← Quay lại trang sách

- 1 - Một tiểu quốc có trang sử liệt oanh

Lúc đăng ký chuyến bay ở phi trường Ben-Gurion, một phụ nữ trẻ dẫn các hành khách vào những hàng cách nhau để khám xét về an ninh. Những người Do Thái đứng ở một hàng còn những người không phải Do Thái đứng ở hàng khác. Những người nói tiếng Hebrew (tiếng Do Thái cổ) đọc lướt bảng câu hỏi. Những người còn lại thường đợi ở hàng để hướng về dãy câu thẩm vấn, từ thông thường đến gay gắt. Ông (bà) có mang đồ hộ ai không? Ông (bà) có quen ai ở Israel không? Tên của họ là gì? Ông (bà) có đi tới Bờ Tây không? Ông (bà) có người bạn Ả Rập nào không? Tên họ là gì? Và vân vân.

Mặc dù có vẻ qua loa nhưng phải nói là "tôi cảm thấy khó chịu" cái kiểu hạch hỏi khó ưa ấy. Nó có nghĩa là điều tra nhân dạng của khách hàng, đâm chọc vào chuyện của du khách. "Còn ông là nhà báo à? Có gì chứng minh không? Vui lòng mở máy tính của ông và chỉ cho tôi những gì ông đã viết." Có khi người thẩm vấn bỏ đi, nhưng một người khác đến và bắt đầu hỏi lại. Tôi lại bị hỏi, hết sức nghiêm túc: "Ông không phải người Do Thái, vậy tại sao ông tới Israel?" Ở đây chẳng làm gì phải lo ngại về chuyện "ghi hình", hỏi về sắc tộc hay điều gì khác. Những phụ nữ nước ngoài tự đi còn bị xăm xoi rất kỹ, kể từ khi Nizar Hindawi, một người Jordan làm việc cho cơ quan tình báo Syria, đã gửi cô bạn gái có thai người Ireland trên chuyến bay E1 Al mà không nói cho chị ta biết là anh ta đã giấu quả bom Semtex ở đáy giả cái túi của chị ta. Một lính gác của El Al tinh ý đã phát hiện thiết bị này, cứu được mạng của 375 người vào bữa đó, hồi tháng Tư 1986.

Cả khi ở nước ngoài, lúc bạn bước lại gần quầy, bạn đã đi vào sự kiểm soát của Israel, lúc nào cũng nghĩ có mối đe dọa khủng bố và chiến tranh. Ở một số nước châu Âu, một nhân viên an ninh ngồi cạnh tài xế xe bus đưa khách từ nhà khách tới máy bay. Những nhân viên mật vụ khác rải khắp nơi, bảo vệ cầu thang lên xuống hoặc dắt con chó đánh hơi trên hành lý. Đôi khi một xe bọc sắt theo dõi chiếc máy bay hạ cánh đang chạy trên đường băng. Mỗi chuyến bay E1 Al đều có lính gác vũ trang và các buồng lái ngăn được đạn.

Trước ngày 11 tháng Chín 2001, loại an ninh độc đoán này là một sự quấy rầy mà du khách đã phải chấp nhận khi đi du lịch Israel, giống như chuyện những nữ quân nhân đeo súng canh chừng trên các đường phố Jerusalem hoặc nghe tiếng rú và tiếng lách chách của những chiến đấu cơ phản lực trên bầu trời Cổ thành Jerusalem.

Khi thế giới chứng kiến, cách những đội cảm tử Hồi giáo chỉ vũ trang bằng dao đã cưỡng đoạt bốn máy bay chờ khách loại lớn và biến chúng thành những quả bom bay vào các thành phố của Mỹ, thì cảm giác bị sốc ở Israel được pha trộn với cảm nhận về sự vững dạ là "nó chẳng bao giờ được phép xảy ra ở đây". Những gì mà đã có lúc người Israel trông mong sự chuẩn tắc của cuộc sống ở Mỹ biến thành sự hoài nghi về thái độ lỏng lẻo của Mỹ đối với sự an toàn hàng không.

Đoàn chuyên gia an ninh của Israel-đội quân chìm và các nhân viên mật vụ-đã phân tích các biến cố: giả như những kẻ cướp máy bay cố gắng tấn công một máy bay Israel, có lẽ họ cũng chẳng thể đến gần quầy đăng ký được. Nếu họ đã tính toán để lên máy bay, chắc chắn họ sẽ bị các lính gác có vũ trang ách lại và nếu có một phép lạ nào để họ tìm cách cướp buồng lái, họ sẽ bị không quân bắn gục trước khi họ có thể bay đi bất kỳ đâu gần một thành phố lớn. Vì đã có lúc El Al quảng cáo rằng không công ty hàng không nào vượt trội để có thể bảo đảm an toàn cho bạn như hãng không quốc gia của bạn, và El Al bay trên những đường bay an toàn qua các quốc gia thân thiện.

Ấn tượng ban đầu về Israel không chỉ ở những người được dàn ra khắp nơi, chuyên tâm vào sự an ninh, mà là những con người trẻ trung phục vụ trên các chuyến bay.

Ở sân bay Ben-Gurion du khách thoáng thấy những sự ngược đời của Israel-một nước dân chủ đã ở trong tình trạng thù nghịch hơn nửa thế kỷ, một nhà nước Do Thái từng công bố trao quyền bình đẳng cho thiểu số người Ả Rập, một nơi trú ẩn cho người Do Thái mà sự lập quốc của họ đã để mặc hàng triệu người Palestine sống tha hương. Có thể du khách phương Tây cảm thấy phiền phức và bực mình khi du lịch Israel, nó là nỗi nhục cho người Palestine khi tới và rời sân bay Ben-Gurion đều bị dẫn tới phòng riêng để kiểm soát. Một người Mỹ hay người có hộ chiếu nước ngoài khác chưa hẳn bảo đảm. Các biên giới quốc tế, các địa điểm kiểm soát, các phi trường, các bến cảng-dù ở Israel, ở phần còn lại của thế giới hay ngay cả ở những quốc gia A Rập "anh em" - lúc nào cũng là những nơi đáng sợ cho người Palestine. Tình trạng không quê hương của họ là lý do bị nghi ngờ ngay. Nếu họ từng cố gắng quên rằng họ là người Palestine, họ được nhắc nhở về điều đó ở các biên giới.

Những người ngoại quốc đi bất cứ đâu, họ là chủ đề cho những lời bàn tán và định kiến của các chủ nhà hay những người chiếm cứ. Sau cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991, người Palestine nhất tề bị trục xuất khỏi Kuwait sau khi lãnh tụ người Palestine tuyên bố ủng hộ Tổng thống Saddam Hussein của Iraq. Vào năm 1993 và 1994, hàng trăm ngươi Palestine bị trục xuất khỏi Libya và bị bỏ mặc bơ vơ ở biên giới Ai Cập, nơi đã từ chối nhận họ.

Sự lập quốc Israel làm ngưng lại hình ảnh về người Do Thái lang thang. Giờ nó là người Palestine không ngừng lang thang trên thế giới. Trải nghiệm cứ mãi được mô tả trong văn chương Palestine. Thi sĩ Mahmoud Darwish đã viết: "Chúng tôi đi như những người khác, nhưng chúng tôi không có chốn trở về". Trong một bài thơ khác, Nhật ký về vết thương của người Palestine, thi sĩ đã quyết đoán rằng: "Đất nước của tôi không là cái vali"

Nếu cái vali gói gọn sự tước đoạt đối với người Palestine, nó là biểu tượng của sự thành toàn và sự phục hồi đối với người Do Thái, những người đã thực hiện đường lối của họ suốt nửa thế kỷ qua. Nó biểu trưng sự độc lập, thoát khỏi sự ngược đãi và mở thời kỳ mới. Những bức tranh đen trắng về người Do Thái gốc Ma Rốc tới những tỉnh thành mới với những cái vali vuông lớn trên vai là hình ảnh của thời liệt oanh. Những hình chụp của người Do Thái gốc Ethiopia tới Israel cầm những cái bọc trắng nhỏ nói về quốc gia như một nơi trú ẩn cho ngươi Do Thái từ những góc thế giới xa xôi nhất.

Phi trường Ben-Gurion là nơi hàng trăm ngàn người nhập cư Do Thái tràn trề hy vọng lần đầu tiên tiếp xúc với Israel. Qua nơi này người già và người trẻ, người trần tục và người có tín ngưỡng đã tới-mỗi người xác quyết lời hứa về mảnh đất Zion. Theo Luật Hồi hương của Israel, bất kỳ ai có ông bà tổ tiên là Do Thái đều có quyền định cư ở Israel và được coi là công dân. Nhưng "Quyền Hồi hương" kiên quyết khước từ một người Ả Rập mà sau hàng thập niên bị đuổi khỏi Palestine, dù còn giữ chìa khóa nhà hay các văn tự đất đai ở bất cứ ngôi làng nào trong hàng trăm làng mạc Ả Rập đã bị phá hủy vào lúc thành lập quốc gia Israel.

Phi trường Ben-Gurion hẳn là điểm dừng chân giữa châu Âu và vùng Viễn Đông, một trung tâm điều phối toàn cầu lớn, một Singapore của Cận Đông. Thay vì thế nó là ngõ cụt, bị bức tường thù địch vững chắc của Ả Rập ngăn chặn. Cho tới khi có hòa ước với Jordan năm 1994, không hãng hàng không nào của Israel bay về hướng đông. Ngay cả hiện nay, để đi xa hơn Amman, bạn phải đi vòng, hoặc là xuôi về phía nam qua Yemen, hoặc là ngược lên phía bắc ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ. Hầu hết các nước láng giềng trực tiếp của Israel dường như là cư dân của một hành tinh khác. Từ phi trường Ben-Gurion người ta có thể đến Nepal dễ hơn đến Syria, và vượt khoảng 5700 dặm tới New York nhanh hơn bay tới Beirut cách đó có 130 dặm. Người Israel muốn đến Lebanon chỉ còn cách đi nhờ trong buồng lái của chiếc F-16 hay trực thăng tác chiến Cobra.

Nhà hành lý của phi trường Ben-Gurion được trang hoàng bằng những quảng cáo sáng trưng ánh đèn neon rực rỡ như khoe khoang những tiện ích của một khách sạn nào đó hoặc thẻ tín dụng. Còn nữa, Israel không thể cưỡng lại việc gửi đi thông điệp của chủ nghĩa dân tộc sáo rỗng. Một tấm biển lớn mô tả những hàng người chảy về thành phố có công sự bao bọc trên ngọn đồi-một Jerusalem được lý tưởng hóa-với câu trích dẫn bằng tiếng Hebrew lời của tiên tri Jeremiah: "Con cái ngươi sẽ trở về bờ cõi của mình" (Jer. 31:17).

Bức tường lớn nhất là những hình ảnh trình bày rõ những thành tựu của chủ nghĩa phục quốc Do Thái: những tranh ảnh về những chiếc máy kéo, máy móc công nghiệp, binh lính, những người nhập cư Do Thái đến miền Đất Hứa và chân dung của David Ben-Gurion, thủ tướng đầu tiên của Israel. Hình Theodor Herzl, người cha của chủ nghĩa phục quốc hiện đại, được viền bằng ánh sáng neon, hào quang của đấng thánh.

Con đường từ phi trường dẫn tới phía tây vào Tel Aviv, thủ đô hiện đại, là một xa lộ sáu lằn đường và về phía đông tới Jerusalem, thủ phủ lịch sử. Dọc theo con đường huyết mạch này là những biểu tượng về những thay đổi mà chủ nghĩa Phục quốc đã đem lại cho mảnh đất này; những đài kỷ niệm những trận chiến giành con đường tới Jerusalem năm 1948 và những dấu hiệu về Lod và Ramla (thủ phủ trước đây của Ả Rập thuộc Palestine hồi thế kỷ thứ VIII) mà các cư dân của nó hoặc đã bỏ trốn hoặc bị lực lượng Do Thái đuổi đi.

Những khu vườn cam sạch gọn được bảo vệ tránh gió nhờ hàng cây bách đẹp mắt. Phần lớn những khu vườn này một thời được người Ả Rập chăm bón nhưng nay chúng thuộc về người Do Thái. Cam Jaffa,loại cam nổi tiếng hồi cuối thế kỷ XIX, đã trở thành biểu tượng của một Israel mới.

Một người Do Thái khi đi thăm những nơi này hẳn sẽ trào dâng niềm kiêu hãnh. Ông ta thấy rằng vùng đất "ốm o" như có lần Herzl mô tả Palestine, giờ được phong phú nhờ sự cần cù của người Do Thái. Mảnh đất của sữa và mật ong được phục hồi. Đối với một người Palestine khi đi ngang qua lại thấy rằng thành quả lao động của cha ông anh ta đã bị chiếm đoạt và là bằng chứng về sự xóa sổ hoàn toàn một dân tộc, ấy là, như lời của một tác giả Palestine, Chassan Kanafani "vùng đất của những trái cam đáng buồn".

Việc tạo lập Israel, thì dù hiểu theo minh định nào, đó là một biến cố khác thường. Không chỉ chuyện người Do Thái sống sót qua hàng thế kỷ trong điều kiện dị thường của lịch sử, mà họ còn tập trung được sức mạnh để thâm nhập vùng đất đã có một nền văn minh khác ổn định nhưng đã chinh phục được nó.

Chẳng có gì là bình thường về chuyện xuất hiện của Israel. Nó được sinh ra vào lúc thoáng qua của lịch sử khi mà các vì sao đã được sắp thẳng hàng một cách thuận lợi. Palestine được tạo nên từ cái xác của đế chế Ottoman trước khi chủ nghĩa dân tộc Ả Rập có thể tập hợp toàn lực của nó. Nó được gây dựng bởi hành động của chủ nghĩa thực dân Anh vào lúc mà việc kiến lập đế chế đã lỗi thời. Việc ổn định vấn đề bắc Mỹ và nam Phi của người châu Âu kéo lùi lại thế kỷ XVII, thế mà việc tiếp quản Palestine của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái chỉ mất vài thập niên để hoàn thành. Nhà nước Do Thái lúc còn trong trứng nước lại được quân đội của đế quốc Anh che chở, đàn áp những cuộc nổi dậy liên tiếp của Ả Rập và quay lại chủ nghĩa Quốc xã ở El-Alamein. Điều này cho phép người Do Thái phát triển các thể chế của họ tới mức đủ mạnh để buộc những người Anh từng che chở họ trước đây phải bỏ cuộc ngay sau khi kết thúc Thế chiến II. Vì Liên Hiệp quốc biểu quyết thành lập nhà nước Do Thái (và nhà nước Ả Rập) trong trường hợp hiếm có với sự thỏa thuận của Mỹ và liên bang Xô Viết năm 1947, vài triệu người Do Thái

đã quyết chống lại nhiều triệu người Ả Rập.

Câu nói đùa phố biến của người Israel hỏi: "Vì sao Moses đã lang thang trong sa mạc bốn mươi năm trời?" Câu trả lời là: "Vì ông chỉ đi tìm một chốn ở Trung Đông nơi không có dầu hỏa". Thế nhưng đất nước bán khô cằn này với nguồn tài nguyên thiên nhiên không đáng kể lại đã phát triển hơn cả những vùng đất giàu có nhất của các lãnh tụ Hồi giáo và có mức sống sánh với nhiều quốc gia châu Âu.

Thế nên chốn xa xôi hẻo lánh là khái niệm của nhà nước Do Thái khi Theodor Herzl đưa nó ra trong cuốn sách mỏng đầy ảnh hưởng của ông năm 1896, Nhà nước Do Thái (Der Judenstaat), là ông bị những người cùng thời chế nhạo là kẻ điên, một đấng Cứu thế giả, như một trong các đồng sự của ông ở một tờ báo đã viết "một jules Verne của Do Thái". Sau khi nghe được tiếng la hét của đám đông người Pháp đòi tiêu diệt người Do Thái, ông thấy rằng chủ nghĩa bài-Semite là một sự ác nan giải tiếp theo ở bất cứ nơi đâu người Do Thái tìm chỗ trú ngụ, ngăn ngừa mọi nỗ lực đồng hóa vào những xã hội chủ nhà. Giải pháp duy nhất cho sự áp bức người Do Thái ở châu Âu là chủ quyền của người Do Thái.

Chúng ta là một dân tộc-các kẻ thù của chúng ta biến chúng ta thành một dân tộc ngoài ý muốn của chúng ta, chuyện đã từng xảy ra trong lịch sử. Nỗi đau buồn này liên kết chúng ta lại, và, khi đoàn kết, bỗng khám phá ra sức mạnh của chúng ta.

Đúng thế, chúng ta mạnh đủ để tạo lập một Quốc gia, mà thực tế, là một quốc gia kiểu mẫu.

Đó chẳng phải một ý tưởng mới. Từ lâu, sự khẩn thiết phục hồi của người Do Thái về miền Đất Hứa đã tạo thành lời cầu nguyện hàng ngày của họ. Cái mới nằm ở phương cách để giành được cương vị quốc gia, bằng việc thương lượng với các thế lực lớn và vận động vốn của người Do Thái. Thêm nữa, người đề xuất không là người có tầm nhìn tôn giáo mà là một người Do Thái được đồng hóa thấu đáo.

Herzl nghĩ rằng sự độc lập của Do Thái sẽ được trui rèn bằng việc lao vào công nghệ mới của lực hơi nước và điện cung cấp phương tiện cho cuộc sống di trú hàng loạt có tổ chức. Herzl đã nói, cương vị quốc gia Do Thái sẽ tăng tiến sự khang an của thế giới.

Đối với Herzl, việc quốc gia nằm ở đâu không thành vấn đề lắm. Ông viết, "Hãy để chủ quyền thuận cho chúng ta một phần chia nào đó, trái đất này đủ rộng để thỏa mãn các yêu cầu hợp pháp của một quốc gia; cái còn lại chúng ta sẽ tự xoay xở". Ông đề ra hai khả năng: Palestine, "quê hương lịch sử không thể quên được của chúng ta" hay Argentina "một trong những đất nước phì nhiêu nhất của thế giới." Nhưng rồi sau này ông còn xem xét cả Cyprus, Sinai và có khi là châu Phi nữa-bất kỳ đâu cho chúng ta, những người Do Thái bị ngược đãi, một nơi trú ngụ.

Thế nhưng ý tưởng về cương vị quốc gia dưới sự mường tượng của người Do Thái phải là ở Palestine, dù đã có lúc chính quyền Anh đề xuất với Herzl ở Uganda. Chỉ Palestine là nơi được Chúa "hứa".

Đại hội Phục quốc Do Thái lần thứ nhất ở Basle năm 1897 là một mảng của kịch bản chính trị. Các thành viên đến dự đều mặc trang phục đen và đội mũ chỏm. Hội nghị đã thông qua tuyên bố mang máng về ''Mục tiêu của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là tạo cho dân Do Thái một vùng đất ở Palestine được công pháp bảo đảm". Herzl được tung hô như một vị vua. Một vài ngày sau, ông ta viết trong nhật ký một dự đoán chắc nịch đến ngỡ ngàng nhưng là một sự đoán rất xác đáng:

Nếu tôi phải tổnq kết đại hội bằng một lời-lời mà tôi sẽ không cần công bố-ấy là: Ở Basle tôi đã kiến lập Nhà nước Do Thái. Nếu bữa nay tôi tuyên bố điều này, tôi sẽ được đáp lại bằng tiếng cười.Có lẽ trong năm năm, nhưng chắc chắn trong năm mươi năm nữa, mọi người sẽ nhận ra điều này.

Tuyên ngôn Balfour, lời hứa của Anh thiết lập quốc gia Do Thái ở Palestine, được đưa ra 20 năm sau. Nhà nước Israel ra đời trong lò lửa của cuộc chiến ngày 14 tháng Năm 1948, năm mươi mốt năm sau đại hội Basic, với tuyên ngôn được David Ben-Gurion đọc lên.

Đích thân Herzl đã viếng thăm Palesline duy nhất một lần. Một năm sau đại hội Basic, ông đã dong thuyền tới Constantinople để yết kiến Vua Đức, Wilhelm II, người đang đi công cán nhằm giành ảnh hưởng ở đế chế Ottoman. Sau buổi gặp gỡ ban đầu đầy khích lệ, Herzl thẳng đường tới dự bữa tiệc hoàng gia ở Jaffa và chuẩn bị gửi đại diện của phong trào Phục quốc tới Vua Đức ở Jerusalem. Wilhelm II khá thích ý tưởng về chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, như cách ảnh hưởng của Đức ở Cận Đông nhằm gây bất lợi cho Anh. Nhưng vào lúc ông tiếp đón đoàn đại biểu của Herzl ở Jerusalem, ông đã bỏ qua ý tưởng bảo hộ của Đức ở Palesline, nhất là vì nó bị nước đồng minh Thổ Nhĩ Kỳ, vua Abdel-Hamid II, kiên quyết chống lại. Herzl lưu lại Palestine mươi ngày rồi vội vã lên tàu rời đi vì sợ chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ có thể bắt hoặc có khi còn thủ tiêu ông.

Năm 1902, Herzl cho xuất bản cuốn tiểu thuyết có tên là Vùng đất Tân Cựu (Altneuland), tuy cách hành văn khô khan nhưng hiện nay hấp dẫn người đọc. Nó kể về một người Do Thái gốc Vienne thất tình trốn tới một hoang đảo suốt hai mươi năm và khi trở về đầy ngỡ ngàng vì thấy Palestine thịnh vượng dưới sự định cư của người Do Thái, một "Xã hội mới'' không tưởng. Cuốn sách có câu phương châm bất tử: "Nếu bạn muốn, điều bạn muốn chẳng phải là hoang đường". Đây là kỹ xảo được sử dụng khéo léo trong kịch trường của Israel để tưởng tượng những gì Herzl đã nghĩ là ông ta trở về và chứng kiến một nước Israel hiện đại. Liệu ông ta hãnh tiến, đau buồn hay lúng túng? Herzl đã đặt ra tiêu chuẩn cao nhà nước Do Thái của ông không chỉ là nơi trú ngụ cho người Do Thái, nhưng còn là mô hình cho toàn nhân loại về cách kiến tạo một xã hội khoan hòa và không thành kiến. Israel sẽ là, theo lời của tiên tri Isaiah, "ánh sáng chiếu trên muôn dân nước".

Những người theo ông, Herzl, với bộ râu đen nhánh và điệu bộ kiêu hãnh, là một vị tiên tri của thời hiện đại, một Moses mới một lần nữa dẫn dắt dân Do Thái vào miền Đất Hứa. Cũng như Moses, Herzl đã qua đời trước khi người Do Thái chiếm được Palestine. Ông qua đời năm 1904 ở tuổi 44, do bệnh tim kéo dài. Theo mong muốn của Herzl lúc sắp qua đời là được người Do Thái chôn cất ở Palestine. Thi hài của ông được khai quật vào năm sau đó và chôn lại ở đỉnh ngọn đồi mang tên ông ở Jerusalem, Đồi Herzl.

Theo một nghĩa nào đó, Herzl có khả năng tiên tri tiêu biểu. Ông tin rằng chủ nghĩa bài-Semite ở châu Âu chỉ làm tồi tệ thêm, cả khi ông không đoán ra được nước Đức đáng yêu lại khai thác sức mạnh của sự công nghiệp hóa để tiến hành việc diệt chủng người Do Thái, Ở sườn đồi Herzl, Israel đã dựng đài tưởng niệm sáu triệu nạn nhân Do Thái thời Đức Quốc Xã.

Điều Herzl đã không thấy trước, hoặc từ chối xem xét, là cái giá kinh hoàng mà người Palestine phải trả cho giải pháp vấn đề Do Thái của châu Âu trên phần đất của Ả Rập. Herzl nghĩ rằng người Ả Rập sẽ háo hức đón chào sự thịnh vượng mà những người mới tới định cư sẽ mang lại. Thay vì thế, nhà nước Israel được trui rèn trong lò lửa chiến tranh, cuộc chiến đã xua đuổi bốn phần năm dân Ả Rập khỏi những vùng đất bị Do Thái chiếm đóng.

Cạnh ngôi mộ của Herzl là nghĩa trang quân đội, nơi có những ngôi mộ mới chôn của những người thương vong trong cuộc chiến xung đột không dứt Ả Rập- Israel. Gần đồi Herzl là tàn tích của ngôi làng Deir Yassin, nơi quân đội Do Thái đã tàn sát người Ả Rập hồi hương năm 1948, đẩy nhanh cuộc di cư của người Palestine.

Lại nữa, Herzl không chỉ là nhà tiên tri của chủ nghĩa phục quốc Do Thái mà còn là tổ tiên ngẫu nhiên của phong trào quốc gia Palestine.

Israel đã sống bằng gươm giáo từ ngày lập quốc. Nó tự hào là đất nước của các chiến binh. Sự xung đột còn sản sinh ra các biểu tượng của du kích quân Palestine và trẻ ném đá Palestine. Cửa hàng bán đồ lưu niệm ở phi trường Ben- Gurion bán những băng hình về những chiến thắng của quân đội Do Thái. Khăn trùm đầu sọc vuông của nông dân Palestine truyền thống (Keffiyeh) đã biến thành khoản thời trang cách mạng của người theo chủ nghĩa Mác, được sinh viên cánh tả mang ở các khu trường sở châu Âu. Các khu chợ Hồi giáo ở Jerusalem bán cơ man những chiến khăn này để du khách mua làm kỷ vật.

Qua hàng thập niên xung đột, người Palestine đã chiến đấu, dấy loạn, cưỡng đoạt máy bay, và đánh bom để chống trả lại ý thức phương Tây, ý thức đã đày ải họ hàng bao thập niên. Hồi ức về cuộc tàn sát người Do Thái đã rõ nét ở châu Âu và Mỹ, nhưng cũng nên biết rằng người Palestine cần một quốc gia riêng của họ. Quốc gia đó không phải Lebanon hay Jordan nhưng là mảnh đất Palestine lịch sử.

Nhiều người Israel do mệt mỏi vì chiến tranh và xung đột, đã đi đến kết luận ấy. Trong tiến trình mà cách nhà khoa học chính trị gọi là “hậu-phục quốc”. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước Israel ít mù quáng hơn- những người Israel đã xem xét lại dần dần nhưng lấy làm đau lòng trước các huyền thoại dân tộc của họ, lịch sử tuyển chọn họ và cả tác động của cuộc tàn sát. Không còn những người Israel lập luận rằng không có điều như thế nơi người Palestine. Hòa ước Oslo đã ký ở Washington tháng Chín năm 1993 là một nỗ lực để một lần nữa phân chia dần thành nhà nước Ả Rập và Do Thái. Việc nổ ra sự kiện Al-Aqsa Intifada, được hiểu tựa như “Cuộc nổi dậy Hồi giáo Al-Aqsa” hồi tháng Mười năm 2000, một phần là nổi loạn nhưng một phần là chiến tranh, là nhắc nhở rằng cuộc xung đột Ả Rập- Israel, hơn một thế kỷ còn lâu mới giải quyết được. Người Palestine thì không có quốc gia, còn người Israel thì không có hòa bình. Vấn đề Do Thái đã được giải quyết bởi sự lập quốc, vấn đề của Palestine còn là nỗi đau bỏ ngỏ.

Một số người dửng dưng với chuyện Tổ quốc giữa Địa trung hải và sông Jordan, Israel...Palestine....Đất Thánh...Đất Hứa...Đất của Sữa và Mật ong. Bất kỳ gọi gì, nó liền gợi lên những hình ảnh, những hồi ức, những câu ngắn của các tiêu đề báo, một đoạn Kinh Thánh, một câu Coran, một bài thơ, một bài hát, hay một bài thánh ca.

Nơi có thể khiến tâm hồn bạn cộng hưởng, với năng lực tinh thần của nó, hay có thể làm cho ý thức của bạn lên tiếng. Bạn có thể bị quyễn rũ bởi con người, hay càng ghê tởm họ. Du khách có thể lao vào cuộc hành trình khám phá thần học và khảo cổ học, hoặc nhạo báng chính trị và sự mê tín của đạo giáo. Sinh viên sính thời sự có thể muốn gặp người tiên phong của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái hoặc muốn chứng kiến nỗi thống khổ và cuộc đấu tranh của những nhà cách mạng Palestine. Quá nhiều điều đã xảy ra ở đây để bất kỳ ai cũng không thể dửng dưng được.

Trong cuộc hành trình tới Israel vài năm trước, khi máy bay của tôi bay qua bờ biển trên thành phố Tel Aviv và những lò sưởi bằng năng lượng mặt trời trên mái của các tòa nhà phản chiếu mặt trời qua tấm thảm của những tấm gương vỡ, các hành khách Israel đua nhau vỗ tay và hô vang Heveinu Shalom Aleichem (chúng tôi đã mang lại hòa bình cho các bạn). Lúc đáp máy bay xuống phi trường Ben- Gurion, những khách hành hương Kito giáo hát vang bài thánh ca cảm động ca tụng vùng đất cổ xưa như thể toát ra lực huyền bí của nó.

Một lần kia ngồi cạnh linh mục Công giáo người Ý, ông ta chẳng màng đến ý kiến của tôi mà cứ thế trình bày quan điểm của ông về Israel. Ông phô trương thứ tiếng Hebrew sơ đẳng của mình rồi dẫn giả rằng “Hebrew là ngôn ngữ của Chúa dùng để nói. Nó giống như khi gặp một phụ nữ đẹp mà bạn nói thứ ngôn ngữ của chị ta hẳn sẽ thú vị hơn”. Trong khi thừa nhận một Thiên Chúa nói tiếng Hebrew, ông lại chẳng nghi ngờ gì khi cho rằng Kito giáo xuất phát từ lời dạy của Jesus- không phải xuất phát từ Do Thái giáo, là một sự mạc khải thật của thần thánh.

Bằng giọng tôn kính, ông nói tiếp “Israel là một quốc gia rất trật tự. Cứ tưởng tượng xem, người Do Thái kiên trì chống lại cả hàng triệu người Ả Rập và phần lớn lại của thế giới Hồi giáo” và ông gục gặc đầu “Nhưng người Do Thái quá kiêu ngạo. Tất cả những điều khủng khiếp mà người Đức đã làm cho họ, họ đang làm như thế với người Ả Rập”. Người Do Thái là siêu anh hùng nhưng cũng cực kỳ xấu xa, là dân được chọn nhưng cũng là tội đồ muôn thuở.

Mọi thứ ở Israel và Palestine thì huếch hoác. Đấy là một dải đất làm nên một quốc gia, ngang không quá 75 dặm và dài chưa tới 260 dặm. Với dân số 5 triệu người Do Thái và khoảng 4 triệu người Palestine ở cả Israel và những vùng đất bị chiếm đóng, nhưng nó chỉ đạo lòng thành của 1 tỷ người Hồi giáo, 1,7 tỷ người Kito giáo và khoảng 13 triệu người Do Thái khắp thế giới.

"Từ Palestine luôn đem lại cho tôi ý nghĩ là quốc gia này lớn bằng nước Mỹ. Tôi không hiểu tại sao, nhưng đúng là như thế," Mark Twain đã viết trong Iinnocents Abroad: "Tôi cho rằng nó như thế vì tôi không thể hình dung một tiểu quốc lại có trang sử liệt oanh như vậy."

Năm 1867 Mark Twain đã đến Palestine lần đầu tiên trong một chuyến du hành thú vị, tiền thân của những tuyến xe buýt đi thăm các vùng đất thánh. Ông ta đã băng qua Đại Tây dương trên con tàu guồng chạy bằng hơi nước, the Quaker City, với một nhóm khoảng 150 người Mỹ. Chuyến du lịch ấy bao gồm các thành phố chính của châu Âu, Đất Thánh và Ai Cập. Trình thuật của ông ta về chuyến đi hết sức phổ biến vì giọng điệu bất kính của nó. Ông viết: "Quang cảnh phương Đông trông đẹp nhất trong những bản khắc bằng thép. Tôi không thế bị bức tranh về Nữ hoàng Sheba thăm Solomon đó áp đặt thêm nữa. Tôi sẽ tự nhủ “Trông bà thật đẹp, thưa bà, nhưng bàn chân của bà không sạch và người bà tỏa ra mùi như con lạc đà”.

Mark Twain nghĩ, phần lớn sách thời ấy nói về Đất Thánh phản ánh tín ngưỡng của tác giả, những người đi để tìm “người Palestine theo tin Lành” hay “người Palestine theo phái Baptist”.

Chân thành như các ý định của những người này, họ đầy thiên kiến và định kiến, họ vào đất nước này với những nhận định đã được chuẩn bị, và họ không thể viết một cách thản nhiên và vô tư về nó hơn khi họ viết về chính họ và con của họ.

Cuộc thăm viếng của Mark Twain là một phần của nỗi ám ảnh phương Tây mới về Palestine. Vào thế kỷ XIX, hàng ngàn du khách đã đến Palestine, bị cuốn hút bởi bầu khí chính trị tự do hơn của đế chế Ottoman. Bị lôi kéo bởi tinh thần thẩm tra đang tăng và được chuyên chở bằng lực của những con tàu chạy bằng hơi nuớc. Đến Palestine thì thường là qua cảng Jaffa của Ả Rập.

Nhìn xuống cảng nhỏ bé này hôm nay thật khó tưởng tượng thiên nhiên đã phú cho một trong những bốn cảng đáng kính nhất của lịch sử lại ít ỏi như vậy. Bờ biển của Palestine chủ yếu bao gồm những dặm cồn cát do cát từ sông Nile tạo nên. Nó mất đi những vịnh nhỏ hay những chỗ đậu tàu an toàn, chỗ nhô ra toàn đá của Jaffa với chuỗi đá ngầm tạo ra con đê chắn sóng tự nhiên hiếm có nhưng không hoàn chỉnh để chống lại bão tố. Lúc thời tiết xấu, những con tàu thường thấy là không thể xuống hàng hằng tuần liên tiếp.

Những con tàu chạy bằng hơi nước phải neo cách bờ nửa dặm hay hơn. Việc bốc và dỡ hàng là một việc liều lĩnh đầy gian khổ được các công nhân bốc xếp bến cảng người Ả Rập thực hiện bằng những con thuyền chèo tay chòng chành. Vượt được lối đi hẹp qua đá lúc sóng nhồi quả là trải nghiệm lạnh người. Một du khách người Anh, Sir Prederick Treves đã nhận định, “Jaffa nổi tiếng ít nhất ở hai điều: cam tuyệt vời và việc cặp bến đáng sợ”.

Theo một số tài liệu cổ, Jaffa được thành lập trước cả nạn Hồng thủy. Những người Hy Lạp tin rằng những tảng đá nguy hiểm của nó là chỗ Andromeda xinh đẹp bị xiềng như một hiến vật cho thủy quái nhưng được Perseus, người đã nhuộm tím nước biển bằng máu của con thú, cứu thoát. Nguồn gốc của cái tên có thể là yafa, tiếng Hebrew cổ nghĩa là đẹp. Cả người Ả Rập cũng có ấn tượng về vẻ đẹp của Jaffa họ gọi nó là “Nàng dâu của Biển cả”.

Jaffa là điểm dừng chân trên vùng đồng bằng duyên hải của Palestine, vùng đất lịch sử phía bắc giữa châu Phi và châu Á. Tuyến đường có tên là Horus Road là do người Ai Cập và tuyến đường có tên là Via Maris là do người Roma nối hai nền văn minh Ai Cập và vùng Lưỡng Hà. Không dễ có cái thay thế, đồng bằng được kẹp giữa biển và dãy núi hình thành vùng đất trung tâm trong thánh kinh được gọi là Judea và Samaria. Xa hơn trong đất liền là vực sâu và khô cằn thuộc Thung lũng Jordan và đến vòng cung sa mạc trải từ Sinai đến Ả Rập, Iraq và Syria.

Sự chật hẹp của tuyến đường duyên hải đã quyết định nhiều về lịch sử đầy sóng gió của Palestine. Quân đội đã mở chiến dịch dọc theo cuốc lộ từ thời các Pharaoh tới thời Richard Dũng Mãnh, Napoleon và Allenby. Tên của Jaffa xuất hiện lần đầu trong danh sách của các thành phố của người Canaan bị Thutmose III, người được cho là Pharaoh vĩ đại nhất của Ai Cập, chiếm vào năm 1468 trước Công nguyên. Vào những thế kỷ sau thời cai trị của người Ai Cập là tới người Philistine, người Assyria, người Babylon, người Ba Tư, người Hy Lạp, người Do Thái,người Roma, người Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ, người Pháp, người Anh.

Ở đây, Kinh thánh nói với chúng ta, Vua Solomon đã đưa những cây tuyết tùng từ Lebanon rồi lại được mang lên tới Jerusalern để xây ngôi đền cố định cho Thiên Chúa của dân Israel. Theo Tân ước, chính tại Jaffa, Peter đã khiến Tabitha sống lại. Và cũng chính lại Jaffa những người định cư của phong trào Phục quốc lần đầu đặt chân đến và bắt đầu xây dựng thủ đô-Tel Aviv, “thành phố đầu tiên của người Do Thái” thời hiện đại -đã nuốt chửng cảng nguyên thủy.

Lúc bắt đầu thế kỷ XX, Jaffa là thành phố lớn nhất của Ả Rập ở Palestine, bến cảng tồi tàn của nó tấp nập đứng hàng thứ ba ở Địa Trung Hải thuộc phía đông rồi mới tới Alexandria và Beirut. Thập niên 1870, cam Jaffa được đưa ồ ạt xuống tàu chở tới Anh, át hẳn những mặt hàng xuất khẩu như lúa mì, dầu ôliu và xà bông. Khoảng đầu thế kỷ XX, chừng 5000 du khách và khoảng 15.000 khách hành hương đi qua Jaffa mỗi năm. Dù được tiếp đón, nhưng người phương tây này vẫn được gọi là Franj, danh xưng của Ả Rập cổ để chỉ quân thập tự chinh.

Các du khách đã bỏ lại một thư viện ngày càng phình ra gồm những chuyện kể của khách lữ hành. Khoảng 2.000 tác phẩm, một số chúng bao gồm vài tập, được viết vào đúng tám thập niên giữa 1800 và 1878. Ngược lại, khoảng 1.500 bản thảo còn lại từ toàn bộ tác phẩm của mười lăm thế kỷ trước. Sự tuôn trào tài liệu này tập trung vào lịch sử kinh thánh nhưng không đề cập nhiều về Palestine đương thời.

Đất nước ấy được nhìn qua lăng kính nhuốm màu của quá vãng. Hiện tại, theo định nghĩa, là quốc gia bất hạnh và cùng cực, bằng chứng về sự nguyền rủa của Chúa.

Một số hình ảnh đáng mến nhất về Palestine là những thạch bản ngoại lai do họa sĩ Scotland, David Roberts, vẽ năm 1839. Nữ hoàng Victoria và các tổng giám mục của York và Canterbury là trong số những người đầu tiên mua tranh của ông. Ngay cả ngày nay, những phong cảnh về thánh kinh và khảo cổ là món quà mong ước cho bất kỳ ai đã từng lưu lại ở vùng đất này. Những hình ảnh này quá thân quen đến nỗi phải mất một thoáng để nhận ra những nét vặn vẹo và phóng túng nghệ thuật; dãy núi sừng sững và các vách đá thật ấn tượng. Tác phẩm mỹ thuật xưa quả là hùng vĩ, những con ngươi Ả Rập quá ấn tượng và tín đồ quá thành kính như thật. Tranh về Jaffa của ông được nhìn từ bãi biển đã mô tả đồi núi ấn lượng hơn thật nhiều.

Thuật nhiếp ảnh tới vùng Đất Thánh cùng thời với Roberts và sớm trở thành công nghệ phát đạt tạo ra số lớn hình ảnh về các đề tài kinh thánh.

Các ảnh tượng tôn giáo của Palestine luôn được chắt lọc bởi trí tưởng tượng, lòng thành kính bị lấn lướt bằng việc giẫm lên vùng đất mà đã có thời Abraham, Vua David, và Jesus từng đặt chân lên, người duy lý cảm thấy buồn cười trước những mê tín lờ mơ ấy, trong khi giới nhà binh có thể mất hút khi hồi tưởng những cuộc vây hãm và những chiến dịch quân sự.

Đối với người Do Thái, việc đến Jaffa là nhắc nhở đau lòng nhất về sự đánh mất Eretz Israel, Đất của Isarel, và là tâm trạng đáng thương vì cảnh tha hương của ngươi Do Thái. Các giáo sĩ nói, người Do Thái phải xé áo ba lần ở Palestine-lúc nhìn các thanh phố của Judah, lần nữa khi tới Jerusalem, và lần thứ ba khi họ tới trước khi thành thánh bị tàn phá. Đối với Herzl, là việc đến bờ Jaffa, nơi bao gồm “sự nghèo khổ, cùng cực và sự nóng bức toàn những màu xám xịt”.

Phần lớn du khách Kito giáo đi loanh quanh ẩn chứa tầm nhìn hão huyền về quá vãng, mục đồng với khăn trùm đầu đã khơi dậy ký ức về sự ra đời của Jesus trong khi cảnh biển Galilee có thể nhắc nhớ những lời của bài giảng trên Núi. Thomas Cook đã lợi dụng niềm vui thích mới ở Cận Đông để tổ chức “các chuyến du lịch phía Đông” năm 1869.

Những sách hướng dẫn là những sản phẩm của một thời, thời thống trị của châu Âu khi những người phương Tây tin vào sự ưu việt của họ. Những cuốn sách và những tuyến du lịch Palestine làm cho cảnh quan của vùng Đất Thánh thân thuộc hơn đối với người châu Âu và những giấc mơ được nhen nhóm lại về những cuộc Thánh chiến hào hùng. Mỗi khủng hoảng chính trị ở phương Đông khơi gợi một cơ hội mới ở châu Âu là Palestine bị tái chinh phục cho thế giới Kitô giáo, hay chí ít thì cũng bị hấp thu về mặt văn hóa dưới “cuộc Thánh chiến thái bình”. Nước Anh Tin hành bị cuốn vào tầm nhìn về ngày tận thế sắp xảy ra, điềm báo chính về chuyện trở về vùng Đất Thánh của người Do Thái và cuộc trao đổi với Kito giáo. Những cường quốc cạnh tranh ảnh hưởng bằng cách xây những học viện tôn giáo và giáo dục, bành trướng sự bảo trợ lãnh sự các thành phần thiểu số, như các giáo phái Kito giáo, Do Thái, và Druze.

Từ thập niên 1860, những lời kêu gọi thực dân hóa Palestine ngày càng ầm ĩ hơn. Những người biện hộ về sự ổn định của châu Âu lập luận rằng các cư dân Ả Rập hoặc bị lực lượng quân đội khuất phục, tập trung họ vào những khu riêng hoặc bị biến thành tầng lớp nô lệ.

Jaffa trở thành lực hút của những người nhìn xa trông rộng, những tay có suy nghĩ kỳ quặc, và những người từ tâm, những kẻ bắt đầu mua hết đất trang trại ở vùng đồng bằng xung quanh. Nước dồi dào, đất màu mỡ, giao thông thuận lợi, các lãnh sự nước ngoài sẵn sàng bảo vệ họ. Một nhóm 43 gia đình người Mỹ thuộc giáo hội Messiah, nhánh của Mormons, đến Palestine năm 1866 để thành lập vùng đất cho lần đến thứ hai của Chúa Cứu thế. Họ mang theo khung nhà làm sẵn và lần đầu tiên cơ cấu nông trại hiện đại ở Palestine. Dự án kéo dài khoảng một năm trước khi sụp đổ vì sự thử thách gay go, các chướng ngại của tệ quan liêu, và sự tố cáo lẫn nhau.

Năm 1868, phong trào đầu tiên của những người theo phái Luther trước đây tự xưng là Hội Đền thờ, tin rằng người Đức là "dân của Chúa" có quyền bất khả xâm phạm để sở hữu vùng Đất Thánh, đã định cư ở Haifa. Họ sớm lan rộng tới vùng Jaffa nơi họ đã chiếm giữ, trong số những tài sản khác, đất đai và nhà cửa của những người khai hoang Mỹ bỏ lại. Lúc cao điểm có khoảng 1.200 thành viên hội Đền thờ sống rải rác ở các cộng đồng khác nhau và phong trào này phát triển mạnh cho tới khi nổ ra Thế chiến II, khi các thành viên của nó bị người Anh bắt giam. Vùng lân cận Jerusalem do các thành viên hội Đền thờ xây dựng thường còn được gọi là "khu Kiều dân Đức."

Dòng người Do Thái vẫn tiếp tục đổ vào Palestine để sống một cuộc sống mộ đạo nơi những thành phố thánh ở Jerusalem, Hebron và Tiberias. Khi những người định cư thuộc dòng dõi Do Thái thế tục mới đầu tiên từ tây Âu đổ vào hồi năm 1882 sau cuộc tàn sát người Do Thái ở nam Nga, phần lớn người Ả Rập đã nhìn họ hơi khác với những nhóm người nước ngoài kỳ dị khác ẩn chứa những tầm nhìn không tưởng xa lạ. Nhưng những người định cư này, được nung nấu bởi ý tưởng luẩn quẩn quanh việc tái thiết cộng đồng Do Thái, đã không rời đi. Họ đã chinh phục vùng đất này.