Chương III (tt)
Ngay trước khi bắt đầu cuộc viễn chinh xâm lược Syria, Bonaparte cũng đã từng có dịp để thấy rõ rằng người Ả Rập không phải ai ai cũng hứng thú về cái gọi là “công cuộc giải phóng khỏi ách Mamelukes” mà người Pháp, kẻ chinh phục, thường luôn luôn nói tới trong các bản tuyên bố của mình. Quân Pháp có đầy đủ lương thực là do họ đã đặt ra một chế độ trưng thu và thuế khóa rất có hiệu lực, song đó là một ách đè nặng lên nhân dân; nhưng tiền mặt thì không dễ dàng như vậy và người ta đã thi hành nhiều biện pháp khác nhau để kiếm cho ra tiền.
Tướng Kleber, mà Bonaparte để lại ở Alexandria làm toàn quyền, đã cho bắt viên tù trưởng cũ của thành phố đó là Sidy Mohammed El Coraim, một người rất giàu, bị buộc tội là phản nghịch mặc dầu chẳng có chứng cớ gì. El Coraim bị áp giải đi Cairo, đến đó người ta nói cho El Coraim biết rằng muốn thoát chết phải nộp 300.000 francs vàng. Trước sự bất hạnh của mình, El Coraim cho rằng đó là định mệnh: “Nếu số mệnh đã bắt tôi phải chết lúc này thì chẳng có cái gì có thể cứu được tôi và tiền bạc của tôi ắt bị mất không; nếu số mệnh cho tôi sống thì tại sao tôi lại phải nộp tiền?”. Tướng Bonaparte hạ lệnh chém đầu và mang đi bêu ở ngoài phố với tấm biển sau đây: “Tất cả những kẻ phản bội và những kẻ không giữ đúng lời hứa sẽ bị trị tội như thế này”. Đã tìm đi tìm lại vẫn không thấy số tiền của viên tù trưởng bị hành hình đã giấu đi. Để bù vào đó, một số nhà giàu Ả Rập đã nộp tất cả những gì mà người ta đòi hỏi ở họ, và chỉ trong vài ngày sau cuộc hành hình El Coraim, chừng bốn triệu francs vàng đã nằm trong quỹ quân đội Pháp. Đối với thường dân, cố nhiên người ta chẳng cần dùng đến những biện pháp phiền phức.
Cuối tháng 10 năm 1798, một mưu toan khởi nghĩa đã xảy ra ở ngay Cairo. Một vài tên lính thuộc quân đoàn chiếm đóng đã bị đánh một cách công nhiên và bị giết, nghĩa quân đã kháng cự trong ba ngày liền ở một vài khu. Cuộc trấn áp diễn ra rất khốc liệt. Ngoài những người Ả Rập và fellas bị tàn sát hàng loạt trong cuộc trấn áp, những cuộc hành hình liên tiếp đã diễn ra trong nhiều ngày sau, mỗi lần từ 12 đến 30 người.
Cuộc nổi dậy ở Cairo vang đội đến các làng lân cận. Khi được tin về cuộc khởi nghĩa đầu tiên trong số các cuộc khởi nghĩa đó, Bonaparte hạ lệnh cho viên sĩ quan hầu cận của mình là Caroisdie đến tận nơi, vây chặt bộ lạc lại, chém sạch đàn ông không trừ một ai, dẫn đàn bà, trẻ con về Cairo và đốt hết nhà cửa. Mệnh lệnh được chấp hành triệt để. Đàn bà và trẻ con phải đi bộ về Cairo, bị chết một số lớn ở dọc đường. Và sau cuộc hành binh trừng phạt đó vài giờ, người ta thấy đoàn lừa thồ những bao tải đến quảng trường của thành phố Cairo. Người ta mở những bao tải ấy và đầu lâu những người đàn ông trong cái bộ lạc phạm tội lăn lóc trên mặt đất.
Theo lời những người được mục kích cảnh ấy thì những biện pháp man rợ đó đã làm cho nhân dân hoảng sợ trong một thời gian. Tuy vậy, Bonaparte vẫn phải tính đến hai trường hợp cực kỳ nguy hiểm với ông ta. Trước hết là cách đó ít lâu, đúng một tháng sau cuộc đổ bộ lên Ai Cập, đô đốc Nelson cuối cùng đã tìm thấy hạm đội Pháp trú ẩn ở vùng biển Abu Qir và Nelson đã tiến công tiêu diệt được hạm đội ấy. Đô đốc Pháp Bruay bị chết trận. Quân đội chiến đấu ở Ai Cập bị đứt liên lạc hẳn với nước Pháp. Sau nữa, chính phủ Thổ kiên quyết không chấp nhận lời tuyên bố xảo trá của Bonaparte rằng ông ta không hề chiến tranh với triều đình Ottoman, mà chỉ là trừng phạt bọn Mamelukes đã đối xử không tốt với các thương gia Pháp và áp bức nặng nề người Ả Rập. Một đạo quân Thổ được đưa đến Syria. Bonaparte đã thân hành đến Syria giao chiến với quân Thổ. Bonaparte cho rằng tàn bạo là phương pháp tốt nhất để ổn định hậu phương trong thời gian ông ta đi chiến dịch xa xôi.
Chiến dịch Syria cực kỳ gian khổ, đặc biệt vì thiếu nước. Các thành phố lần lượt đầu hàng Bonaparte đầu tiên là El Arish. Sau khi vượt qua eo Suez, Bonaparte tiến về Jaffa và bao vây Jaffa vào ngày 4 tháng 3 năm 1799. Vì Jaffa không đầu hàng nên Bonaparte công bố cho dân chúng biết rằng, nếu họ để quân Pháp phải đánh lấy thành thì tất cả nhân dân trong thành sẽ bị tuyệt diệt, sẽ không giữ một ai làm tù binh. Jaffa không đầu hàng. Cuộc công thành diễn ra ngày 6 tháng 3, binh lính ùa vào trong thành, thật sự tàn sát tất cả những ai bị rơi vào tay chúng. Nhà cửa và hiệu buôn đều bị cướp phá. Sau đó không lâu, khi cuộc tàn sát và cướp phá thành phố đã chấm dứt, người ta báo cáo với tướng Bonaparte rằng trong thành phố còn 4.000 lính Thổ, phần lớn là người Albania còn sót lại trong cuộc tàn sát, họ vẫn kháng cự ở trong một vị trí, luỹ đắp bốn bề; khi các sĩ quan Pháp đến dọa dẫm để buộc họ đầu hàng, họ đã trả lời rằng sẽ chỉ đầu hàng nếu người ta hứa không giết họ, bằng không, họ sẽ chống cự đến giọt máu cuối cùng. Sĩ quan Pháp đã hứa với họ và họ đã rời khỏi chiến luỹ hạ khí giới đầu hàng. Quân Pháp nhốt những tù binh đó trong một nhà kho. Bonaparte tức giận đến cực điểm. Ông ta cho rằng hứa tha chết cho những lính Thổ ấy là một sự điên rồ. “Chúng định bắt tôi làm gì bây giờ? Làm gì có lương thực để nuôi chúng? Làm gì có tàu để chở chúng về Ai Cập hay về Pháp? Chúng đã làm được gì cho tôi?”.
Quả thực, không có một chiếc tàu nào để chở từ Jaffa về Ai Cập, cũng không đủ binh lính để áp giải 4.000 lính tinh nhuệ ấy qua những bãi sa mạc Syria, Ai Cập để đến Alexandria hoặc Cairo. Thoạt tiên Napoléon còn chưa quyết tâm thực hiện ý định khủng khiếp ấy. Qua ba ngày suy nghĩ, do dự và ngần ngại, cuối cùng, ngày thứ tư, Bonaparte hạ lệnh đem bắn hết 4.000 tù binh bị dẫn ra bờ biển và bị bắn đến người cuối cùng. Một trong số sĩ quan Pháp đã nói: “Tôi mong rằng đừng ai cảm thấy những điều mà chúng tôi đã cảm thấy khi chứng kiến cuộc hành hình ấy”.
Ngay sau đó, Napoléon tiến về pháo đài Acre mà quân Pháp vẫn thường gọi là Saint Jean d’Acre, người Thổ gọi là Akko. Nấn ná mãi ở Jaffa chẳng hay ho gì nữa vì bệnh dịch hạch đang bám lấy quân đội Pháp và về mặt vệ sinh, ở lại đấy thật cực kỳ nguy hiểm. Trong nhà, ngoài phố, trên mái nhà, trong hầm chứa, trong vườn rau, vườn cây ăn quả, đâu đâu cũng thấy xác dân chúng bị tàn sát đang thối rữa không ai thu dọn.
Cuộc vây pháo đài Acre kéo dài đúng hai tháng và kết thúc bằng một thất bại Bonaparte không có pháo tham gia bao vây. Pháo đài Acre do người Anh tên là Sidney Smith chỉ huy; được nước Anh tiếp tế vũ khí và lương thực bằng đường biển; quân đồn trú người Thổ rất đông. Sau nhiều đợt xung phong vô hiệu, ngày 20 tháng 5 năm 1799, quân Pháp phải bỏ cuộc bao vây, tổng cộng quân Pháp đã mất 3.000 người. Bên bị bao vây còn thiệt hại lớn hơn thế nữa. Sau đó, quân Pháp đã lại lên đường về Ai Cập.
Đến đây cũng nên chú ý là cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời, Napoléon vẫn gán cho thất bại ấy một ý nghĩa đặc biệt và có tính chất định mệnh. Acre là nơi xa nhất của Phương Đông mà số mệnh đã cho Napoléon được đặt chân tới. Chuẩn bị ở lại lâu đài ở Ai Cập, Napoléon ra lệnh cho các kỹ sư nghiên cứu những vết tích về dự định đào kênh Suez của thời cổ đại và xây dựng quy hoạch công trình đào kênh để sau này tiến hành.
Chúng ta biết rằng Napoléon đã viết thư hứa giúp đỡ Hoàng Đế Tipu Sahib (ở phía Nam Ấn Độ) lúc đó đang chiến tranh chống người Anh. Ông ta cũng dự định đặt quan hệ và ký hiệp ước liên minh với vua Ba Tư. Cuộc kháng cự vấp phải ở Acre, những tin tức đáng lo ngại về những cuộc nổi dậy của các làng Syria ở hậu phương của Napoléon, giữa El Arish và Acre, và nhất là việc không thể kéo dài hơn nữa tuyến đường giao thông hiện đã kéo dài một cách rất nguy hiểm vì không có viện binh mới, tất cả những tình hình đó đã đập tan cái mộng ổn định nền thống trị Pháp trên đất nước Syria của Napoléon.
Cuộc rút lui còn gay go hơn cuộc tiến công nhiều, vì lúc đó đã vào cuối tháng 5 và tháng 6, cái mùa nóng bức ghê người, không sao chịu nổi đang sắp tới. Bao giờ cũng vậy, Bonaparte không ngần ngại gì không trừng phạt tàn nhẫn các làng Syria mà ông ta cho là cần phải trừng phạt.
Một điều đáng chú ý là viên tướng tổng chỉ huy này đã cùng chịu đựng với quân lính mọi nỗi gian khổ trên con đường rút lui dài dằng dặc đó, không hề dành cho bản thân mình, cũng như tướng tá của mình, dù ở cấp bậc cao nhất, một chút ưu tiên nào. Bệnh dịch hạch vẫn hoành hành, ngày càng dữ dội hơn. Người ta bỏ lại tại chỗ những người mắc bệnh ấy, chỉ mang theo những thương binh và những bệnh binh khác. Bonaparte đã hạ lệnh cho mọi người xuống ngựa để nhường cho thương binh, bệnh binh. Sau khi lệnh đó ban ra người giám mã, tưởng rằng đối với vị tướng tổng chỉ huy thì được miễn, nên hỏi Bonaparte sẽ dành lại con ngựa nào, Bonaparte nổi giận vừa quất roi ngựa vào giữa mặt người giám mã vừa hét lên: “Tất cả đi bộ, đ. mẹ...! Ta là người đầu tiên! Anh không biết thế nào là mệnh lệnh à? Cút đi!...”.
Do những cơn nổi khùng như vậy, binh lính lại càng mến Napoléon hơn; và trong những ngày trở về già của họ, họ thường hay nhớ đến Napoléon với những nét tương tự như vậy hơn là những chiến công và những cuộc chinh phục của ông ta. Bonaparte rất biết điều đó và không bao giờ do dự trong những trường hợp tương tự. Trong số những người quan sát Bonaparte, về sau này không ai có thể phân định được lúc Bonaparte làm như vậy thì đâu là do bản năng tự phát, đâu là đóng kịch và có tính toán. Có thể là có cả hai trong cùng một lúc như ở một diễn viên lành nghề. Và Napoléon đã là một bậc thầy về nghệ thuật này, mặc dù trong buổi bình minh của sự nghiệp của ông ta, ở Toulon, ở Ý, ở Ai Cập, tài năng ấy của ông ta chỉ có rất ít người và những người tinh ý nhất trong số gần gũi ông ta phát hiện được. Nhưng hồi đó những người như vậy lại quá hiếm ở trong số những người thân thiết của ông ta.
Ngày 14 tháng 6 năm 1799, quân đội của Bonaparte đã trở về đến Cairo, nhưng thời gian - trong khoảng đó, nếu không phải toàn quân thì ít ra cũng là vị tướng tổng chỉ huy còn được ở lại trên mảnh đất do mình đã đánh chiếm và khuất phục được - đã chấm hết.
Bonaparte chưa nghỉ ngơi được mấy ở Cairo thì đã nhận được tin một đạo quân Thổ, được phái đến để giải phóng Ai Cập khỏi ách xâm lược Pháp, đã đổ bộ ở gần Abu Qir, nơi mà một năm trước đây Nelson đã tiêu diệt hạm đội Pháp. Bonaparte lập tức rời Cairo cùng với quân đội tiến lên phía Bắc, phía đồng bằng sông Nile. Ngày 25 tháng 7, Bonaparte đột kích và tiêu diệt quân đội Thổ. Gần 15.000 quân Thổ bị chết. Napoléon đã hạ lệnh không bắt làm tù binh và tàn sát hết. Với giọng chiến thắng, Napoléon viết: “Trận đánh này là một trong những trận đẹp nhất mà chưa bao giờ tôi được thấy 40.000 quân địch không chạy thoát được một”. Dường như cuộc chinh phục của quân Pháp đã được ổn định lâu dài. Một số nhỏ lính Thổ chạy trốn lên tàu Anh. Mặt biển vẫn luôn luôn thuộc về người Anh, nhưng đất Ai Cập lại thuộc về quyền lực của Bonaparte một cách vững vàng hơn bao giờ hết.
Bỗng dưng lúc đó một sự cố bất thần xảy ra, không ai lường được. Đã lâu ngày bị đứt mọi liên lạc với Châu Âu, tình cờ qua một tờ báo, Bonaparte mới hay rằng trong khi ông ta đi chinh phục Ai Cập thì nước Áo, nước Anh, nước Nga và vương quốc Naples đã gây lại chiến tranh với nước Pháp. Suvorov đã xuất hiện ở Ý để đánh bại quân Pháp và đã thủ tiêu nước Cộng Hòa bên kia rằng núi Apls, Suvorov đang tiến đến gần núi Apls và nước Pháp bị đe dọa; trộm cướp, rối loạn, hoang mang cao độ đang đè lên nước Pháp. Viện Đốc Chính bị đa số nhân dân chán ghét, suy yếu và bối rối. “Nước Ý đã mất! Quân khốn kiếp! Thế là mọi chiến quả của chúng ta đã tiêu tan hết! Ta phải về mới được!”. Bonaparte nói như vậy sau khi đọc tờ báo.
Napoléon lập tức quyết định. Ông ta giao lại quyền chỉ huy tối cao quân đội cho tướng Kleber, hạ lệnh cấp tốc và rất bí mật trang bị bốn chiếc tàu, đưa xuống 500 người chọn lọc kỹ càng, và ngày 23 tháng 8 năm 1799, rời bến về Pháp, để lại cho Kleber một đội quân lớn trang bị rất đầy đủ, cả một bộ máy cái trị và tài chính do Napoléon xây dựng và hoạt động rất hoàn hảo, cùng với dân chúng câm lặng, bị khuất phục và bị khủng bố của cái nước lớn đã bị chinh phục ấy.