Chương VIII (tt)
Dù thế nào chăng nữa, Napoléon cũng buộc phải kết thúc vấn đề trước khi nước Phổ nhảy vào Khối Liên Minh. Ngay sau khi vừa hạ xong thành Vienna, quân Pháp không mất một viên đạn đã chiếm được chiếc cầu lớn nối giữa Vienna với tả ngạn sông Danube, chiếc cầu độc nhất mà quân Áo không phá hoại. Việc chiếm được chiếc cầu này đã đẻ ra nhiều giai thoại, trong đó có một câu chuyện (không chính xác lắm và được tô điểm thêm) mà người Nga nào đã đọc phần hai cuốn Chiến Tranh Và Hòa Bình đều biết rõ. Thực tế, sự việc đã xảy ra như sau: Sau khi đã khôn khéo cho một tiểu đoàn cận vệ mai phục trong bụi rậm, Murat, Lannes, Bertrand và đại tá công binh Dode công nhiên tiến về phía đầu cầu có chiến luỹ và quân Áo phòng ngự, nhưng quân Áo đã nhận được lệnh hễ quân địch xuất hiện thì phải phá cầu; các tướng Pháp liền tuyên bố rằng hiệp định đình chiến vừa được ký kết; và thế là sau khi vượt qua cầu chẳng gặp khó khăn gì, họ cho gọi viên thiếu tướng, bá tước Auersperg đến và nhắc lại lời bịa đặt vừa rồi, và trước cả khi Auersperg có đủ thời gian trả lời, theo hiệu lệnh đã định sẵn, quân Pháp bất thần từ trong bụi xông ra, lao vào quân lính Áo và các khẩu pháo đã bố trí sẵn trên cầu. Chỉ trong nháy mặt, chiếc cầu đã bị chiếm. Tuy quân Áo cố chống cự lại nhưng bị đè bẹp ngay.
Sau khi chiếm được cầu, Murat mừng rỡ báo cáo sự việc kỳ quặc này cho Napoléon. Napoléon bèn lập tức ra lệnh cho bộ đội vượt qua cầu và xông thẳng vào quân Nga.
Quân Nga lúc này phải trải qua nhiều phen điêu đứng. Napoléon vượt qua sông Danube ở Vienna cùng với đại bộ phận binh lực với ý định chặn đường rút lui của quân Nga đang hối hả rút về phía Bắc. Kutuzov, tổng chỉ huy quân đội liên minh, đã thấy rõ muốn thoát chết chỉ còn cách rút ngay từ Corem về vị trí Osane ở phía Nam Olmutz; lúc đầu Kutuzov có 45.000 quân và Napoléon có gần 100.000 quân. Đối với quân đội Nga, câu chuyện chiếm cầu Vienna là một câu chuyện thật khó hiểu và người ta đã nói thẳng ra rằng đó là sự phản bội; người ta cho rằng quân Áo đã bí mật thông đồng với Napoléon, vì việc mất chiếc cầu đó thật là vô lý và không thể tin được. Và việc này đã giúp cho Napoléon làm chủ ngay được tả ngạn sông Danube không bị chút tổn thất nào; đã đưa toàn bộ quân Nga đến chỗ thất bại không thể tránh được. Sau những trận đánh gay go của đội hậu vệ mà Kutuzov đã phải điều đến và cầm chắc sẽ bị hy sinh để yểm hộ cho chủ lực có đủ thời gian rút lui Kutuzov đã mất chừng 12.000 người trong số ngót 45.000 người, nhưng Kutuzov đã cùng với đội quân kiệt sức của mình tránh được sự đầu hàng nhục nhã và thoát khỏi sự truy kích sát gót của Napoléon, cuối cùng đã đưa được tàn quân về đến Olmutz, nơi Aleksandr và Francis đã có mặt ở đó.
Tình hình như sau: Kể cả đội quân cận vệ và các viện binh khác từ Nga mới điều đến cộng với số quân mà Kutuzov vừa dẫn đến Olmutz và các vùng lân cận thì tổng số quân Nga lên tới 75.000 người. Quân Áo cũng còn từ 15.000 đến 18.000 người. Song, chúng ta cũng không quên một binh đoàn lớn của quân Áo đã bị Napoléon tiêu diệt trước khi thành Vienna thất thủ, và một binh đoàn khác đông hơn và được trang bị tốt hơn đang chiến đấu ở Venice với quân của Masséna, người ta đã nhận được chỉ thị của Napoléon phải quét sạch phía Đông miền Bắc Ý.
.
Như vậy là quân Liên Minh ở quanh Olmutz có chừng 90.000 người là nhiều. Tuy vậy, trong số 75.000 lính Nga có tên trên giấy, có nhiều người không có mặt trong chiến đấu, điều này Kutuzov biết rõ hơn ai hết. Từ sau cuộc vượt sông Danube bất ngờ của Napoléon, Kutuzov sợ giao chiến, cho rằng cần phải tiếp tục cuộc rút lui, rút lui xa hơn nữa về phía Đông và kéo dài chiến tranh để có đủ thời gian cho quân Phổ quyết định dứt khoát tham chiến chống quân Pháp. Nhưng Kutuzov vấp phải một trở lực rất lớn: Nga Hoàng Aleksandr muốn mở ngay một trận tổng công kích.
Không hiểu gì về chiến tranh, nhưng lại không kém hám danh và còn tin rằng nhất định sẽ đánh thắng, tin rằng nước Phổ sẽ tham chiến ngay “sau cuộc thề thốt nổi tiếng trước linh cữu Frederick”, Aleksandr chỉ mơ tưởng đến tổng công kích. Nga Hoàng nghĩ rằng sau khi mình đã điều động đến đây những đội quân tinh nhuệ như đội cận vệ và rồi điều những lực lượng mạnh mẽ ấy đi tránh đòn của đối phương trong cái đất miền núi khốn kiếp này hàng tháng ròng, lẩn trốn trước Napoléon, đó là một quyết định đáng xấu hổ và vô tích sự.
Hoàng thân Dondukov, cận thần của Nga Hoàng, người phụ tá trẻ tuổi được nhà vua mến chuộng chỉ vì hoàng thân cũng như hầu hết các sĩ quan của đội cận vệ đã thống nhất quan niệm với nhà vua. Kutuzov biết rằng Nga Hoàng, Dondukov và tất cả bè lũ đều hoàn toàn không hiểu gì về quân sự, cho dù một vài kẻ trong bọn chúng cũng có chút hiểu biết nào đó về những mặt khác. Nhưng Kutuzov tin chắc rằng quân đội Nga đang tiến tới một tai họa và thấy rằng phải nhanh chóng tránh những đòn của Napoléon, phải đứng ngoài tầm tiến công của Napoléon, bằng cách tránh một cuộc giao chiến quyết định. Biết thế, nhưng Kutuzov cũng không còn có cách nào cưỡng lại sự nông nổi tai hại của Nga Hoàng vì y là thủ lĩnh tuyệt đối. Kutuzov là nhà quân sự xứng đáng duy nhất trong hàng ngũ Áo - Nga, là viên tướng thao lược độc nhất (trong số những người mà tiếng nói có phần nào được tin nghe) nên người ta cũng nghe Kutuzov đôi chút. Nhưng ở đây, Kutuzov đã vấp phải cái lực lượng mà Kutuzov không chống lại được, mặc dầu bản thân ông đã đoán được ngón của Napoléon.
Đang truy kích quân Nga, Napoléon dừng ngay lại khi thấy quân Nga không rút lui nữa và đóng bản doanh ở Brunn, không xa Olmutz là mấy. Điều duy nhất làm cho Bonaparte thật sự lo sợ lúc ấy là thấy quân Nga lẩn tránh và kéo dài chiến tranh. Vì ở xa nước Pháp và biết rằng Hauvite đang trên đường đi đến để gửi tối hậu thư của nước Phổ cho mình, Napoléon khao khát mở một trận tổng công kích càng sớm càng hay vì ông tin chắc rằng thắng lợi của trận tổng công kích có thể sẽ kết thúc gọn được ngay chiến tranh. Tài ngoại giao và đóng kịch của Napoléon lúc đó lại hiện ra một cách rất rực rỡ: Ông ta đã phán đoán được tất cả những diễn biến ở bản doanh quân Nga và hành động phù hợp với ý định của Aleksandr đang chống lại những cố gắng yếu ớt cuối cùng của Kutuzov muốn cứu quân đội Nga bằng một cuộc rút lui vội vã. Napoléon chủ động đóng vai một người sợ hãi, nhu nhược và nhất là sợ phải giao chiến. Napoléon thấy cần phải gợi cho đối phương thấy đây là thời cơ có một không hai để dễ dàng đánh bại quân Pháp, nhằm khích động quân Nga tiến công ngay. Để thực hiện mưu ấy, thoạt tiên Napoléon ra lệnh cho các đơn vị tiền tuyến bắt đầu rút lui, rồi cử Savary, tướng thân cận của mình, đến gặp Aleksandr đưa đề nghị đình chiến và hòa bình, và cuối cùng Napoléon còn chỉ thị cho Savary nhân danh Napoléon yêu cầu Aleksandr cho gặp riêng; trường hợp bị khước từ thì Savary phải yêu cầu Aleksandr phái người tin cẩn đến gặp Napoléon để mở cuộc đàm phán. Về phía quân Nga, người ta vui mừng, đắc chí: Bonaparte đã hoảng sợ! Bonaparte đã kiệt sức, đã bị thua! Trước hết, đừng để Bonaparte chạy thoát.
Tất cả những thủ đoạn đó của Napoléon chẳng giống tính tình của Napoléon chút nào, thật là xa lạ và nhục nhã đối với Napoléon, đến nỗi người ta tưởng rằng vị Hoàng Đế kiêu hãnh, người tướng bậc nhất của thế giới không bao giờ lại nghĩ và làm như vậy, trừ phi bị hoàn cảnh thật cấp thiết, khốn khó bắt buộc. Kutuzov và những mối lo âu của ông ta bị mất tín nhiệm và bị bác bỏ hoàn toàn. Aleksandr từ chối hội kiến với Napoléon và phái hoàng thân Dondukov đến gặp Napoléon. Sau này, Napoléon còn lấy mãi câu chuyện của người tướng trẻ trong triều đó làm trò đùa, mà trong báo chí công khai Napoléon gọi là “anh phổi bò”, Dondukov nói với Hoàng Đế Pháp bằng một giọng kẻ cả và trịch thượng cứng rắn “như nói với một tên Boyard[31] mà người ta định đem đi đày ở Siberia”, mỗi khi nhắc đến cuộc gặp gỡ ấy, Napoléon lại nói bằng giọng châm biếm như vậy.
Trong khi say sưa đóng tiếp tấn hài kịch đó, Napoléon vẫn thủ vai một người bối rối, sợ sệt, nhưng đồng thời Napoléon cũng biết rằng không nên quá cường điệu vai trò ấy và trên đời này cái gì cũng có giới hạn ngay cả sự ngu xuẩn của anh hoàng thân Dondukov. Napoléon đã chấm dứt cuộc hội kiến bằng cách tuyên bố không thể chấp nhận được những điều kiện do Dondukov đưa ra (Dondukov yêu cầu Napoléon từ bỏ nước Ý và các nước khác đã bị chinh phục). Nhưng việc từ chối ấy cũng đã được diễn đạt dưới hình thức làm cho người ta không những không giảm bớt mà còn tăng thêm ấn tượng cho rằng Napoléon do dự và sợ hãi.
Sau báo cáo đầy khích lệ do Dondukov nhận định theo ý chủ quan của y, phe Liên Minh không ngả nghiêng, do dự nữa; người ta liền hạ quyết tâm tiến công Napoléon hiện đang rút lui, suy yếu, bối rối và phải giải quyết cho xong với hắn.
Ngày 2 tháng 12 năm 1805, một năm đúng sau khi Napoléon xưng đế, ở trên cao nguyên Pratzen phía Tây làng Austerlitz, cách Vienna về phía Bắc 120km, một trận huyết chiến đã xảy ra, một trong những trận lớn nhất lịch sử về tầm quan trọng của nó và là một trong những trận phi thường nhất của thiên anh hùng ca Napoléon.
Napoléon đích thân ra chỉ huy từ đầu đến cuối: Hầu hết các Thống Chế của Napoléon đều có mặt đông đủ. Sự thất bại của quân Nga và quân Áo đã được quyết định ngay từ những giờ đầu buổi sáng, nhưng nếu các tướng lĩnh Nga không mắc phải cạm bẫy của Napoléon thì quân Nga cũng chưa gặp phải một tai họa khủng khiếp như vậy: Tính trước quân Nga và Áo sẽ tìm cách đánh chặn đường đến Vienna và đến Danube để rồi bao vây hoặc đuổi mình lên phía Bắc, dồn vào núi, nên Napoléon đã giả vờ để ngỏ, không phòng giữ mặt này và cố ý giấu kín sườn trái của mình. Khi quân Nga từ phía đó tiến lại, Napoléon đã đè bẹp được đối phương bằng những lực lượng tập trung lớn của mình đã chiếm lĩnh cao nguyên Pratzen từ trước và đánh dồn kẻ địch vào một dải hồ nửa đóng băng. Hàng trung đoàn bị chết đuối hoặc bị đạn đại bác của quân Pháp tiêu diệt và một số khác thì đầu hàng.
Đội kỵ binh cận vệ Nga hầu như bị tiêu diệt ngay từ lúc trận chiến đấu ở vào giai đoạn quyết liệt, sau một trận giao chiến ác liệt với đội kỵ binh cận vệ của Napoléon. Khâm phục tinh thần chiến đấu dũng cảm của binh lính Nga, nhưng các tướng soái của Napoléon không khỏi không lấy làm ngạc nhiên về sự cực kỳ ngu muội của các cuộc hành binh, về sự dốt nát hoàn toàn về các vấn đề chiến tranh, về tinh thần thiếu bình tĩnh và sự bất tài của các tướng lĩnh người Nga, trừ Kutuzov. Đặc biệt họ lấy làm lạ rằng Buxhoevden, chỉ huy cánh trái của quân Nga, trong tay có 29 tiểu đoàn và 22 liên đội, đáng lẽ chạy sang ứng cứu cho quân chủ lực đang bị khốn đốn thì lại dành hầu hết thời gian công kích một cứ điểm không quan trọng mà ở đó quân Pháp chỉ cần một lực lượng nhỏ không đáng kể cũng đủ phòng giữ được hàng giờ. Và cuối cùng, khi đã thấy được phải vừa đánh vừa rút lui thì Buxhoevden lại tiến hành không khẩn trương và thiếu nghệ thuật, đến nỗi hàng nghìn binh lính thuộc quân đoàn của y bị đuổi dồn đến vùng hồ để rồi bị chết chìm ở đó, vì sau khi nắm được cuộc điều quân ấy của Buxhoevden, Napoléon đã ra lệnh nã đại bác lên mặt nước đóng băng. Số sống sót đều bị bắt làm tù binh.
Hai vị Hoàng Đế Francis và Aleksandr đã trốn thoát khỏi chiến trường trước khi cơn tai biến kết thúc. Bọn tuỳ tùng cũng chạy tán loạn và dọc đường đã bỏ rơi hai vị đế vương mà chẳng bao lâu nữa, hai vị cũng phải xa lìa nhau trên mình ngựa mỗi người mỗi ngả.
Ngày mùa đông ngắn ngủi ấy kết thúc. Mặt trời rực chiếu từ buổi sớm đã lặn và nhờ có bóng tối của hoàng hôn, Aleksandr và Francis đã thoát, không bị bắt. Aleksandr hoàn toàn mất tự chủ, run cầm cập như sắp lên cơn sốt và khóc lóc. Mấy ngày sau còn phải chạy trốn cực nhọc, khốn đốn hơn nữa. Kutuzov bị thương, phải vất vả lắm mới thoát khỏi tay quân địch.
Đêm đến thì mọi việc đã xong xuôi. Tất cả các sĩ quan tuỳ tùng, các Thống Chế, các tướng lĩnh của đội cận vệ, các sĩ quan hầu cận vây quanh Napoléon và binh lính từ tứ phía chạy vội về hướng Hoàng Đế, hoan hô nhiệt liệt chào mừng Napoléon ngồi trên mình ngựa, vượt qua cánh đồng rộng bát ngát và mỗi bước vó ngựa va phải biết bao nhiêu xác người và vật nằm rải rác khắp cánh đồng. Chừng 15.000 quân Áo và Nga bị giết, 20.000 bị bắt cầm tù, hầu hết pháo của đối phương bị tước và nhất là đội quân Nga - Áo đã bị tiêu diệt thật sự, số tàn quân bỏ chạy tán loạn đi tứ phía, bỏ lại rất nhiều kho tàng, tất cả quân dụng, vô số lương thực. Đó là những nét lớn về kết quả của cuộc chiến thắng đó. Quân Pháp bị thiệt mất ngót 9.000 người so với con số 80.000 bên liên minh.
Ngày hôm sau, trong tất cả các quân đoàn, người ta đọc bản nhật lệnh của Napoléon: “Hỡi các binh sĩ! Ta rất lấy làm hài lòng về các người, các người đã chứng minh lòng son dạ sắt của các người trong trận Austerlitz! Các người đã tô điểm cho lá quốc kỳ của các người bằng một vinh quang bất diệt! Một đội quân do các Hoàng Đế Nga và Áo chỉ huy đã bị tiêu diệt hoặc tan tác chưa đầy bốn tiếng đồng hồ. Những kẻ thoát được viên đạn của các người thì bị chìm dưới đáy hồ...” Hoàng Đế Francis lập tức tuyên bố với Aleksandr chỉ có điên rồ mới tiếp tục chiến đấu. Aleksandr đồng ý ngay. Hoàng Đế Áo đề nghị Napoléon cho hội kiến và Napoléon đã tiếp Francis ở ngay nơi lộ doanh của mình, thuộc vùng lân cận Austerlitz. Napoléon nhã nhặn đón tiếp Francis nhưng trước hết ông đòi tàn quân Nga phải rút ngay ra khỏi nước Áo và tự mình quy định các chặng đường và tuyên bố là chỉ thương lượng hòa bình với nước Áo. Francis đồng ý tất cả.
Cuộc liên minh quân sự thứ ba kết thúc.
4Suốt trong 15 ngày cuối tháng 11 và những ngày đầu của tháng 12, Pitt lo âu chờ đợi tin tức một cuộc tổng công kích. Người đứng đầu chính phủ Anh, người sáng lập và linh hồn của cuộc liên minh chống Napoléon biết rằng từ nay trở đi nước Anh vĩnh viễn tránh được một cuộc xâm lược, vì ngày 21 tháng 10 năm 1805, trong trận Trafalgar, đô đốc Nelson đã công kích và tiêu diệt được hạm đội phối hợp của Pháp và Tây Ban Nha; bản thân đô đốc Nelson đã hy sinh trong trận chiến đấu. Napoléon không còn hạm đội nữa.
Nhưng William Pitt còn có những nỗi lo sợ khác. Cùng với giai cấp tư sản thương mại và kỹ nghệ Anh, Pitt biết rằng chưa phải mọi việc đã kết thúc, vì Napoléon đang nhằm loại trừ hoàn toàn các thương gia Anh ra khỏi các thị trường buôn bán của các nước Châu Âu mà trước sau tất sẽ rơi vào tay Napoléon một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Vả lại, nhờ cậy vào những quốc gia trù phú trên lục địa cùng với những hải cảng và những xưởng đóng tàu của những quốc gia đó, Napoléon hoàn toàn có khả năng xây dựng một hạm đội khác và lập lại trại lính Boulogne.
Sự thất bại đau đớn của Mack ở Ulm, việc Napoléon đã tiến vào thành Vienna, việc rút lui như cuộc chạy trốn của Kutuzov bị quân của Napoléon truy kích, tất cả những cái đó đã làm cho Pitt lo lắng buồn bã. Tuy vậy, việc gia nhập thực sự vào Khối Liên Minh của nước Phổ đã làm sống lại những hy vọng của Pitt. Ở vùng Olmutz, thuộc xứ Moravia xa xăm, câu hỏi lớn sau đây phải được giải quyết: Nền chuyên chính của Napoléon trên một nửa Châu Âu sẽ bị lật đổ hay là cả nửa lục địa kia sẽ rơi vào quyền lực của Napoléon.
Rồi những tờ báo đầu tiên (Hà Lan) bay đến London báo cái tin khủng khiếp: Khối Liên Minh thứ ba đã bị dìm trong biển máu và trong nhục nhã ở chiến trường Austerlitz. Ở nghị trường, người ta lớn tiếng quở trách Pitt về những ảo tưởng tai hại của Pitt, phe đối lập đòi Pitt rút lui, nêu ra sự nhục nhã mà nước Anh cũng sẽ phải chịu, tiền của nước Anh đổ đi hàng triệu đồng để cấu tạo nên một Khối Liên Minh dâng mình cho thất bại vì bọn tướng lĩnh bất lực vô tài. Pitt, đầu óc căng thẳng, không chịu được sự thử thách đó, đã lăn ra ốm liệt giường; vài tuần sau, vào ngày 23 tháng 1 năm 1806, Pitt chết. Trận Austerlitz, như người ta nói lúc bấy giờ, đã giết chết được kẻ thù dai dẳng nhất và giỏi nhất trong số kẻ thù của Napoléon. Chính phủ Anh, do James Fox đứng đầu, quyết định thương lượng hòa bình với Napoléon.
Thắng lợi của Napoléon thật không thiếu một thứ gì. Napoléon buộc người ta nhận những điều kiện của mình, và cũng như những kẻ chiến bại, những kẻ còn đứng ngoài vòng chiến cũng cúi mình trước Napoléon. Napoléon đã khuếch trương thắng lợi rực rỡ của mình bằng một sự khôn khéo phi thường. Nhà ngoại giao Phổ Hauvite, sau một cuộc đi dài đằng đẵng, đến Vienna với bức tối hậu thư của Frederick Wilhelm, nhưng điều đầu tiên mà Hauvite làm là vội quên ngay sứ mệnh ấy của mình. Đến trước Napoléon, với một nụ cười khôn khéo trên môi, Hauvite cúi rạp người xuống đất chúc tụng Hoàng Đế về việc ông ta đã giáng cho cả cái bè lũ ấy một thất bại nhục nhã. Hauvite sợ đến chết đi được, giống như đức vua của ông ta khi thấy sắp đến lúc phải chịu hậu quả ác nghiệt của lời thề thốt trước mộ Frederick và của những lời chửi bới bậy bạ mới đây. Hauvite bắt đầu: “Hạ thần xin mừng Bệ Hạ về thắng lợi của Bệ Hạ”. Napoléon ngắt lời: “Số phận đã làm thay đổi người nhận những lời chúc mừng của ngài”.
Thoạt tiên, Napoléon thét lên, nói rằng ông ta đã khám phá mọi âm mưu xảo quyệt của nước Phổ, nhưng sẽ bằng lòng quên đi và tha thứ cho, miễn là nước Phổ liên kết với Napoléon, với điều kiện: Phổ sẽ nhường lại hạt Anzpac cho Bavaria, nước Phổ sẽ nhường lại các nước vương hầu Neuchâtel và Clèves cùng với thành phố Veden cho nước Pháp; để đền bù lại, Napoléon cho nước Phổ đất Hanover bị quân Pháp chiếm giữ từ năm 1803 và đang thuộc quyền vua nước Anh; với tư cách một nước liên minh với Pháp, Phổ sẽ tuyên chiến với Anh, Hauvite chấp nhận tất cả những điều kiện ấy, và nhà vua của ông ta phê chuẩn ngay, và lấy làm sung sướng về nỗi đã giũ được cái nợ ấy bằng giá rẻ đến thế. Xứ Bavaria, đồng minh của Pháp nhận xứ Tyrol của nước Áo và hạt Anzpac của nước Phổ nhưng nhường lại cho Napoléon khu vực kỹ nghệ giàu có Berger. Cuối cùng nước Áo còn phải nhượng lại cho Napoléon vua nước Ý toàn bộ miền Venice và những đất đai do Venice chiếm ở Florence, Ixtori và Denmark. Nước Áo bị mất 1/6 dân số (4 triệu dân trong số 24 triệu dân), 1/7 số lợi tức của Nhà Nước, một vùng đất đai rộng lớn và còn phải nộp 40 triệu florin[32] vàng tiền chiến phí cho người thắng trận.
Hòa ước được ký kết ngày 26 tháng 12 năm 1805 ở Pressburg. Trước đó vài ngày, một cuộc hợp tác chặt chẽ về mặt tiến công và phòng ngự đã được ký kết giữa Napoléon, Bavaria, Württemberg và Baden. Những đoàn vận chuyển vô tận chuyên chở chiến lợi phẩm lấy được ở Áo lên đường về Pháp và sang Ý. Đặc biệt là trong số chiến lợi phẩm ấy có 2.000 cỗ đại bác và 100.000 khẩu súng trường lấy được ở trong các kho quân giới hoặc thu được ở chiến trường. Nhưng Napoléon chưa rời khỏi nước Áo đã bị quỵ phục trước khi làm xong một công việc khác. Tháng 10 năm 1805, sau trận Trafalgar, vua xứ Naples là Ferdinand và Hoàng Hậu Caroline chìm đắm trong cái ảo tưởng thú vị rằng thế nào rồi Napoléon cũng thua nên đã liên kết với nước Anh và nước Nga. Triều đại Bourbon ở Naples đã phải tủi nhục chịu đựng mãi cái ách của Napoléon mà nó căm ghét. Hoàng Hậu xứ Naples, Marie Caroline, là em gái Marie Antoinette, từ lâu đã tỏ ra có thái độ thù ghét nước Pháp cũng như Napoléon, và ngay trước mặt viên đại diện Pháp Ankier, Caroline cũng đã nói thẳng ra rằng mụ có ước vọng được thấy vương quốc Naples trở thành que diêm đốt bùng lên đám cháy lớn. Phái viên của Napoléon đã nói cho Caroline biết rằng nếu có trường hợp như vậy thì trước hết cái que diêm sẽ bị cháy, dù kết quả đám cháy có đến thế nào đi nữa. Thật ra, sau trận Austerlitz, que diêm đã bị đốt cháy trong khoảnh khắc: Triều đình Naples đã phải chịu đựng ác quả của sai lầm đó một cách khủng khiếp. “Bọn Bourbon đã hết thời trị vì ở Naples”, Napoléon tuyên bố như vậy và ra lệnh ngay cho quân đội Pháp đến chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ vương quốc ấy. Bọn Bourbon chạy trốn ra Sicily dưới sự bảo trợ của hạm đội Anh và Napoléon bèn đưa anh là Joseph lên làm vua xứ Naples. Rồi sau khi đã ban thưởng bằng tiền bạc, huân chương, đề bạt các tướng lĩnh, sĩ quan và binh lính có công trong chiến dịch, trong đó có một số được đề bạt vượt hai hoặc ba cấp. Napoléon từ Vienna trở về Paris, đến ngày 26 tháng Giêng, được đông đảo quần chúng hoan hỉ đón tiếp. Sau đó, Napoléon được tin kẻ thù không đội trời chung của mình đã chết (tức là Pitt-N.D) trước khi Napoléon về tới Paris ba ngày và nước Anh muốn hòa bình. Từ nay trở đi, Napoléon có thể tự coi mình thực sự là Charlemagne, vị Hoàng Đế của Phương Tây.
5Trước khi William Pitt chết, Napoléon không còn có thể trông mong một sự thay đổi đường lối chính sách của chính phủ Anh. Nhưng từ khi James Fox, kẻ kình địch muôn đời của Pitt trong lĩnh vực đối ngoại, nên nắm chính quyền thì ở Châu Âu người ta đã bắt đầu nói đến một nền hòa bình sắp tới giữa nước Pháp và nước Anh. Thực ra, các cuộc đàm phán đã bắt đầu và James Fox đã cử ngài nghị sĩ Yarmouth đến Paris để tiến hành thương lượng. Napoléon không hề tin những hy vọng hòa bình có thể thành sự thật được, nên tháng 2 năm 1806, đã bức Phổ cắt đứt quan hệ với Anh; hơn nữa, Napoléon còn tìm cách tách Phổ không những ra khỏi nước Anh mà ra khỏi cả Nga nữa để giáng cho Phổ một đòn quyết định.
Ngay từ đầu năm 1806, vua Phổ đã bắt đầu thấy mình bị lừa vào tình thế nguy khốn đến chừng mực nào. Đúng là Napoléon đã “tha thứ” cho Phổ và cũng đã ngỏ ý muốn Phổ hợp tác với Pháp và hứa đem Hanover cho Phổ. Nhưng khi Anh trả lời Phổ bằng các tuyên chiến với Phổ thì Napoléon đã vì thế khước từ việc nhượng lại Hanover, và duy trì quân đội ở lại đó. Cùng lúc ấy, Frederick Wilhelm bất ngờ biết nhiệm vụ của ngài nghị sĩ Yarmouth ở Paris. Wilhelm còn biết thêm là Napoléon đã thoả thuận với Yarmouth rằng nếu Anh tiến hành hòa bình với điều kiện có lợi cho Napoléon, Hanover sẽ được hoàn lại cho vua Anh. Triều đình và chính phủ Phổ đã nhìn thấy người ta lừa bịp mình đến thế nào. Lòng công phẫn lên cao nhất và đặc biệt là ở các giới mà suốt trong năm 1805 đã xin Frederick Wilhelm gia nhập liên minh thứ ba nhưng không được chấp thuận. Họ nói chắc rằng nếu gia nhập Khối Liên Minh, thì đã có thể tránh được trận Austerlitz cứu được nước Phổ thoát ra khỏi cảnh cô lập như hiện nay nó đương đứng trước Napoléon.
Vào thời kỳ này, Napoléon quyết định hợp pháp hóa và củng cố quyền hành vô hạn độ của mình trên miền Tây và một phần ở miền trung nước Đức, bằng cách thành lập Liên Bang Sông Rhine. Giữa năm 1806, Liên Bang ấy được chính thức thành lập và sắc lệnh thành lập đã được tất cả các quốc gia Đức ký vào ngày 12 tháng 7, do Napoléon hạ lệnh, gồm có: xứ Bavaria, Württemberg, địa hạt chủ giáo Ratisbonne, Đại Công Quốc Nassau và tám hầu quốc Đức khác. Liên Bang đã “tuyển cử” Hoàng Đế Napoléon với tư cách là người bảo hộ, và để tỏ lòng biết ơn, Napoléon đã vui lòng nhận chức vụ tối cao ấy, Liên Bang đã cam kết giao 63.000 người cho Napoléon tùy ý sử dụng trong trường hợp có chiến tranh xảy ra. Một loạt các nước tiểu vương quốc độc lập trước kia chỉ công nhận dòng họ Habsburg là chúa vương kế tục, thì từ nay phải phụ thuộc vào các quốc gia Liên Bang Sông Rhine và phải sát nhập đất đai của mình vào các quốc gia đó. Cái “Đế quốc thần thánh La Mã German” - như người ta vẫn gọi để chỉ bá quyền của Hoàng Đế Áo trên nước Đức bị cắt vụn và chỉ các vị hoàng tử có thực quyền độc lập trong miền họ cát cứ - như vậy là trong thực tế đã không còn nữa. Năm 1806, theo yêu cầu khẩn cấp của Napoléon, Hoàng Đế Francis đã phải bỏ cái danh hiệu “Hoàng Đế của Đế Quốc Thần Thánh” lưu truyền đúng 1.000 năm.
Công cuộc chiếm đoạt mới đó đã mang lại cho Napoléon rất nhiều lãnh thổ mới, nên đã làm cho triều đình và chính phủ Phổ xôn xao và tức giận đến cực độ. Quả là cái Liên Bang Sông Rhine đã đặt Napoléon vào giữa lòng nước Đức và gây nên mối uy hiếp trực tiếp cho sự toàn vẹn lãnh thổ của nước Phổ. Mối nguy hiểm càng tăng lên vì trong khi chuẩn bị thành lập Liên Bang Sông Rhine, Napoléon đã tiến hành bổ nhiệm một số chức vị mà thực ra chỉ là một sự bành trướng trá hình của đế quốc Pháp, gây tổn hại cho các quốc gia mới.
Ngày 15 tháng 3 năm 1806, Murat được bổ nhiệm làm Đại Công Tước xứ Clèves và Berger được phong làm vua xứ Naples và Thống Chế Berthier làm công tước vùng Neuchâtel; ngày 5 tháng 6, một người em khác của Napoléon, Louis Bonaparte, được phong vương ở Hà Lan, Bộ Trưởng Ngoại Giao Talleyrand làm hoàng tử xứ Bénévent, và Thống Chế Bernadotte làm hoàng tử xứ Pontecorvo ở miền Nam nước Ý. Tất cả các vua chúa và hoàng tử ấy đều không phải là chư hầu mà chỉ là các phó vương hoặc là quan toàn quyền của Napoléon và cả Châu Âu đều hiểu là thế.
Giữa lúc đó, Napoléon vẫn lại chuẩn bị chiến tranh. Tháng 6, sau khi tạo nên cái Liên Bang Sông Rhine, Napoléon tuyên bố với Hội Đồng Lập Pháp là ông có một đội quân 450.000 người và những phương tiện đủ nuôi dưỡng nó mà không phải vay mượn cũng không bị thiếu hụt. Napoléon bắt đầu vào việc tập trung 200.000 quân ở hai bên bờ sông Rhine thuộc vùng Alsace, Lorraine và các quốc gia Liên Bang Sông Rhine. Có những tin dữ đồn rằng Hoàng Đế Pháp đang chuẩn bị những cuộc thôn tính mới.
Ngày 6 tháng 7, nhà ngoại giao Nga Oubril, do Aleksandr cử đi Paris, lấy cớ là đến để thương lượng riêng về vấn đề cửa biển Cattaro, nhưng thực ra là để tìm hiểu và xác minh xem có thật có khả năng hòa bình giữa Anh và Pháp không; nhưng chừng hai tuần lễ sau khi Oubril đến, Talleyrand, bằng những quỷ kế, đã thành công trong việc ký hòa ước sơ bộ với Nga. Thế là từ nay trở đi, mọi việc đều tuỳ thuộc vào kết quả của các cuộc thương nghị giữa Talleyrand và ngài Yarmouth, vì Aleksandr chỉ phê chuẩn hoặc không phê chuẩn hòa ước sơ bộ do Oubril ký ở Paris khi nào mình đã nắm vững tình hình thương nghị giữa Talleyrand và Yarmouth.
Nhưng không thể có hòa bình với nước Anh được. Quyền lợi chính trị và kinh tế của các giai cấp lãnh đạo Anh không thể nào phù hợp với nền chuyên chính của Napoléon trên một nửa lục địa. Trong khi đang thương nghị, Napoléon không những không đả động gì đến việc nhượng bộ, mà còn không ngừng đưa ra những yêu sách mới; ông ta nói đến Ai Cập, Syria...
Bỗng một hôm (ngày 13 tháng 9), tin Bộ Trưởng Ngoại Giao Anh là James Fox từ trần bay đi khắp Châu Âu, mà James Fox lại là người độc nhất chủ trương hòa bình với nước Pháp mà nước Anh tin cậy.
Ở Phổ, phái kiên quyết phản đối những cuộc xâm lấn của Napoléon lại ngóc đầu dậy: Từ nay trở đi rõ ràng là nước Anh hay nước Nga đều không thể thực hiện hòa bình được với Napoléon. Đầu tháng 9, Frederick Wilhelm đang từ giận dữ chuyển sang sợ hãi, lúng túng, không biết nên giải quyết thế nào thì nay lại lấy làm sung sướng vô cùng sẽ được thấy một cuộc liên minh mới tái sinh. Cũng ngày James Fox chết, ngay khi chưa nhận được tin bệnh tình của James Fox đã kết thúc một cách rủi ro, vua Phổ đã quyết định cho quân đội tiến vào đất Saxony. Ba tuần sau, người ta được tin Tây Ban Nha hoàn toàn sẵn sàng gia nhập Khối Liên Minh tương lai nếu thắng lợi được bảo đảm chắc chắn và những cuộc điều đình bí mật đã được xúc tiến giữa triều đình Tây Ban Nha và Frederick Wilhelm.
Nỗi phẫn uất và bực dọc sôi lên giữa giai cấp quý tộc và một bộ phận của giai cấp tư sản Phổ. Người ta buộc tội nhà vua nhu nhược, Hauvite tội phản bội. Bọn quý tộc căm thù Napoléon, cho rằng cá nhân Napoléon phải chịu trách nhiệm về việc đã tiêu diệt chế độ phong kiến cổ xưa xây dựng trên chế độ nông nô; giai cấp tư sản thì hốt hoảng cuống cuồng khi thấy hàng rào thuế và những hàng rào khác mà Napoléon đã rất tích cực dựng lên để ngăn nước Phổ với các nước chư hầu của ông ta, họ hốt hoảng cuống cuồng khi thấy cái công trình nghiệt ngã mà Napoléon đương thực hiện chỉ để có lợi cho nền kỹ nghệ Pháp và gây thiệt hại cho bất cứ nước nào khác. Trong hàng ngũ sĩ quan, trong số các tướng lĩnh xuất hiện một không khí táo bạo và lòng mong muốn trả thù những sự xúc phạm, những sự bội phản và thái độ khinh thị mà Napoléon luôn luôn biểu thị trắng ra trong bất cứ trường hợp nào đối với nước Phổ. Hoàng Hậu Louise là người cầm đầu bọn quý tộc và võ quan đó. Từ nước Anh và Nga, lúc ấy còn đàm phán một cách vô hiệu với Napoléon, tới tấp bay về Phổ đủ các kiểu khích lệ nhân tâm và tăng cường lòng tin tưởng. Nhận định căn bản khiến nhà vua phải quyết định ngay thái độ: Dù thế nào Napoléon cũng sẽ gây chiến, dầu người ta có nhượng bộ Napoléon - Người ta quyết định gửi cho Napoléon một kiến nghị về những ý đồ của Napoléon đối với Phổ. Vị Hoàng Đế ấy không trả lời.
Quân đội Phổ di chuyển. Các trung đoàn lên đường về phía Tây, nối đuôi nhau tiến qua Berlin về Magdeburg hát những bài ca ái quốc và Hoàng Hậu Louise đến gặp binh lính, biến các cuộc gặp gỡ ấy thành trung tâm của các cuộc biểu tình. Vua Frederick Wilhelm lên đường đi chinh chiến cùng với quân đội lúc đó đang tập trung ở xung quanh và ở phía Tây Magdeburg. Frederick gửi bức kiến nghị thứ hai cho Napoléon đòi quân đội Pháp rút khỏi lãnh thổ nước Phổ. Để đáp lại, Napoléon dẫn đầu quân đội của mình vượt biên giới xứ Saxony, nơi mà quân đội Phổ đã tiến vào từ trước.