cấp vô sản Đức bị đánh bại sâu sắc đến mức các cuộc bầu cử của Hitle không gặp một sự phản kháng nào của vô sản; giai cấp vô sản Áo bị trói chặt tay chân; các đảng cách mạng vùng Ban căng bị đặt ngoài vòng pháp luật; ở Pháp và Tây ban nha công nhân là chiếc xe moóc chạy sau giai cấp tư sản cấp tiến. Thế mà chính phủ xô viết, từ khi vào Hội Quốc liên có “nhiều bạn hơn bao giờ hết trên thế giới”! Cái lối khoe khoang, thoạt nhìn có vẻ khuếch đại, sẽ hết tính chất khoe khoang nếu ta gắn nó không phải với Nhà nước lao động mà với những người lãnh đạo nó. Bởi vì đúng là những thất bại đau xót của vô sản thế giới đã cho phép tầng lớp quan liêu xô viết tiếm quyền trong đất nước của mình và ít nhiều thu được cảm tình của “công luận” các nước tư bản. Quốc tế cộng sản càng ít khả năng đe dọa các vị trí của tư bản, chính phủ ở Kơremlanh càng dễ thân thiện với giai cấp tư sản Pháp, Tiệp và các nước khác. Như vậy sức mạnh của quan liêu, bên trong cũng như bên ngoài, tiến theo tỷ lệ đảo ngược với sức mạnh của Liên xô, quốc gia xã hội chủ nghĩa và nền móng của cách mạng vô sản. Nhưng đây mới là mặt phải của chiếc mề đay; còn mặt trái nữa.
Tháng mười một 1934, Lôi Gioocgiơ (Lloyd George), người mà lời nói và hành động luôn luôn thay đổi, nhưng không thiếu những ánh chớp thông minh sáng suốt, đã nhắc nhở Hạ nghị viện về việc lên án nước Đức phát xít đang trở thành thành trì vững chắc nhất của châu Âu đứng trước chủ nghĩa cộng sản. “Một ngày kia chúng ta sẽ chào họ là bạn!” Lời nói đầy ý nghĩa! Những lời khen nửa bao dung, nửa mỉa mai của giai cấp tư sản thế giới đối với Kơremlanh không bảo đảm hòa bình chút nào, cũng không làm giảm nhẹ nguy cơ chiến tranh chút nào. Giai cấp tư sản thế giới quan tâm đến sự tiến hóa của chế độ quan liêu Liên xô đặc biệt dưới góc độ thay đổi các hình thái sở hữu. Napôlêông đệ nhất, mặc dù đã ly khai hoàn toàn với các truyền thống Giacôbanh, lên ngôi vua và phục hồi đạo thiên chúa, vẫn là đối tượng căm thù của tất cả các giai cấp phong kiến thống trị châu Âu, bởi vì ông ta tiếp tục bảo vệ chế độ sở hữu mới sinh ra từ cách mạng. Chừng nào độc quyền ngoại thương chưa bị hủy bỏ, chừng nào các quyền của tư bản chưa được phục hồi, mặc cho những người lãnh đạo khéo léo đến đâu, trước mắt giai cấp tư sản toàn thế giới, Liên xô vẫn là một kẻ thù không thể giải hòa và Đức quốc xã vẫn là một người bạn, không phải của hôm nay thì ít ra cũng là của ngày mai. Trong cuộc thương thuyết giữa Bactu (Barthou) và Lavan (Laval) và Matxcơva, giai cấp đại tư sản Pháp nhất thiết cự tuyệt không chơi con bài Liên xô mặc dù tính nghiêm trọng của hiểm họa Hitle và chuyển biến đột ngột của đảng cộng sản Pháp sang chủ nghĩa yêu nước. Sau việc ký hiệp ước Pháp-Xô, Lavan bị cánh tả lên án đã đem bóng ma Matxcơva ra dọa Bá linh, nhưng thực tế là tìm cách xích lại gần Bá linh và La mã chống lại Matxcơva. Những lời phẩm bình ấy có lẽ đã đi trước sự việc một chút nhưng không mâu thuẫn tí nào với tiến trình bình thường của sự việc.
Dù người ta có ý kiến như thế nào về lợi và hại của hiệp ước Pháp-Xô, không có đường lối cách mạng nghiêm chỉnh nào có thể phủ nhận Nhà nước xô viết cái quyền tìm một chỗ dựa tạm thời bằng những hiệp định ký kết với các đế quốc này hay đế quốc khác. Điều cần thiết là phải nêu cho quần chúng thấy thật rõ ràng và trung thực vị trí của một hiệp định chiến thuật như thế nào trong hệ thống toàn bộ các lực lượng lịch sử. Đặc biệt, hoàn toàn không cần phải dựa vào mâu thuẫn giữa Pháp và Đức để lý tưởng hóa đồng minh tư sản hoặc lý tưởng hóa mưu mô nhất thời của đế quốc được ngụy trang bởi Hội Quốc liên. Thế nhưng ngoại giao của Liên xô, theo sau nó là của Đệ tam quốc tế, chuyển có hệ thống những đồng minh nhất thời của Matxcơva thành những “người bạn của hòa bình”, lừa dối công nhân trong khi nói về “an ninh tập thể” và về “giải trừ binh bị” và từ đó trở thành một chi nhánh chính trị của đế quốc trong lòng quần chúng lao động.
Cuộc phỏng vấn đáng ghi nhớ Stalin trả lời ông Rôi Hauớc (Roy Howard), chủ tịch hội báo chí Cơrưp-Hauớc (Scripps-Howard Newspapers), ngày 1 tháng ba 1935, là một tài liệu vô giá. Nó chứng tỏ sự mù quáng của quan liêu trong những vấn đề quan trọng của chính trị thế giới và sự giả dối của những quan hệ giữa các thủ lĩnh Liên xô và phong trào lao động thế giới. Về câu hỏi: “Chiến tranh có phải là không tránh khỏi không”? Stalin trả lời: “Tôi cho rằng lập trường của những người bạn của Hòa bình đang được củng cố; họ có thể làm việc giữa ban ngày, họ được dư luận quần chúng ủng hộ, họ có những phương tiện như là Hội Quốc liên”. Chẳng có một tý ý nghĩa gì thực tiễn trong những lời nói này! Các quốc gia tư sản không hề có chia ra là “bạn” và “thù” của hòa bình; lại càng không có “hòa bình” tự thân nó. Mỗi nước đế quốc thì quan tâm duy trì hòa bình của họ và càng quan tâm hơn khi cái hòa bình ấy trở tành gánh nặng cho các địch thủ của họ. Công thức chung cho Stalin, Banđuynh (Baldwin), Lêông Bơlom (Léon Blum) và những người khác: “Hòa bình sẽ thật sự được bảo đảm nếu tất cả các quốc gia nhóm họp lại trong Hội Quốc liên để bảo vệ nó”. Câu nói ấy chỉ có nghĩa hòa bình sẽ được bảo đảm nếu không có lý do gì để xâm phạm đến nó. Ý kiến đó nhất định là đúng nhưng không có gì phong phú. Các cường quốc đứng ngoài Hội Quốc liên rõ ràng thích tự do hoạt động hơn là cái khái niệm trừu tượng: “hòa bình”. Tại sao họ thích tự do hoạt động? Sẽ đến lúc họ chứng tỏ cho ta thấy những quốc gia xin rút khỏi Hội Quốc liên như Nhật bản và Đức, hoặc “xin ra” tạm thời như Ý, đều có những lý do đầy đủ. Sự ly khai của họ với Hội Quốc liên chỉ làm thay đổi hình thức ngoại giao của những mâu thuẫn hiện có, nhưng không đụng đến những mâu thuẫn ấy về cơ bản và cũng không đụng đến bản chất của Hội Quốc liên. Những người yêu công bằng, thề trung thành tuyệt đối với Hội Quốc liên có ý đồ kiên định lợi dụng hội này để duy trì nền hòa bình của họ. Nhưng không có sự đồng thuận giữa họ với nhau. Anh thì sẵn sàng kéo dài hòa bình bằng cách hy sinh quyền lợi của Pháp ở châu Âu hoặc châu Phi. Pháp thì sẵn sàng hy sinh sự an ninh giao thông đường biển của đế quốc Anh để được sự ủng hộ của Ý. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của mình, mỗi cường quốc lại sẵn sàng cần đến chiến tranh, một cuộc chiến tranh, đối với họ, lẽ cố nhiên sẽ là chiến tranh chính đáng nhất trong các cuộc chiến tranh. Cuối cùng các tiểu nhược quốc không còn cách nào hơn là tìm nơi ẩn nấp dưới mái nhà của Hội Quốc liên, và sẽ đứng không phải về phía hòa bình mà về phía nhóm mạnh nhất trong chiến tranh.
Hội Quốc liên bảo vệ nguyên trạng, đó không phải là tổ chức của “hòa bình” mà là của bạo lực đế quốc, một thiểu số chống lại tối đại đa số nhân loại. “Trật tự” ấy chỉ duy trì được bằng những cuộc chiến tranh lớn, nhỏ, không ngừng, hôm nay ở các nước thuộc địa, ngày mai giữa các chính quốc. Sự trung thành của đế quốc vào nguyên trạng chỉ có tính chất ước lệ, tạm thời và hạn chế. Nước Ý hôm qua tán thành nguyên trạng ở châu Âu, nhưng không ở châu Phi; ngày mai đường lối chính trị của nước ấy ở châu Âu sẽ như thế nào, chưa ai biết. Nhưng sự thay đổi các biên giới ở châu Phi đã vang dội đến châu Âu. Hitle chỉ tự cho phép đưa quân vào vùng sông Ranh bởi vì Muytxôlini đã lấn chiếm Etiôpi. Khó mà tính được nước Ý vào trong số những người “bạn” của hòa bình. Tuy nhiên, Pháp quan tâm đến tình bạn Ý nhiều hơn là tình bạn Liên xô. Anh, về phía mình, lại tìm tình bạn của Đức. Các nhóm đổi thay, các tham vọng vẫn tồn tại. Thực tế, nhiệm vụ những người thuộc phái nguyên trạng là tìm trong Hội Quốc liên sự sắp xếp lực lượng thuận lợi nhất và sự ngụy trang tiện lợi nhất cho sự chuẩn bị một cuộc chiến tranh sắp tới. Ai sẽ mở đầu chiến tranh và khi nào, cái đó sẽ tùy thuộc những tình huống phụ, nhưng sẽ phải có người mở đầu, bởi vì nguyên trạng chỉ là một kho thuốc súng khổng lồ.
Chương trình “giải trừ binh bị” chỉ là một ảo tưởng tai hại bậc nhất chừng nào còn tồn tại những mâu thuẫn đế quốc. Nếu nó có được thực hiện bằng những công ước - giả thiết thật là hoang tưởng! – nó cũng không thể ngăn cản chiến tranh. Không phải vì bọn đế quốc có vũ khí mà chúng làm chiến tranh; ngược lại, chúng rèn vũ khí khi chúng cần làm chiến tranh. Kỹ thuật hiện đại tạo ra khả năng tái thiết vũ khí cực kỳ nhanh. Tất cả các công ước giải trừ binh bị hoặc hạn chế vũ trang sẽ không ngăn được các nhà máy chiến tranh, các phòng thí nghiệm, các công nghiệp tư bản vẫn giữ lại được toàn bộ tiềm năng của chúng. Nước Đức bị tước vũ khí dưới sự kiểm soát chặt chẽ của những nước đã thắng nó (tiện thể xin nói, đó là hình thức duy nhất “giải trừ binh bị” thật sự), nhờ có nền công nghiệp hùng mạnh của nó, lại trở lại thành thành trì của chủ nghĩa quân phiệt châu Âu. Đến lượt nó, nó lại chuẩn bị “tước vũ khí” vài nước láng giềng với nó. Tư tưởng “giải trừ binh bị lũy tiến” chỉ còn là sự cố gắng giảm bớt trong thời bình những chi phí quân sự quá đáng; đó là vấn đề ngân quỹ chứ không phải lòng yêu chuộng hòa bình. Và tư tưởng ấy cũng tỏ ra không thực hiện được! Do sự khác nhau về vị trí địa lý, về lực lượng kinh tế và no nê về thuộc địa, mọi qui phạm giải trừ binh bị sẽ kéo theo một thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho những người này và có hại cho những người khác. Đó là sự bí lối của những cố gắng ở Giơnevơ. Trong gần hai mươi năm, những cuộc thương thuyết và đàm luận về giải trừ binh bị chỉ đem đến một sự đua tranh vũ trang mới, vượt xa mọi tình hình đã thấy cho đến nay. Xây dựng đường lối cách mạng của giai cấp vô sản trên chương trình giải trừ binh bị, thì không những là xây dựng nó trên cát, mà còn là xây dựng nó trên màn khói che phủ chủ nghĩa quân phiệt.
Việc đẩy lui đấu tranh giai cấp nhường chỗ cho chiến tranh đế quốc chỉ làm được với sự giúp đỡ của những người lãnh đạo các tổ chức quần chúng lao động. Các khẩu hiệu đã cho phép năm 1914 đưa việc ấy đến thành công tốt đẹp; cuộc “chiến tranh cuối cùng”, cuộc “chiến tranh chống chủ nghĩa quân phiệt Phổ”, cuộc “chiến tranh của dân chủ” đã mất hẳn giá trị lịch sử sau hai mươi năm qua. “An ninh tập thể” và “giải trừ binh bị toàn bộ” được nêu ra thay thế các khẩu hiệu cũ. Lấy cớ ủng hộ Hội Quốc liên, những người cầm đầu các tổ chức công nhân châu Âu chuẩn bị tái bản “liên minh thiêng liêng”, cần thiết đối với chiến tranh không kém các xe tăng, máy bay và hơi độc “bị nghiêm cấm”.
Đệ tam Quốc tế sinh ra từ sự phản kháng quyết liệt chống chủ nghĩa xã hội ái quốc. Nhưng cơ sở cách mạng mà cách mạng Tháng mười thổi vào cho nó đã bị tiêu tan từ lâu. Quốc tế cộng sản ngày nay núp dưới sự bảo trợ của Hội Quốc liên giống như Đệ nhị Quốc tế, nhưng với một bộ mặt trơ trẽn hơn. Khi nhà xã hội Anh, Xtappo Cơrứp (Stafford Cripps) gọi Hội Quốc liên là một tổ chức quốc tế của những tên tướng cướp, nói như thế tất nhiên là thiếu lễ độ nhưng không sai sự thật, tờ Thời Báo (Times) hỏi mỉa mai: “như thế thì cắt nghĩa thế nào việc Liên xô nhập Hội Quốc liên?” Không dễ trả lời. Tầng lớp quan liêu Matxcơva đã nối giáo mạnh mẽ cho chủ nghĩa xã hội quốc gia, cái thứ mà cách mạng Tháng mười hồi đó đã giáng cho một đòn chí tử.
Ông Rôi Hauớc (Roy Howard) cũng cố gắng tìm một giải thích về vấn đề này. Ông đã hỏi Stalin: “Các kế hoạch và ý đồ của ngài về cách mạng thế giới đến nay như thế nào”? - “Chúng tôi chưa bao giờ có những mưu đồ như vậy”. – “Thế nhưng…” – “Đó là kết quả của một sự hiểu lầm”. – “Một sự hiểu lầm bi thảm”? – “Không, hài hước hay đúng hơn bi hài kịch”. Chúng tôi trích nguyên văn. “Tư tưởng của nhân dân xô viết có gì nguy hiểm (Stalin nói tiếp) cho các quốc gia láng giềng, khi các quốc gia ấy thật sự đã có địa vị vững vàng”? Phóng viên có thể hỏi thêm ở đây: “Nếu chưa thật vững vàng thì sao”? Nhưng Stalin đã có một luận chứng khác yên tâm hơn: “Xuất cảng cách mạng là chuyện nói đùa. Mỗi nước có thể làm cách mạng nếu họ muốn, nhưng nếu họ không muốn, sẽ không có cách mạng. Như nước chúng tôi muốn làm cách mạng thì chúng tôi đã làm…” Chúng tôi trích nguyên văn. Từ lý thuyết thực hiện chủ nghĩa xã hội trong riêng một nước, bước sang lý thuyết cách mạng trong riêng một nước. Nhưng như vậy thì Quốc tế cộng sản lập ra để làm gì? Phóng viên có thể hỏi như vậy, nếu ông ta đẩy xa hơn sự tò mò. Những lời giải thích làm yên tâm của Stalin, được công nhân cũng như tư bản đọc, chứa đựng đầy rẫy những khiếm khuyết. Trước khi “nước chúng tôi” muốn làm cách mạng, chúng tôi đã nhập cảng những tư tưởng mácxit vay mượn của các nước và chúng tôi đã thừa hưởng được kinh nghiệm nước ngoài… Trong hàng chục năm chúng tôi đã có một bộ phận di cư cách mạng ở nước ngoài điều khiển cuộc đấu tranh ở trong nước Nga. Chúng tôi đã được sự ủng hộ tinh thần và vật chất của các tổ chức công nhân châu Âu và châu Mỹ. Sau ngày thắng lợi, năm 1919, chúng tôi đã tổ chức Quốc tế cộng sản. Chúng tôi đã nhiều lần tuyên bố, rằng vô sản ở nước đã làm cách mạng thắng lợi phải giúp sức về mặt tinh thần cho các giai cấp bị áp bức ở các nước khác nổi dậy, và không chỉ trong địa hạt tư tưởng mà nếu có thể, với cả vũ khí cầm tay. Chúng tôi không chỉ có tuyên bố. Chúng tôi đã ủng hộ bằng sức mạnh của vũ khí công nhân Phần lan, Lettôni, Ettôni, Gơrudia. Chúng tôi đã cố gắng đưa hồng quân tiến về Vacxôvi, tạo cho vô sản Ba lan cơ hội nổi dậy. Chúng tôi đã gửi những người tổ chức và huấn luyện quân sự cho các nhà cách mạng Trung quốc. Năm 1926 chúng tôi đã góp hàng triệu rúp cho những công nhân đình công Anh. Thế mà bây giờ chỉ là một sự hiểu lầm. Bi kịch? Không, hài kịch. Stalin không lầm khi nói cuộc sống ở Liên xô đã trở nên “vui vẻ”: bản thân Quốc tế cộng sản, từ tư cách nghiêm túc đã trở thành nhân vật hài hước.
Stalin sẽ thuyết phục được người đối thoại với y hơn nếu, thay vì vu khống quá khứ, y khẳng định rõ ràng sự đối lập giữa đường lối Técmiđo và đường lối Tháng mười. Y có thể nói: “Dưới mắt Lênin, Hội Quốc liên sinh ra để chuẩn bị những cuộc chiến tranh đế quốc. Chúng tôi lại thấy đó là công cụ của hòa bình. Lênin coi các cuộc chiến tranh cách mạng là không tránh khỏi. Chúng tôi coi việc xuất cảng cách mạng là chuyện đùa. Lênin bài xích sự liên minh giữa vô sản và tư bản đế quốc như một sự phản bội. Chúng tôi lại dốc hết sức lực để đẩy vô sản quốc tế đến chỗ đó. Lênin chế nhạo khẩu hiệu giải trừ binh bị trong chế độ tư bản, coi đó là sự lừa phỉnh đối với những người lao động. Chúng tôi xây dựng tất cả đường lối chúng tôi trên khẩu hiệu đó”. Và Stalin có thể kết luận: “Sự hiểu lầm bi – hài của các anh là ở chỗ các anh tưởng chúng tôi là những kẻ kế tục chủ nghĩa bônsêvích trong khi chúng tôi là những người đã đào mồ chôn nó”.
Hồng Quân Và Học Thuyết Của Nó
Người lính Nga thuở xưa, rèn luyện trong những điều kiện gia trưởng của cảnh “thanh bình” làng xóm, nổi bật nhất ở tinh thần theo bầy một cách mù quáng. Xuvôrôp (Souvorov), đại nguyên soái các đạo quân của Catơrin II và Pôn đệ nhất, là bậc thầy không ai chối cãi của các đạo quân nông nô. Cuộc đại cách mạng Pháp thanh toán vĩnh viễn nghệ thuật quân sự của châu Âu cổ và nước Nga hoàng. Đúng là sau này đế chế còn thêm vào lịch sử những cuộc đánh chiếm lớn, nhưng không còn những trận chiến thắng đối với quân đội các nước văn minh. Phải có những chiến bại trong những cuộc chiến tranh với nước ngoài và những cuộc vật lộn bên trong mới tôi luyện lại được tính cách dân tộc của quân đội Nga; Hồng quân chỉ có thể sinh ra trên một cơ sở xã hội và tâm lý mới. Tính thụ động, tinh thần theo bầy và sự qui phục thiên nhiên, trong các thế hệ trẻ, phải nhường chỗ cho sự táo bạo và coi trọng kỹ thuật. Đồng thời với sự thức tỉnh ý thức cá nhân, trình độ văn hóa cũng tiến hơn. Những người không biết chữ được gọi tòng quân ngày càng ít đi; hồng quân không giải ngũ cho người nào không biết đọc biết viết. Tất cả các môn thể thao được luyện tập say sưa và lan ra cả ngoài quân đội. Huy hiệu bắn súng giỏi trở thành phổ biến trong viên chức, công nhân, sinh viên. Các giày trượt tuyết mùa đông đem lại cho các đơn vị quân đội một tính cơ động trước kia không có. Những kết quả đáng chú ý đã đạt được trong nhảy dù, tàu lượn, tàu bay. Những chiến tích của hàng không ở Bắc cực và trên tầng bình lưu có luôn trong đầu óc mọi người. Tất cả những dãy đỉnh cao ấy hợp thành cả một dãy cao đã đạt được.
Không cần lý tưởng hóa tổ chức hoặc các phẩm chất tác chiến của hồng quân trong cuộc nội chiến. Những năm ấy đối với những cán bộ trẻ là những năm thử lửa lớn. Những người lính thường của quân đội Nga hoàng, những hạ sĩ, thiếu úy tự phát hiện ra là những người biết tổ chức và biết chỉ huy; nghị lực của họ được tôi luyện trong những trận đánh lớn. Những người tự học ấy thường hay bị đánh bại, nhưng cuối cùng họ đánh thắng. Những người giỏi nhất trong bọn họ sau đó đi vào học tập chăm chỉ. Những nhà chỉ huy quân sự hiện nay, tất cả đã qua trường học của nội chiến, đa số đã tốt nghiệp Học viện quân sự hoặc theo những quá trình bổ túc đặc biệt. Gần một nửa sĩ quan cao cấp đã được tiếp thu một sự giáo dục quân sự thích đáng, những người khác, một sự giáo dục trung bình. Lý thuyết đã cho họ một kỷ luật cần thiết trong tư duy nhưng không giết mất tính táo bạo được khơi lên vì những cuộc hành quân đầy kịch tính trong nội chiến. Thế hệ ấy ngày nay nằm trong khoảng bốn mươi và năm mươi tuổi, tuổi của sự cân bằng các lực lượng thể xác và tinh thần, sáng kiến táo bạo dựa trên kinh nghiệm và không bị kinh nghiệm kéo trì lại.
Đảng, đoàn thanh niên cộng sản, các công đoàn, ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ đối với chủ nghĩa xã hội, họp thành vô số cán bộ quản lý thành thạo trong việc điều khiển những khối lượng người và hàng hóa và đồng nhất hóa với Nhà nước, đó là những kho dự trữ tự nhiên những cán bộ quân đội. Sự chuẩn bị cho thanh niên làm nghĩa vụ quân sự lại là một kho dự trữ khác. Sinh viên họp thành những binh đoàn trường học, ở trường hợp động viên, có thể trở thành những trường chuẩn úy. Để thấy được tầm quan trọng của những kho dự trữ này chỉ cần nêu ra con số sinh viên tốt nghiệp các trường đại học lúc này hàng năm đạt 80.000, tổng số sinh viên vượt quá nửa triệu và tổng số học sinh của tất cả các trường học đến gần hai mươi tám triệu.
Trong lĩnh vực kinh tế và nhất là trong lĩnh vực công nghiệp, cuộc cách mạng xã hội đã bảo đảm cho quốc phòng những lợi thế mà nước Nga xưa không nghĩ đến. Các phương pháp lập kế hoạch trong thực tế có nghĩa là sự động viên công nghiệp, và cho phép được sử dụng ở phương diện quốc phòng từ lúc xây dựng và thiết bị các nhà máy mới. Người ta có thể coi tương quan giữa lực lượng nhân sự và lực lượng kỹ thuật của hồng quân ngang tầm các quân đội tiên tiến nhất phương Tây. Sự đổi mới vũ khí pháo binh thực hiện với một thành công quyết định trong thời kỳ đầu của kế hoạch năm năm. Những khoản tiền khổng lồ được dành cho việc đóng những ôtô bọc thép và xe tải, xe tăng và máy bay. Đất nước có gần nửa triệu máy kéo và còn phải làm ra 60.000 chiếc năm 1936, với tổng công suất 8,5 triệu mã lực. Việc làm chiến xa cũng tiến hành song song. Dự kiến từ ba mươi đến bốn mươi lăm chiến xa một kilômét trận tuyến khi có động viên.
Sau cuộc đại chiến, hạm đội từ 548.000 tấn năm 1917 tụt xuống 82.000 tấn năm 1928. Phải bắt đầu lại từ đầu. Tháng giêng 1936, Tukhatsepski (Toukhatchevsky) tuyên bố ở Ban thường vụ: “Chúng ta tạo ra một hạm đội hùng mạnh, tập trung những cố gắng đầu tiên vào tàu ngầm”. Phải công nhận là bộ tư lệnh hải quân Nhật có thông tin đầy đủ về những thành công đạt được trong lĩnh vực này. Hiện nay biển Ban tích là mục tiêu của một sự chú ý tương tự. Tuy nhiên trong những năm tới, hạm đội ngoài biển chỉ có thể đóng một vai phụ trong việc phòng thủ bờ biển.
Ngược lại, hạm đội không quân đã phát triển tốt đẹp. Cách đây hơn hai năm, một đoàn kỹ thuật viên hàng không Pháp phát biểu trên báo về vấn đề này, biểu lộ “sự ngạc nhiên và thán phục của họ”. Đặc biệt họ đã tin chắc rằng hồng quân chế tạo ngày càng nhiều những máy bay ném bom hạng nặng, bán kính hoạt động 1.200 và 1.500 kilômét. Trường hợp có xung đột ở Viễn đông, các trung tâm chính trị và kinh tế của Nhật bản sẽ bị đe dọa bởi không quân thuộc hải phận Vlađivôttôc. Các tin tức đưa lên báo chí cho biết kế hoạch năm năm dự kiến thành lập sáu mươi hai trung đoàn không quân, có thể đưa ra chiến đấu năm nghìn máy bay (cho năm 1935). Không có lý do gì để nghi ngờ sự thực hiện của kế hoạch đó và rất có thể nó đã được thực hiện vượt kế hoạch.
Hàng không không thể tách rời khỏi một lĩnh vực công nghiệp xưa kia không có ở Nga và đã có những bước tiến bộ rất lớn thời gian gần đây: hóa học. Ai cũng biết chính phủ xô viết cũng như mọi chính phủ khác không tin một giây phút những “cấm đoán” nhắc đi nhắc lại về chiến tranh hơi độc. Sự nghiệp của những người khai hóa Ý ở Abixini, một lần nữa đã chứng tỏ những giới hạn nhân đạo của quân ăn cướp quốc tế đi xa đến đâu. Người ta có thể nghĩ rằng hồng quân đã được đề phòng để chống những tai họa bất ngờ của chiến tranh hóa học hay chiến tranh vi khuẩn - địa hạt bí mật nhất và khủng khiếp nhất của việc vũ trang – ngang tầm với các quân đội phương Tây.
Chất lượng các sản phẩm của công nghiệp chiến tranh là điều còn đáng nghi ngờ. Nhân thể chúng tôi xin nhắc lại các phương tiện sản xuất ở Liên xô có chất lượng tốt hơn các hàng tiêu dùng. Ở đâu mà các đơn đặt hàng phải qua các nhóm có ảnh hưởng của đẳng cấp quan liêu lãnh đạo, chất lượng của sản phẩm vượt lên rõ ràng trình độ thông thường, trình độ này vốn rất thấp. Các cơ quan chiến tranh là những khách hàng có ảnh hưởng nhất của công nghiệp. Vậy chúng ta đừng ngạc nhiên khi thấy các máy móc để phá hoại lại có chất lượng cao hơn hàng tiêu dùng và cả các phương tiện sản xuất. Tuy nhiên, công nghiệp chiến tranh vẫn là một bộ phận của công nghiệp nói chung và phản ánh, dù có giảm đi, tất cả các khuyết điểm của nó. Vôrôsilốp và Tukhatsepski không bỏ một cơ hội để nói công khai với các cán bộ quản lý: “Chúng tôi không phải lúc nào cũng hài lòng về chất lượng sản phẩm mà các anh đem đến cho hồng quân”. Có thể nghĩ rằng người ta phải nói bằng những lời lẽ rõ hơn giữa những người lãnh đạo quốc phòng với nhau. Theo lệ chung, cung ứng của cục hậu cần thì chất lượng thấp hơn cung ứng về vũ khí và đạn dược. Giày bốt thì không tốt bằng súng liên thanh. Động cơ máy bay, mặc dầu những tiến bộ lớn đã đạt được, vẫn còn lạc hậu so với những loại tốt nhất của phương Tây. Mục tiêu cũ - tiến tới gần nhất trình độ đạt được của quân thù sau này - vẫn tồn tại, nhìn về mặt kỹ thuật chiến tranh.
Tình hình trong nông nghiệp kém hơn. Ở Matxcơva người ta thường xuyên nhắc lại rằng thu nhập của công nghiệp đã vượt thu nhập của nông nghiệp, nên ở Liên xô ưu thế đã chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp. Thực ra, các tỷ lệ mới về thu nhập được quyết định do sự lớn mạnh của công nghiệp, cho dù rất quan trọng, ít hơn là do trình độ hết sức thấp của nông nghiệp. Một trong các nguyên nhân của thái độ mềm mỏng đến lạ kỳ mà ngoại giao Liên xô đã tỏ ra đối với Nhật bản là do vấn đề tiếp tế đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên ba năm gần đây đã có một tiến bộ thật sự và cho phép xây dựng những cơ sở tiếp tế quan trọng cho việc bảo vệ vùng Viễn Đông.
Có vẻ như là ngược đời, chính việc thiếu ngựa mới là điểm yếu nhất của quân đội. Công cuộc tập thể hóa toàn bộ đã gây ra sự mất mát gần 55% số ngựa. Thế mà mặc dầu đã cơ giới hóa, quân đội hiện nay cứ ba người lính cần phải có một con ngựa, như thời Napôlêông. Một bước ngoặt thuận lợi đã được đánh dấu trong năm qua về mặt này, số ngựa bắt đầu tăng lên. Dù sao, ngay cả nếu chiến tranh sẽ nổ ra trong vài tháng, một đất nước 170 triệu dân vẫn có khả năng động viên vật tư và số ngựa cần thiết cho mặt trận, như thế lẽ tự nhiên, sẽ gây ra thiệt hại cho nhân dân. Nhưng ở trường hợp chiến tranh quần chúng nhân dân tất cả mọi nước nói chung đều không có thể chờ đón gì khác ngoài cái đói, hơi ngạt và dịch bệnh.
Cuộc đại cách mạng Pháp tạo ra quân đội bằng cách kết hợp các đơn vị mới với các đội quân tiền tuyến của quân đội hoàng gia. Cách mạng Tháng mười thanh toán hoàn toàn quân đội của chế độ cũ. Hồng quân là một sáng tạo mới bắt đầu từ cơ sở. Sinh ra đồng thời với chế độ xô viết, nó cùng chia sẻ mọi bước thăng trầm. Tính ưu việt không so được giữa nó với quân đội Sa hoàng chủ yếu là sự biến đổi sâu sắc của xã hội. Nó cũng không tránh được sự suy thoái của chế độ xô viết; ngược lại, sự suy thoái này lại được biểu hiện đầy đủ nhất trong quân đội. Trước khi thử xác định vai trò có thể xảy ra của hồng quân trong tai biến sắp đến, chúng ta phải dừng lại một lúc xem xét sự tiến hóa của những tư tưởng chủ đạo và cấu trúc của nó.
Sắc lệnh của hội đồng dân ủy ngày 12 tháng giêng 1918 tuyên bố xây dựng một đạo quân thưòng trực, định ra mục đích của nó bằng những lời lẽ sau: “Chính quyền chuyển sang tay các giai cấp cần lao bị bóc lột cần thiết có một đạo quân mới, là thành trì của chính quyền xô viết… và là chỗ dựa của cách mạng xã hội chủ nghĩa tương lai ở châu Âu”. Ngày mồng 1 tháng năm, nhắc lại “lời thề xã hội chủ nghĩa” và văn bản được giữ lại từ 1918 và vẫn còn đến nay, những người lính hồng quân trẻ tự nguyện “đứng trước các giai cấp cần lao Nga và thế giới” chiến đấu “cho chủ nghĩa xã hội và tình huynh đệ của các dân tộc, không tiếc sức lực và mạng sống của mình”.
Ngày nay khi Stalin nói rằng chủ nghĩa quốc tế cách mạng là một “sự hiểu lầm hài hước”, Stalin, như trong nhiều việc khác, thiếu kính trọng đối với những sắc lệnh cơ bản của chính quyền xô viết, sắc lệnh mà ngày hôm nay vẫn chưa hủy bỏ.
Cố nhiên quân đội được nuôi dưỡng cùng những tư tưởng với đảng và Nhà nước. Pháp lý, báo chí, sự sôi động của quần chúng đều thấm nhuần một tinh thần cách mạng thế giới, coi như là một mục tiêu. Nhiều phen cương lĩnh của chủ nghĩa quốc tế cách mạng mang theo những hình thức thái quá trong các cơ chế chiến tranh.
Gutxep, (Goussiev) một thời gian là tổng cục trưởng tổng cục chính trị trong quân đội và sau này là một trong những người cộng tác gần gũi nhất với Stalin, năm 1921, viết trong một tạp chí quân đội: “Chúng tôi chuẩn bị cho quân đội của giai cấp vô sản… không những để chống phản cách mạng, tư sản và phong kiến, mà còn làm những cuộc chiến tranh cách mạng (tự vệ và tiến công) chống những cường quốc đế quốc chủ nghĩa”. Gutxep trách cứ thủ lĩnh hồng quân chuẩn bị không đầy đủ để quân đội ấy làm các nhiệm vụ quốc tế của nó.[2] Tác giả cuốn sách này viết trên báo giải thích với đồng chí Gutxep rằng lực lượng vũ trang nước ngoài, trong các cuộc cách mạng, chỉ đóng một vai trò trợ thủ, không phải vai trò chính; nó chỉ có thể làm cho kết thúc được nhanh và thắng lợi dễ hơn, nếu có được những điều kiện thuận lợi. “Sự can thiệp vũ trang có tác dụng như là cái mỏ vịt (cái cặp thai) của bà đỡ; dùng đúng lúc, nó có thể rút ngắn cơn đau đẻ; dùng sớm quá, nó chỉ đi đến chỗ làm sẩy thai” (5 tháng chạp 1929). Rất tiếc chúng tôi không thể trình bày ở đây như thế nào cho thích hợp lịch sử những tư tưởng của cái chương mục quan trọng này. Nhưng chúng ta ghi nhớ rằng Tukhatsepski, ngày nay là nguyên soái, năm 1921, đề nghị tại đại hội Quốc tế cộng sản, lập bên cạnh cơ quan Quốc tế cộng sản một “bộ tham mưu quốc tế”: bức thư thú vị ấy hồi đó được công bố trong một tập bài nhan đề Cuộc chiến tranh các giai cấp. Có năng khiếu chỉ huy nhưng quá hăng hái, vị tướng ấy cần đọc một bài báo trả lời ông ta rằng “bộ tham mưu quốc tế chỉ có thể tạo dựng bằng những bộ tham mưu quốc gia của những Nhà nước vô sản khác nhau; nếu không phải vậy, một bộ tham mưu quốc tế không tránh khỏi trở thành hài hước”. Stalin tránh hết sức sự xác định thái độ của mình trong các vấn đề nguyên lý, nhất là các vấn đề mới, nhưng nhiều người trong số chiến hữu sau này của y, trong những năm đó, đứng về “phía tả” của lãnh đạo đảng và quân đội. Tư tưởng của họ gồm nhiều sự cực đoan ngây ngô hoặc “những sự hiểu lầm hài hước”, nếu người ta ưa dùng câu này. Không có cái đó, một cuộc đại cách mạng có thể làm được không? Chúng tôi đã từng chỉ trích những tư tưởng “biếm họa” cực đoan trong quan niệm quốc tế vô sản, trước khi quay mũi giáo chống cái lý thuyết cũng không kém phần “biếm họa” và lố lăng của “chủ nghĩa xã hội thành công trong riêng một nước”.
Ngược lại với những quan niệm hình thành sau khi nhìn lại dĩ vãng, sinh hoạt tư tưởng bônsêvích rất sôi nổi đúng vào lúc gian nan nhất của cuộc nội chiến. Những cuộc tranh luận rộng rãi nối tiếp nhau ở tất cả các cấp bộ đảng, Nhà nước hoặc quân đội, nhất là về các vấn đề quân sự; đường lối của những người lãnh đạo được đưa ra phê phán tự do và nhiều khi rất ác liệt. Trong tờ tạp chí quân đội có ảnh hưởng nhất hồi đó, thủ lĩnh quân đội[3] viết về sự kiểm duyệt quá nghiêm khắc: “Tôi công nhận kiểm duyệt đã làm nhiều bậy bạ và tôi thấy rất cần thiết phải nhắc vị đáng kính ấy nên khiêm tốn hơn. Kiểm duyệt có nhiệm vụ giữ gìn những bí mật của chiến tranh... Ngoài ra chẳng có gì liên quan đến kiểm duyệt cả” (23 tháng hai 1919).
Câu chuyện lập bộ tham mưu quốc tế không có quan trọng mấy trong cuộc đấu tranh tư tưởng, cuộc đấu tranh này, tuy không ra khỏi giới hạn của kỷ luật hành động, đã dẫn đến sự hình thành một nhóm đối lập trong quân đội, ít ra là trong các giới lãnh đạo. Trường phái “học thuyết vô sản của chiến tranh” trong đó có Phơrundê (Frounzé), Tukhatsepski, Gutxep, Vôrôsilôp (Vorochilov) và những người khác, xuất phát từ niềm tin tiên nghiệm (a priori) cho rằng hồng quân, trong mục đích chính trị và cấu trúc của nó, cũng như trong chiến lược và sách lược của nó, không có cái gì là giống với các quân đội quốc gia của một nước tư bản. Về mọi mặt, giai cấp thống trị mới cần có một hệ thống chính trị riêng biệt. Cần phải sáng tạo. Trong cuộc nội chiến, người ta chỉ mới đưa ra những lời phản đối trên nguyên tắc, chống sử dụng các tướng tá tức các sĩ quan cũ của quân đội Sa hoàng và công kích việc ban chỉ huy cấp trên đấu tranh với những ứng tác địa phương và những vi phạm kỷ luật không ngừng. Nhân danh những nguyên lý “vận hành” và “tấn công”, nêu lên thành mệnh lệnh tuyệt đối, những người xướng xuất tư duy mới lại còn muốn lên án sự tổ chức tập trung của quân đội, cho rằng lối tổ chức tập trung đó ngăn cản sáng kiến cách mạng trên các chiến trường quốc tế. Xét đến cùng đó là một ý kiến muốn nâng cao các tác chiến du kích buổi đầu của nội chiến lên tầm một hệ thống lâu dài và phổ biến. Có những tướng tá bày tỏ nhiệt tình với học thuyết mới đến mức không muốn nghiên cứu học thuyết cũ nữa. Xaritxin (Tsaritsyne ngày nay là Stalingơrat) là trung tâm chính của những tư tưởng ấy, Budienni (Boudienny), Vôrôsilôp (và sau đó, Stalin) bắt đầu hoạt động quân sự cũng ở đấy.
Chỉ sau khi hòa bình đã trở lại, người ta mới sắp xếp tập hợp những khuynh hướng canh tân ấy thành một học thuyết. Một trong những tướng giỏi của thời nội chiến, một người tù khổ sai chính trị cũ, Phơrundê đã có sáng kiến đó, được sự ủng hộ của Vôrôsilôp và một phần của Tukhatsepski. Xét đến cùng học thuyết “vô sản và chi?