← Quay lại trang sách

Chương II (tt)

2

Sau những thất bại mới và cuộc tổng rút lui của Đại Công Tước Chales, triều đình Vienna đã nhận thấy nguy cơ nếu kéo dài chiến tranh. Trong những ngày đầu tháng 4 năm 1797, tướng Bonaparte được tin báo chính thức là Hoàng Đế Francis nước Áo đề nghị mở cuộc đàm phán hòa bình. Cũng cần chú ý rằng về phần Bonaparte, ông ta cũng cố gắng tìm mọi cách để chấm dứt chiến tranh với nước Áo vào một thời cơ thuận lợi nhất cho mình và trong khi Bonaparte tập trung mọi lực lượng để truy kích Đại Công Tước Chales đang vội vã rút lui thì đồng thời Bonaparte cũng báo tin cho Đại Công Tước Chales biết là mình sẵn sàng điều đình ngừng chiến. Người ta nhận thấy bức thư của Bonaparte thật là kỳ lạ: Trong thư, để không làm tổn thương lòng tự ái của kẻ bại trận, Bonaparte viết rằng nếu ký được hòa ước thì Bonaparte sẽ lấy làm tự hào hơn là “cái vinh quang đau thương cho những thắng lợi quân sự đem lại”. “Chúng ta đã giết hại mất khá nhiều sinh linh và đã phạm khá nhiều tội đối với nhân loại đau thương rồi!”. Bonaparte nói với Chales như vậy.

Viện Đốc Chính chấp thuận ký hòa ước, chỉ còn lo chưa biết chọn ai để đi đàm phán. Nhưng trong khi Viện Đốc Chính suy nghĩ và khi người được chọn là Cluke bắt đầu lên đường đến đại bản doanh của Bonaparte thì viên tướng chiến thắng ấy đã ký xong hiệp ước đình chiến Leoben.

Ngay từ buổi đầu của cuộc đàm phán Leoben, Bonaparte đã giải quyết xong với Roma. Giáo Hoàng Pius VI, kẻ thù điên cuồng của cách mạng Pháp, coi “viên tướng của Tháng Hái Nho” như một tên tay sai của địa ngục, vì Bonaparte đã được thăng làm tổng chỉ huy để thưởng công đã diệt trừ được bọn Bảo Hoàng sùng đạo ngày 13 Tháng Hái Nho và Giáo Hoàng đã hết sức giúp đỡ nước Áo trong cuộc chiến đấu gian khổ. Ngay sau khi Wurmser nộp thành Mantua cho người Pháp cùng với 13.000 quân và hàng trăm khẩu pháo, ngay sau khi Bonaparte có thể rút được số quân vây thành ra thì Bonaparte liền mở một cuộc tiến công vào đất đai của toà thánh.

Quân đội của Giáo Hoàng bị tan vỡ ngay từ trận đầu tiên và tháo chạy nhanh đến nỗi tướng Junot, do Bonaparte cử đi truy kích, đã phải mất hai giờ mới đuổi kịp: Junot chém giết ngay một phần và bắt số còn lại làm tù binh. Rồi các thành phố lần lượt đầu hàng Bonaparte không một chút kháng cự. Bonaparte cướp hết những gì có giá trị: Tiền bạc, kim cương, tranh, bát đĩa quí giá. Cũng như ở miền Bắc nước Ý, các thành phố, nhà tu, kho tàng của những ngôi nhà thờ cổ đã mang lại cho Bonaparte một nguồn chiến lợi phẩm lớn. Bọn nhà giàu và những nhân vật thuộc tầng lớp giáo sĩ cao cấp, lũ lượt từng đám rời bỏ thành Roma đầy khủng khiếp, trốn chạy về phía Naples.

Giáo Hoàng Pius VI, khiếp sợ rụng rời, đã viết một bức thư lời lẽ khẩn khoản giao cho cháu là Hồng Y giáo chủ Cardinal Mattei cùng đi với một phái đoàn mang đến Bonaparte để cầu hòa. Tướng Bonaparte chấp nhận lời cầu xin đó với thái độ kẻ cả và cũng cho biết ngay rằng Giáo Hoàng chỉ có thể đầu hàng hoàn toàn. Hòa ước được ký vào ngày 19 tháng 2 năm 1797 ở Torino với điều kiện là Giáo Hoàng phải nhường lại một bộ phận đất đai khá rộng và giàu có nhất, trả một khoản đảm phụ 30 triệu francs vàng, nộp những bức tranh và những pho tượng độc nhất trong các viện bảo tàng. Những vật phẩm nghệ thuật đó cùng những vật phẩm đã vơ vét được ở Milan, Bologna, Modena, Parma, Piacenza và sau này ở Venezia đều được Bonaparte gửi về Paris. Vì sợ hãi đến cực độ Pius VI đã nhận ngay tất cả những điều kiện đó, việc này đối với Giáo Hoàng cũng dễ dàng, vả lại Bonaparte cũng chẳng cần đếm xỉa đến sự ưng thuận của Giáo Hoàng nữa.

Tại sao lúc này Napoléon không làm những việc mà mấy năm sau đây Napoléon phải làm? Tại sao Napoléon không chiếm thành Roma và không bắt giữ Giáo Hoàng? Trước hết, vì việc đàm phán hòa bình với nước Áo còn đang tiến hành và nếu Napoléon xử trí quá nghiệt ngã với Giáo Hoàng thì sẽ có thể cho giáo dân ở miền trung và miền Nam nước Ý nổi dậy, như vậy sẽ gây nên tình hình rối loạn ở hậu phương của Napoléon. Vả lại, chúng ta cũng nên biết rằng trong quá trình của chiến dịch nước Ý đầu tiên lẫy lừng ấy, với sự chiến thắng liên tiếp nhiều đội quân hùng mạnh và đáng sợ của đế quốc Áo thời bấy giờ, viên tướng trẻ ấy đã thức một đêm trắng đi đi lại lại suy nghĩ trước lều, lần đầu tiên tự đặt cho mình có nên tiếp tục chiến thắng và chinh phục mãi các đất đai mới cho Viện Đốc Chính, cho “bọn luật sư” ấy hay không? Trước khi Bonaparte khám phá ra điều đó để rồi đêm ấy trầm ngâm suy tưởng thì năm tháng đã phải trôi qua một đận dài, sông nước chân cầu đã phải thay đi trăm dòng nghìn lớp và máu người đã phải đổ thành sông. Và đương nhiên câu trả lời mà bản thân Bonaparte tự đáp lại mình là: Không, không và không! Và năm 1797, con người đã chinh phục nước Ý ấy, tuổi vừa 28, đã biết nhìn thấy ở Pius VI không phải là một lão già suy nhược và sợ hãi rụng rời để Napoléon muốn làm gì cũng được; Napoléon coi Pius VI là thủ lĩnh tinh thần của bao nhiêu triệu con người, ngay cả trên đất Pháp và kẻ nào muốn dựa vào hàng triệu con người ấy để củng cố quyền lực của mình ắt phải tính đến lòng mê tín của họ. Napoléon đánh giá giáo hội với nghĩa rất đúng của nó: Một công cụ cảnh sát tinh thần, rất tiện lợi để điều khiển đông đảo quần chúng và về phương diện này, theo quan điểm của Napoléon, giáo hội Thiên Chúa Giáo có tác dụng đặc biệt, mặc dù điều không may là xưa nay nó đã và vẫn cứ tiếp tục mưu toan đóng một vai trò chính trị độc lập; sở dĩ như vậy chính vì nó có một tổ chức hoàn chỉnh và hoàn toàn phục tùng quyền lực Giáo Hoàng.

Ngay chính cả cái chức Giáo Hoàng, Napoléon cũng coi như là một trò hoàn toàn lừa bịp đã được xây dựng được thừa nhận qua gần 2000 năm lịch sử và do các giám mục thành Roma thời đó đã khôn khéo lợi dụng những điều kiện địa phương và lịch sử của đời sống trung cổ để bịa đặt ra. Nhưng một cái trò bịp bợm như vậy lại đã có thể tạo nên một lực lượng chính trị rất quan trọng. Napoléon hiểu rất rõ điều đó.

Bị trấn áp và bị mất những lãnh địa tốt đẹp nhất, Giáo Hoàng run sợ sống an toàn một thời gian trong lâu đài Vatican. Napoléon không vào thành Roma; khi vừa giải quyết xong công việc với Pius VI, Napoléon vội vàng trở lại Bắc Ý, ở đó Napoléon còn phải ký hòa ước với nước Áo bại trận.

Trước hết cần phải nói rằng trong cuộc đàm phán để ký hiệp ước đình chiến Leoben cũng như sau này ký Hòa Ước Campo Formio, hay nói chung trong tất cả các cuộc đàm phán ngoại giao, Bonaparte luôn luôn chỉ đạo với thói quen võ đoán thường ngày và ra điều kiện một cách độc đoán. Tại sao lại có thể như thế được? Tại sao Bonaparte lại có thể tự giải quyết dễ dàng như thế được? trước hết là do theo cái quy luật cũ quy định: “Không được phê bình những người chiến thắng”! Những tướng tá Cộng Hòa (những người giỏi nhất như Moreau chẳng hạn), cũng vào năm 1796 ấy và đầu năm 1797, đã bị kẻ địch đánh bại nhiều lần trên sông Rhine và đạo quân sông Rhine đã phải xin tiền chính phủ để sống, mặc dầu ngay từ đầu, đạo quân đó đã được trang bị rất đầy đủ. Còn Bonaparte, ông ta đã biến bầy người rách rưới và vô kỷ luật thành một đội quân đáng sợ và trung thành, không đòi hỏi chính phủ một chút gì; trái lại, còn gửi về Paris hàng triệu đồng tiền vàng, các tác phẩm nghệ thuật, đồng thời Bonaparte lại đã chinh phục được nước Ý, đã tiêu diệt hết đội quân này đến đội quân khác của nước Áo trong rất nhiều trận giao tranh và đã buộc nước Áo phải cầu hòa. Trận Rivoli, việc chiếm thành Mantua và việc chinh phục lãnh thổ của Giáo Hoàng - những chiến công ấy đã xác lập vững vàng uy tín của Bonaparte.

3

Leoben là một thành phố thuộc tỉnh Styria nước Áo, cách Vienna chừng 250km. Để bảo đảm quyền chiếm cứ đúng như thủ tục và vĩnh viễn tất cả những gì mà Bonaparte đã chinh phục được và còn muốn chinh phục thêm nữa ở miền Nam và hơn nữa, muốn dẫn người Áo đến chỗ bằng lòng cùng chịu đựng những hy sinh nặng nề trên chiến trường Tây Đức, nơi mà quân Pháp đang gặp nhiều khó khăn, thì dù sao cũng cần thiết phải bù lại chút ít cho nước Áo. Tuy tiền quân của Bonaparte đã tiến đến Leoben, nhưng Bonaparte cũng biết rằng nếu cứ đánh dồn Áo đến thế cùng, Áo có thể sẽ chống lại một cách điên cuồng và cũng đã đến lúc cần phải giải quyết cho xong việc nước Áo. Nhưng lấy ở đâu để bù lại cho Áo? Ở Venezia. Sự thật là nước Cộng Hòa Venezia giữ thái độ hoàn toàn trung lập và làm mọi cách để tránh khỏi bị xâm chiếm nhưng trong những trường hợp như vậy, không bao giờ Bonaparte một chút lúng túng. Chộp được bất cứ cớ nào, Bonaparte đã phái sang Venice một sư đoàn. Trước khi làm việc này, Bonaparte đã ký hiệp ước đình chiến Leoben với Áo theo những điều kiện sau đây: Áo nhường cho Pháp tả ngạn sông Rhine và tất cả những đất đai của họ trên đất Ý mà Bonaparte đã chiếm được; để bù lại, Pháp hứa đổi cho Áo xứ Venice.

Thực tế Bonaparte đã quyết định chia cắt Venice. Phần thành phố trên bãi biển sẽ thuộc về nước Áo, còn phần đất đai của Venice trên đất liền sẽ thuộc về nước “Cộng Hòa bên kia dãy núi Apls” (Cisalpine HA) mà Bonaparte quyết định sẽ thành lập cùng với toàn bộ đất đai của Ý mà Bonaparte đã chinh phục được. Đương nhiên trên thực tế nước “Cộng Hòa mới này” có gì khác hơn là một vùng đất đai mới của Pháp. Chỉ còn có một nghi thức nhỏ nữa là báo cho Thủ Tướng, cho Thượng Nghị Viện nước Cộng Hòa Venezia biết rằng quốc gia của họ, độc lập từ ngày khai quốc, vào giữa thế kỷ thứ V, đến nay đã không còn nữa, vì tướng Bonaparte muốn như vậy để những kế hoạch ngoại giao của ông ta được thành công tốt đẹp. Đối với ngay cả chính phủ Pháp, Bonaparte cũng chỉ báo cáo cho biết sau khi đã bắt tay vào thực hiện mưu đồ đó. Bonaparte viết cho Thủ Tướng nước Cộng Hòa Venezia đang cầu xin tha tội: “Ông tưởng rằng những binh đoàn Pháp ở Ý sẽ tha thứ cho ông cái tội tàn sát mà ông đã gây nên chăng? Máu của các bạn chiến đấu của chúng tôi sẽ được trả thù”. Những lời nói xa xôi ấy liên quan đến việc một viên đại uý Pháp đã bị giết ở vịnh Lido.

Nhưng cũng chẳng cần viện đến bất cứ một cớ nào vì tất cả đều rõ ràng. Bonaparte đã ra lệnh cho tướng Baraguay D’Hilliers đánh chiếm Venice. Đến tháng 3 năm 1797, mọi việc đều xong xuôi; sau 13 thế kỷ lịch sử độc lập và có biết bao nhiêu sự kiện phong phú, nước Cộng Hòa buôn bán này đã không còn nữa. Món chiến lợi phẩm béo bở để chia nhau - món duy nhất mà Bonaparte còn thiếu để có thể ký với người Áo một hòa ước tối hậu và có lợi - đã rơi vào tay Bonaparte như vậy đó.

Nhưng việc đánh chiếm Venice lại giúp cho Bonaparte một việc khác, hoàn toàn bất ngờ. Vào một buổi tối tháng 5 năm 1797, một người đưa thư đã mang đến bản doanh của Tổng chỉ huy quân đội Pháp, tướng Bonaparte, đang ở Milan, một tin khẩn của tướng Bernadotte, cấp dưới của Bonaparte, báo rằng y vừa chiếm được Trieste. Vấn đề là ở chỗ đã lấy được một cái cặp trong tay một hầu tước d’Antraigues nào đó, một tên Bảo Hoàng và tay sai của bọn Bourbon. Để trốn quân Pháp, d’Antraigues đã từ Venice đến Triest, nhưng Bernadotte đã vào thành phố rồi và đã bắt được y. Chiếc cặp ấy chứa nhiều tài liệu lạ lùng.

Để có thể hiểu hết lợi hại của việc bắt được chiếc cặp ấy, cần nhắc qua sự việc đang xảy ra ở Paris hồi đó.

Giới tài chủ lớn, tư bản thương nghiệp và quý tộc địa chủ - hay có thể gọi được là cái chất nuôi dưỡng cuộc bạo động Tháng Hái Nho năm 1795 - chưa hề bị tiêu diệt và lại càng không hề bị đạn đại bác của Bonaparte tiêu diệt. Đại bác của Bonaparte chỉ tiêu diệt được bộ tham mưu của chúng, những phần tử cầm đầu các khu vực đã sát cánh với những tên Bảo Hoàng tích cực trong ngày hôm đó. Nhưng còn bộ phận trên đây của giai cấp tư sản, ngay cả sau Tháng Hái Nho, vẫn không ngừng ngấm ngầm chống lại Viện Đốc Chính.

Vào mùa xuân năm 1796, khi tổ chức cách mạng của Babeuf bị bại lộ và ám ảnh của một cuộc khởi nghĩa của giai cấp vô sản, nghĩa là của một Tháng Đồng Cỏ mới, bắt đầu gây hoảng hốt cho bọn hữu sản thành thị và nông thôn thì bọn Bảo Hoàng bị đánh bại trong cuộc bạo động Tháng Hái Nho đã lại hồi phục tinh thần và ngóc đầu dậy. Nhưng lần này nữa, chúng lại đã tính lầm, cũng như vào mùa hè năm 1795 ở Quiberon, và Tháng Hái Nho ở Paris. Lần này nữa, chúng lại đã không đếm xỉa đến một thực tế là: Nếu tầng lớp địa chủ mới muốn tạo nên một chính quyền mạnh mẽ vững chắc để bảo vệ tài sản của chúng; nếu giai cấp tư sản mới, làm giàu bằng cách bán tài sản của quốc gia, sẵn sàng thừa nhận một chế độ quân chủ, thậm chí một chế độ quân chủ độc đoán, thì chỉ có một số nhỏ xíu đại tư sản thành thị và nông thôn tán thành dòng họ Bourbon trở về, vì một tên Bourbon bao giờ cũng chỉ là vua của bọn quý tộc chứ không phải vua của giai cấp tư sản, và ắt chế độ phong kiến sẽ trở lại với tên vua đó, và bọn quý tộc lưu vong ắt sẽ kéo về đòi lại đất đai của chúng.

Tuy vậy, so với các nhóm phản cách mạng khác thì bọn Bảo Hoàng là có tổ chức nhất, nhất trí nhất, lại được sự giúp đỡ tích cực và sự viện trợ về vật chất của nước ngoài và được tầng lớp tăng lữ ủng hộ, cho nên vào mùa xuân và mùa hạ năm 1797, lại một lần nữa bọn chúng nắm vai trò lãnh đạo trong việc chuẩn bị lật đổ Viện Đốc Chính. Rốt cuộc, chính cái đó đã làm cho phong trào lần này cũng lại bị thất bại. Thực tế, mỗi một cuộc tuyển cử bộ phận vào Hạ Nghị Viện đều hiển nhiên có lợi cho các phần tử phản động, và đôi khi còn làm lợi rõ rệt cho bọn Bảo Hoàng. Ngay trong Viện Đốc Chính, đang bị phong trào phản cách mạng uy hiếp, cũng có những sự do dự. Barthélemy và Carnot phản đối mọi biện pháp kiên quyết, hơn nữa Barthélemy còn có cảm tình với phong trào đang tiến triển ấy về nhiều điểm. Ba vị đốc chính khác, Barras, Rewbell, La Révellière Lépeaux luôn luôn hội họp với nhau, nhưng lại không quyết định phải làm gì để ngăn ngừa cái âm mưu đang chuẩn bị ấy.

Khi Barras và hai đồng sự không muốn từ bỏ chính quyền và có lẽ không muốn từ bỏ cuộc đời mà không chiến đấu - đã quyết tâm chiến đấu bằng mọi cách thì một trong những trường hợp làm cho họ lo lắng quá đỗi là việc tướng Pichegru, người nổi tiếng vì chinh phục nước Hà Lan vào năm 1795, lại đứng về phía đối phương. Pichegru được bầu làm chủ tịch Hạ Nghị Viện, và do đó mà đứng đầu quyền lập pháp của Nhà Nước: Người ta đã dành cho Pichegru quyền chỉ đạo cuộc tiến công sắp tới vào “ba vị chấp chính” Cộng Hòa, người ta vẫn gọi ba vị đốc chính (Barras, La Révellière Lépeaux và Rewbell) như vậy.

Đó là tình hình nước Pháp vào mùa hạ năm 1797. Vừa chinh chiến ở Ý, Bonaparte vừa chăm chú theo dõi tình hình ở Paris. Bonaparte thấy rõ ràng là nền Cộng Hòa đang bị uy hiếp.

Cá nhân Bonaparte cũng không ưa gì nền Cộng Hòa mà không bao lâu nữa ông ta sẽ bóp nghẹt. Nhưng Bonaparte không có ý để cho việc đó xảy ra quá sớm và nhất là có lợi cho kẻ khác. Trong cái đêm thao thức không ngủ được ở nước Ý, Bonaparte đã tự trả lời là không hiến dâng mãi chiến công duy nhất cho quyền lợi của “bọn luật sư”. Nhưng Bonaparte lại càng không muốn chiến thắng vì quyền lợi của dòng họ Bourbon. Hệt như các viên đốc chính, Bonaparte cũng lo lắng khi thấy một viên tướng nổi tiếng như Pichegru đứng đầu bọn âm mưu. Vào giờ phút quyết định, kẻ ấy có thể làm cho binh lính lầm lạc, chỉ vì họ tin vào cái chủ nghĩa Cộng Hòa thật thà của Pichegru mà họ có thể theo Pichegru, không cần biết Pichegru sẽ dẫn họ đi đến đâu.

Bây giờ thì ta có thể hiểu được dễ dàng tâm trạng của Bonaparte khi người ta tức tốc gửi từ Triest đến cho Bonaparte chiếc cặp to tướng, tước được trong tay hầu tước d’Antraigues, và trong đó Bonaparte đã tìm thấy những bằng chúng sờ sờ về tội phản bộ của Pichegru, về những cuộc thương lượng bí mật của Pichegru với Foche Borelle, một tên tay chân của hoàng thân Condé, những bằng chứng trực tiếp về hành vi phản bội đã lâu của hắn đối với nền Cộng Hòa mà hắn phục vụ. Có một việc phiền toái nhỏ đã làm cho việc gửi những giấy tờ ấy về Paris cho Barras phải chậm lại ít lâu. Ở một trong những giấy tờ đó (tài liệu chủ yếu để buộc tội Pichegru), có chép việc một tên tay sai khác của bọn Bourbon, Monheyar, thuật lại một trong nhiều việc khác là hắn đã được đến tổng hành dinh của Bonaparte ở Ý và cũng đã cố gắng thương lượng với Bonaparte. Mặc dầu tài liệu chẳng có gì, ngoài vài hàng chữ chẳng đáng kể ấy, mặc dầu thực tế là Monheyar có thể đã gặp Bonaparte với một cái cớ nào đó và dưới một cái tên giả mạo nào đó, nhưng Bonaparte thấy tốt hơn hết là thủ tiêu những dòng chữ ấy để khỏi làm giảm nhẹ vấn đề về Pichegru. Bonaparte hạ lệnh dẫn d’Antraigues đến và bắt hắn viết lại ngay tài liệu ấy, bỏ đoạn nói trên và ký vào đó, nếu không sẽ xử bắn. D’Antraigues tức khắc làm những điều mà người ta yêu cầu và sau đó ít lâu hắn được thả ra (dưới hình thức một “vụ vượt ngục” giả). Sau đó, các tài liệu được gửi tới cho Barras. Việc này làm cho “ba vị chấp chính” dễ bề hành động. Thoạt tiên họ không công bố các tài liệu đáng sợ mà Bonaparte đã gửi về. Họ điều về một số các sư đoàn được đặc biệt tin cậy, rồi đợi tướng Augereau do Bonaparte đã cấp tốc điều từ Ý về Paris để ứng cứu cho các vị đốc chính. Ngoài ra, Bonaparte còn hứa gửi về ba triệu francs vàng, kết quả của các cuộc trưng thu mới ở Ý, để bổ sung cho quỹ của Viện Đốc Chính giữa lúc đang nguy ngập.

Ba giờ sáng ngày 18 Tháng Quả (4 tháng 9 năm 1797), Barras hạ lệnh bắt giữ hai viên đốc chính bị tình nghi, vì thái độ ôn hòa của họ: Barthélemy bị bắt, còn Carnot đã trốn thoát. Hàng loạt những tên Bảo Hoàng bị bắt giữ, và người ta tiến hành thanh trừ Hạ và Thượng Nghị Viện. Sau các vụ bắt bớ ấy là các vụ đưa đi đày ở Guyana không cần xét xử (mà rất ít người được trở về), các tờ báo bị tình nghi là Bảo Hoàng bị đóng cửa, một đợt bắt bớ mới diễn ra ở Paris và ở các tỉnh. Sáng sớm ngày 18 Tháng Quả, nhiều áp phích lớn được dán lên khắp các tường: Đó là những bản sao các tài liệu mà Bonaparte đã gửi về rất đúng lúc cho Barras, Pichegru, chủ tịch Hạ Nghị Viện, bị bắt và lập tức bị đưa đi đày ở Guyana. Cuộc đảo chính ngày 18 Tháng Quả không gặp phải sức phản kháng nào. Quảng đại quần chúng lao động, căm thù chế độ quân chủ hơn Viện Đốc Chính, vô cùng hoan hỉ trước việc đập tan được bọn đồ đảng cố cựu của triều đại Bourbon. Và lần ấy “các khu vực giàu sang” đã không dám ló mặt ra đường vì chúng còn nhớ rất rõ sự trừng phạt khủng khiếp bằng đại bác mà Bonaparte đã giáng xuống chúng vào Tháng Hái Nho năm thứ IV. Viện Đốc Chính đã chiến thắng, nền Cộng Hòa thoát khỏi cơn nguy biến, và từ đại bản doanh xa xôi bên Ý, vị tướng chiến thắng Bonaparte đã nhiệt liệt chúc mừng Viện Đốc Chính (mà hai năm sau Bonaparte sẽ thủ tiêu) đã cứu vãn được nền Cộng Hòa (mà bảy năm sau Bonaparte cũng thủ tiêu nốt).

4

Bonaparte lấy làm hài lòng về sự biến ngày 18 Tháng Quả, cả về phương diện khác của nó. Hiệp ước Leoben, ký hồi tháng 5 năm 1797 với Áo, mới chỉ là một sự đình chiến. Vào mùa hạ, chính phủ Áo đột nhiên có những dấu hiệu táo bạo và gần như dọa nạt nữa. Còn Bonaparte thì đã biết rất rõ vấn đề: Lúc ấy, nước Áo cũng như cả Châu Âu quân chủ đã nín thở theo dõi ván bài đang diễn ra ở Paris. Ở Ý, người ta chờ đợi ngày này qua ngày khác sự sụp đổ của Viện Đốc Chính và của nền Cộng Hòa, chờ đợi việc quay trở lại của dòng họ Bourbon và theo sau đó, tất nhiên là việc thanh toán tất cả những đất đai mà quân Pháp đã chiếm được. Ngày 18 Tháng Quả, với sự thất bại của bọn Bảo Hoàng và việc công bố âm mưu phản bội của Pichegru, đã chấm dứt tất cả những hy vọng đó.

Từ nay, tướng Bonaparte tập trung cao độ vào việc ký hòa ước một cách nhanh chóng. Để đàm phán với Bonaparte, nước Áo cử nhà ngoại giao có tài là Cobenzl. Nhưng Cobenzl đã gặp phải một tay bậc thầy. Qua những cuộc thương lượng liên tục kéo dài và khó khăn, Cobenzl phàn nàn với chính phủ mình rằng ít khi gặp phải “một người hay sinh sự và nhẫn tâm” đến như tướng Bonaparte. Trong dịp này, tài ngoại giao của tướng Bonaparte đã bộc lộ rõ rệt hơn bao giờ hết, và theo ý kiến của nhiều người được chứng kiến hồi bấy giờ, tài ngoại giao của Bonaparte cũng không kém gì tài chỉ huy quân sự. Hồi này, nóng giận còn là điều mới mẻ đối với Bonaparte, và ông ta chỉ bị những cơn điên khùng lôi cuốn có một lần, nhưng sau này, khi đã thấy mình là chủ tể cả Châu Âu, thì Bonaparte lại thường hay mắc phải. “Đế quốc của ngài là một con đĩ già quen thói hiến thân cho mọi người.... ngài quên rằng nước Pháp là kẻ chiến thắng, mà các ngài là những kẻ chiến bại... Ngài quên rằng ngài thương lượng với tôi ở đây, xung quanh có lính cận vệ của tôi...”, Bonaparte thịnh nộ hét lên như vậy và hất đổ cái bàn tròn trên đặt bộ đồ cà phê quý do Cobenzl mang tới, món quà của Hoàng Hậu nước Nga Catherine tặng nhà ngoại giao Áo. Bộ đồ vỡ tan ra từng mảnh. Cobenzl báo cáo rằng: “Bonaparte đã xử sự như một kẻ mất trí”. Cuối cùng hòa ước giữa nước Cộng Hòa Pháp và đế quốc Áo đã được ký kết ở cái tỉnh nhỏ Campo Formio ngày 17 tháng 10 năm 1797.

Hầu hết những điều Bonaparte yêu sách đều được thoả mãn ở Ý, nơi Bonaparte đã chiến thắng, cũng như ở Đức, nơi mà người Áo chưa bao giờ bị các tướng Pháp đánh bại. Như ý muốn của Bonaparte, xứ Venice đã được trao cho Áo để đền bù vào phần đất đai ở tả ngạn sông Rhine mà nước Áo đã nhượng cho Pháp.

Tin ký hòa ước làm Paris sôi nổi vui mừng. Nước Pháp chờ mong ở hòa bình sự phục hưng nền thương nghiệp và kỹ nghệ. Tên tuổi vị tướng có tài được tất cả mọi người nhắc nhở.

Mọi người đều thấy rõ rằng các tướng khác đều đã thua trận trên sông Rhine, chỉ riêng có Bonaparte đã thắng ở Ý và sông Rhine cũng đã được cứu thoát. Những lời ca ngợi chính thức, không chính thức và riêng tư đăng trên báo chí và thốt ra từ miệng mỗi người hòa thành một bản hợp tấu không ngừng không dứt để tán dương viên tướng chiến thắng, con người chinh phục nước Ý. Trong một bài diễn văn, viên đốc chính La Révellière Lépeaux thốt lên rằng: chỉ có tinh thần hùng cường của tư tưởng tự do mới có thể kích thích được quân đội ở Ý và Bonaparte. Ông ca ngợi hạnh phúc của nước Pháp.

Giữa thời gian ấy, Napoléon gấp rút hoàn thành việc tổ chức nước Cộng Hòa chư hầu mới, nước “Cộng Hòa ở bên kia rặng núi Apls”, trong đó có một phần đất đai đã chiếm được, và trước hết là miền Lombardia. Một phần khác thì trực tiếp sáp nhập vào nước Pháp. Sau hết, phần còn lại, như thành Roma, lúc đó còn nằm trong tay vua chúa cũ của chúng, nhưng trên thực tế chúng nằm trong hệ thống chư hầu của nước Pháp. Bonaparte khéo léo tổ chức các nước “Cộng Hòa bên kia rặng núi Apls” dưới hình thức một Nghị Viện tư vấn gồm đại biểu của những tầng lớp giàu có trong nhân dân, nhưng mọi quyền hành đều lọt vào tay các nhà cầm quyền chiếm đóng Pháp và uỷ viên phái từ Paris sang. Luận điệu trống rỗng cổ truyền về vấn đề giải phóng các dân tộc, các nước Cộng Hòa anh em, v.v. chỉ gợi cho Napoléon một sự khinh bỉ ra mặt.

Không một phút nào Napoléon tin rằng lại đã có một số người, dù rằng rất ít, thấy hứng thú với cái tự do mà chính Napoléon đã nói trong những lời tuyên bố của ông ta với nhân dân các nước bị xâm chiếm.

Theo bản dịch chính thức được truyền đi khắp Châu Âu thì dân tộc Ý vĩ đại đã quẳng cái ách mê tín và áp bức đè nặng từ bao thế kỷ, đã cầm vũ khí để giúp đỡ những người Pháp giải phóng họ nhưng, thực ra, Bonaparte đã báo cáo mật với các vị đốc chính rằng các vị đã lầm khi cho rằng tư tưởng tự do sẽ có thể thúc đẩy được một dân tộc già nua mê tín, khiếp nhược và xảo quyệt làm nên đại sự. Trong quân đội của Bonaparte không hề có một người Ý, trừ phi người ta cho rằng một nghìn rưỡi kẻ lười biếng, đã nhặt nhạnh được ở ngoài phố, chỉ biết đi ăn cướp và chẳng làm được trò gì ấy cũng là quân đội. Bonaparte nói tiếp rằng chỉ có một cách duy nhất là cai trị khéo léo, dựa vào “kỷ luật nghiêm khắc” mới có thể nắm chắc được nước Ý. Và người Ý đã có dịp được biết Bonaparte quan niệm thế nào là kỷ luật nghiêm khắc. Bonaparte đã trừng phạt tàn nhẫn nhân dân thành phố Binatco và Pavia, cũng như một vài làng khác vì binh lính Pháp đã bị giết ở lân cận những làng ấy.

Trong mọi trường hợp, hành động của Bonaparte đều bắt nguồn từ một đường lối chính trị rõ ràng mà ông ta luôn luôn trung thành và giữ vững: không bao giờ nên tàn bạo vô ích, nhưng khi cần thiết để khuất phục nước bị chiếm thì phải khủng bố nặng nề và khốc liệt. Ở Ý, Napoléon đã thủ tiêu mọi dấu vết của luật lệ phong kiến ở bất kỳ nơi nào, và cấm giáo hội, nhà tu được quyền thu một vài khoản bổng cấp; trong một năm rưỡi ở Ý (từ mùa xuân năm 1796 đến cuối mùa thu năm 1797), Napoléon đã thành công trong việc ban bố một số đạo luật làm cho tình trạng xã hội và pháp chế miền Bắc Ý gần giống như tình trạng mà giai cấp tư sản đã lập nên ở Pháp. Để bù lại, Napoléon đã khai thác một cách có phương pháp tất cả những đất đai của Ý ở tất cả những nơi mà ông ta đã đặt chân tới. Napoléon đã gửi về cho Viện Đốc Chính hàng triệu đồng tiền vàng và hàng trăm tác phẩm nghệ thuật quý giá của các viện bảo tàng và các phòng triển lãm nghệ thuật ở Ý. Napoléon đã không quên bản thân ông ta cũng như các tướng lĩnh của ông ta: Sau chiến dịch ấy, khi trở về họ đều giàu có.

Tuy nhiên, trong khi bóc lột nước Ý thậm tệ như vậy, Napoléon nhận thấy rằng, theo ý ông ta tuy người Ý rất khiếp nhược nhưng chẳng có lý do gì khiến họ yêu mến người Pháp (họ phải nuôi dưỡng quân đội Pháp thường trực trên đất nước họ), và rồi có thể một ngày kia họ sẽ chẳng còn kiên trì nhẫn nhục được nữa. Vì vậy, đe dọa khủng bố bằng vũ lực là biện pháp hành động chủ yếu đối với người Ý để buộc họ tuân theo ý muốn của kẻ đi chinh phục.

Bonaparte còn muốn ở lại Ý, nhưng sau Hòa Ước Campo Formio, Viện Đốc Chính đã rất khéo léo song cố thiết triệu Bonaparte về Paris và bổ nhiệm là Tổng chỉ huy đội quân sẽ đi đánh nước Anh.

Đã từ lâu, Bonaparte cảm thấy Viện Đốc Chính đã bắt đầu sợ mình. “Họ ganh ghét tôi, tôi biết, mặc dầu họ xu nịnh tôi. Nhưng họ sẽ không thể làm rối trí tôi được. Họ vội vã bổ nhiệm tôi làm tướng đạo quân đi đánh nước Anh để rút tôi ra khỏi nước Ý, nơi mà tôi làm vua nhiều hơn là làm tướng”. Napoléon đã nhận xét việc bổ nhiệm của mình như vậy qua những lời trao đổi tâm sự riêng tư.

Ngày 7 tháng 12 năm 1797, Bonaparte có mặt ở Paris, tại đó, ngày mồng 10, toàn thể Viện Đốc Chính mở cuộc tiếp đón long trọng Bonaparte ở điện Luxembourg. Quần chúng đông nghịt đứng vây quanh cung điện, hò reo, vỗ tay như sấm dậy khi Bonaparte tới nơi. Đối với bài diễn văn của Barras, vị đốc chính thứ nhất, cũng như của các đồng sự của Barras, của Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Talleyrand, con người thông minh nhưng vụ lợi, có tài phán đoán về tương lai hơn ai hết, và những nhân vật khác trong chính phủ, cùng những lời hoan hô của đông đảo quần chúng trên quảng trường, viên tướng 28 tuổi đó đều tiếp nhận với một vẻ hoàn toàn bình thản, như đó là một việc tất nhiên và không hề làm cho Bonaparte ngạc nhiên. Trong thâm tâm, không bao giờ Bonaparte quý trọng những biểu thị nhiệt tình của quần chúng nhân dân. “Chà! Nếu tôi phải lên máy chém, hẳn họ cũng sẽ nô nức kéo đến đông như thế này trên con đường tôi đi”, sau những đợt sóng hoan hô ấy, Bonaparte đã nói như vậy (tất nhiên không nói công khai).

Vừa về tới Paris, Bonaparte đã cố sức làm cho Viện Đốc Chính chấp nhận kế hoạch một cuộc đại chiến mới: Với tư cách là người tướng được chỉ định để tiến hành những cuộc hành binh chống nước Anh, Bonaparte nhận định rằng có thể uy hiếp nước Anh, từ phía Ai Cập, như vậy sẽ dễ thắng lợi hơn là từ biển Manche, vì ở Manche hạm đội Anh mạnh hơn hạm đội Pháp. Bởi vậy, Bonaparte đề nghị chiếm Ai Cập để xây dựng ở Phương Đông những cứ điểm tiếp cận và những căn cứ quân sự nhằm uy hiếp nền thống trị của Anh ở Ấn Độ.

Mùa hạ năm 1798, ở Châu Âu, khi biết được tin ấy, nhiều người tự hỏi không hiểu sao Bonaparte có điên không, vì đến tận lúc đó kế hoạch mới và sự bàn bạc của Bonaparte trong các phiên họp của Viện Đốc Chính vào mùa xuân năm ấy vẫn còn giữ rất bí mật. Nhưng, cái mà bọn dông dài ngốc nghếch đứng tít đằng xa ngắm nghía cho là một sự phiêu lưu kỳ cục thì thực tế lại liên quan mật thiết đến nguyện vọng đã ấp ủ từ lâu của giai cấp tư sản cách mạng Pháp, cũng như của giai cấp tư sản nước Pháp trước cách mạng. Kế hoạch của Bonaparte đã được chấp thuận.