Chương XIII (tt)
Trong ngày 14 tháng 9, quân đội Nga cuồn cuộn kéo qua Moscow không ngớt để tràn về các ngả đường đi Kolomna và Ryazan và vẫn luôn bị kỵ binh của vua xứ Naples bám sát. Miloradovich, chỉ huy đội tiền vệ, đã tranh thủ được Murat hứa rằng sẽ để cho quân Nga yên ổn qua thành phố. Quân hậu vệ có Rayevsky chỉ huy, tối đến đã dừng lại ở làng Viazovka, cách cổng thành Kolomna sáu Vexta[48]. Cũng trong thời gian ấy, kỵ binh Pháp, sau khi vượt qua thành phố đi theo đường Arbat, đã đẩy xa dần tiền đồn đến tận làng Karasarova.
Ngày 16 tháng 9, quân của Kutuzov bỏ lại Moscow đằng sau để tiếp tục hành quân theo đường Ryazan, và sau khi hạ trại nghỉ đêm ở gần làng Kulakovaia, thì sáng hôm sau đã đổi hướng, tiến về phía bên phải mà Napoléon không biết. Quân của Kutuzov, đi ngược dòng sông Pakhra, đã đến chiếm lĩnh trận địa ở bên tả ngạn con sông này tại Krasnaya Pakhra, trên con đường cũ đi Kaluga. Đường giao thông độc nhất của Napoléon với Smolensk đã bị kỵ binh Nga chặn giữ.
Vừa đến cổng thành Dorogomilovo, nhiều tin đồn khác thường do đội cận vệ nghe được và bàn tán đã bay đến Napoléon: Moscow hoang vắng, hầu hết dân chúng ở đó đã tản cư, sẽ chẳng có một phái đoàn nào ra mở cửa thành phố cho Hoàng Đế như ông mong đợi. Những tin đồn ấy đã là những tin xác thực.
.
Ngày 15 tháng 9, Napoléon tiến vào điện Kremlin. Những ngọn lửa đầu tiên đã bốc lên từ đêm hôm trước, nhưng dù chỉ là phỏng đoán, cũng vẫn chưa thể dự kiến được quy mô và ý nghĩa của cái biến cố đang bắt đầu ấy. Sáng ngày 16 tháng 9, các đám cháy tăng dần. Ban ngày người ta nhận thấy còn nhỏ. Nhưng đến đêm 16 rạng ngày 17, một cơn gió mạnh nổi lên và thổi không ngớt trong hơn 24 tiếng đồng hồ. Một bể lửa thiêu hủy khu trung tâm thành phố ở xung quanh điện Kremlin, ở các khu phố Zamoskvorechye, Solyanka; các khu vực ấy của thành phố ở cách nhau xa nhất đều bốc cháy gần như cùng một lúc.
Khi người ta báo tin những đám cháy đầu tiên, Napoléon không chú ý lắm nhưng đến sáng ngày 17 tháng 9, khi đi dạo quanh điện Kremlin, trông qua cửa sổ thấy đâu đâu cũng là một bể lửa đang bốc cháy ngùn ngụt. Theo lời của Xerghie và của bác sĩ Metivier và nhiều người khác nữa, Hoàng Đế đã thất sắc, và sau khi đã lặng lẽ ngắm cảnh cháy ấy rất lâu, ông ta nói: “Cảnh tượng kinh khủng quá! Chính họ đã tự... Quyết định kỳ quặc thật! Những con người đến lạ! Chúng là những kẻ Scythes[49]”. Giữa lúc này, ngọn lửa không phải chỉ uy hiếp điện Kremlin, mà đã thiêu hủy một bộ phận tường thành (ngọn tháp Chúa Ba Ngôi), một số cửa đã không ra vào được nữa vì bị gió thổi tạt lửa tới. Các Thống Chế khẩn khoản đề nghị Hoàng Đế của họ dời ngay đến lâu đài Petrovsky ở cửa thành phố. Lúc đầu Napoléon không bằng lòng đi và vì vậy mà suýt nữa bị mất mạng. Cuối cùng khi ông ta rời khỏi điện Kremlin cùng với đoàn tuỳ tùng thì những tàn lửa như mưa đã tới tấp vây lấy họ trong một bầu không khí ngột ngạt. Một kẻ đi cùng với Napoléon đã kể: “Chúng tôi đi trên mặt đất lửa, dưới bầu trời lửa, giữa hai bức tường lửa”.
.
Đám cháy khủng khiếp ấy vẫn dữ dội ngút trời suốt trong những ngày 17 và 18 tháng 9, nhưng đến tối 18 thì đã bắt đầu yếu dần. Gió đã lặng, trời đổ mưa. Trong những ngày sau nữa, ngọn lửa vẫn còn bốc nhưng đã không thể nào so sánh được với cơn bão lửa khổng lồ chỉ từ ngày 15 đến ngày 17 mà đã đốt trụi một phần lớn thành phố.
Napoléon không nghi ngờ gì về nguyên nhân của cái tai biến hoàn toàn bất ngờ ấy: Người Nga đốt cháy thành phố để khỏi rơi vào tay kẻ chiến thắng. Những sự việc như Rostopchin đã mang đi tất cả bơm nước và các dụng cụ cứu hỏa khác; các đám cháy xuất hiện cùng một lúc ở nhiều điểm, những lời khai của một số người bị bắt vì tình nghi gây ra hỏa hoạn; và những lời khai của binh sĩ chứng thực rằng đã trông thấy những người cầm đuốc đốt nhà, tất cả những điều ấy là những dẫn chứng xác thực. Về sau này, như người ta đã biết, Rostopchin lúc thì khoe khoang thành tích đã đốt cháy thành Moscow, lúc thì chối rồi lại khoe khoang bằng cách phố trương tinh thần yêu nước hung hăng của hắn, sau đó lại chối cãi nữa (trong cuốn sách mỏng viết riêng về việc này hắn cũng đã làm như vậy). Do tính chất của việc đốt thành (về vấn đề này cũng đã có rất nhiều phán đoán và giả thuyết) mà chính là những tác động của nó đến tinh thần của Napoléon và đến hàng loạt biến cố xảy ra sau này.
Theo những chứng cớ giống nhau trong suốt thời gian ở Petrovsky rồi lại trở lại điện Kremlin, khi các đám cháy đã bắt đầu dịu dần thì cũng là khi Napoléon lo âu sầu khổ. Thỉnh thoảng ông ta lại nổi cơn điên giận, và đó là điều bất hạnh cho đám người xung quanh; có lúc lại nín thít trong suốt mấy giờ liền. Nhưng Napoléon vẫn giữ được nghị lực; từ Moscow, ông vẫn tiếp tục cai trị cái đế quốc mênh mông của mình và ký đạo luật, sắc lệnh, quyết định bổ nhiệm, thuyên chuyển, khen thưởng, cách chức những viên chức lớn và nhỏ ở Moscow, cũng như từ trước đến nay, Napoléon muốn rõ hết thảy, ông để tâm đến những việc quan trọng nhất cũng như những việc thứ yếu hoặc những việc hoàn toàn phụ. Xin nhắc lại một chuyện nhỏ kỳ lạ là bản điều lệ tỉ mỉ quy định việc thành lập đoàn kịch nước Pháp, đến tận bây giờ vẫn không có gì thay đổi đã do Napoléon ký ở điện Kremlin và đến nay vẫn gọi là “sắc lệnh Moscow”.
Một mối lo lớn, đáng sợ đang ám ảnh ông Hoàng Đế. Làm gì nữa đây? Trận cháy chưa thiêu đốt hết các kho lương thực hiện có ở Moscow, có những kho tàng thoát tay thần lửa. Nhưng những phân đội được cử ra ngoài thành phố kiếm cỏ cho ngựa đều trở về tay không; binh lính lén đi ăn cắp vặt và biến mất, rõ ràng là kỷ luật đã trở lên lỏng lẻo. Chắc chắn là có thể đặt bản doanh nghỉ quân ở Moscow như một số lớn Thống Chế và tướng lĩnh đã khuyên Napoléon, nhưng bản năng rất đúng đắn của Napoléon báo trước cho ông ta rằng đế quốc rộng lớn của ông ta không vững chắc gì lắm và lòng trung thành của “các bạn đồng minh” không đủ bảo đảm cho ông ta có thể phó mặc cả Châu Âu trong thời gian dài và đi biệt tăm mãi vào băng tuyết trên đất nước Nga. Tiến đánh Kutuzov đã vô tăm tích cùng với quân đội của ông ta chăng? Nhưng Kutuzov có thể rút lui về đến tận Syberia, thậm chí còn có thể xa hơn nữa. Ngựa sẽ không chết hàng nghìn con nữa, mà là hàng vạn hoặc cũng chẳng kém mấy. Hệ thống giao thông rộng mênh mông cũng chẳng vững chãi gì mặc dầu Napoléon đã phải đóng vô số đồn bốt để bảo vệ, do đó mà lực lượng của đại quân bị giảm sút và nhất là trận cháy ở Moscow, kết thúc của hàng loạt đám cháy liên miên mà các thành phố làng mạc Nga đã dùng để đón tiếp kẻ xâm lược đang truy kích Bagration và Barclay từ Niemen đến Smolensk và từ Smolensk đến Borodino; cuộc tản cư khó hiểu, bí mật của hầu hết nhân dân ở chốn kinh thành xưa cũ; quang cảnh trận Borodino, trận khủng khiếp nhất mà Napoléon đã mục kích (Napoléon đã thừa nhận như vào thời kỳ cuối đời mình); tất cả những điều ấy nói lên rằng lần này đối phương đã kiên quyết tiếp tục cuộc chiến đấu một mất một còn.
Chỉ còn có một việc để làm: Đánh tiếng cho Aleksandr biết rằng Napoléon sẵn sàng ký hòa ước một cách dễ dàng nhất, thoả đáng nhất, tôn kính và tốt đẹp cực kỳ. Từ này trở đi không còn hy vọng gì hơn là ký hòa ước với tư thế của kẻ chiến thắng khi còn ở Moscow và rút khỏi nước Nga một cách an toàn cùng với bộ đội của mình. Napoléon sẵn sàng thuận theo ý kiến và hứa hẹn của Aleksandr, sẵn sàng nhượng bộ. Không còn có thể đặt vấn đề Aleksandr bị lệ thuộc hay là chư hầu được nữa. Nhưng làm thế nào để Aleksandr biết được như vậy, vì từ sau trận Vilna và sau sự chối từ đầy xúc phạm của Napoléon do tướng Balashov chuyển đạt lên Nga Hoàng thì Napoléon đã không còn và không thể có quan hệ gì với Aleksandr nữa. Đã ba lần Napoléon tìm cách làm cho Nga Hoàng biết những ý kiến hòa bình của mình.
Tại Moscow, trung tướng Ivan Tutolmin, giám đốc “Viện Cô Nhi” đã xin các nhà đương cục quân sự Pháp bảo đảm an toàn cho viện và trẻ con hiện đang ở kinh thành. Napoléon liền cho gọi Tutolmin đến và đã nói chuyện với viên trung tướng ấy khá lâu; tỏ ra phẫn nộ về đám cháy quái gở ở Moscow, về sự dã man đầy tội lỗi của Rostopchin, Napoléon bảo đảm là kinh thành và dân chúng không bao giờ phải lo sợ vì Hoàng Đế cả. Tutolmin xin phép Napoléon cho được báo cáo với Hoàng Thái hậu Maria về tình hình Viện Cô Nhi (vì viện này do hoàng thái hậu đỡ đầu - lời người dịch bản tiếng Pháp). Napoléon không những chỉ cho phép việc đó mà còn bất chợt nói thêm: “Tôi yêu cầu ông khi làm việc ấy, viết trình lên vua Aleksandr, người mà trước sau tôi vẫn tôn kính, rằng tôi mong muốn hòa bình”. Cùng ngày hôm ấy, ngày 18 tháng 9, Napoléon ra lệnh cho phép một nhân viên của Viện mang báo cáo của Tutolmin được đi qua các tiền đồn quân Pháp.
Napoléon đã không nhận được thư trả lời, và cũng không đợi trả lời, Napoléon quyết định thử lần thứ hai. Do một trường hợp còn ngẫu nhiên hơn trường hợp của Tutolmin nhiều; một chúa đất Nga giàu có, tên là Yakovlev, bố Aleksandr Herzen, đã buộc lòng phải ở lại Moscow. Y tìm đến các nhà chức trách Pháp để xin được giúp đỡ và che chở, yêu cầu của y được chuyển đến Thống Chế Mortier là người xưa kia đã quen biết Yakovlev ở Paris, Thống Chế lập tức tâu việc đó lên Hoàng Đế. Napoléon ra lệnh dẫn Yakovlev đến trình diện. Trong tập “Nhớ Lại Và Suy Nghĩ”, Herzen có kể lại câu chuyện giữa Napoléon và cha y: “Napoléon tức giận Rostopchin là kẻ mà ông ta buộc cho tội đã gây ra vụ cháy thành làm hủy hoại các công trình lịch sử, và cũng như bất cứ bao giờ, Napoléon vừa bào chữa cho lòng yêu chuộng hòa bình của mình vừa giải thích rằng ông ta tiến hành chiến tranh là đánh nước Anh, chứ không phải đánh nước Nga, ông ta khoe khoang là đã cho bảo vệ Viện nuôi trẻ làm phúc, và nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, ông ta phàn nàn rằng: “Aleksandr có một bọn cận thần xấu và Nga Hoàng không hay biết gì đến những hành động hòa bình của ông”. Sau đó, Napoléon ngừng lại suy nghĩ một lát và bất chợt hỏi: “Viết thư thì ông có chuyển giúp tôi không và liệu tôi có thể tin chắc được là bức thư sẽ đến tay Aleksandr không? Nếu ông chuyển được, tôi sẽ cấp giấy thông hành cho ông và bộ hạ”. “Hạ thần xin sẵn sàng lĩnh ý của Bệ Hạ, nhưng trả lời câu hỏi của Bệ Hạ thật là khó khăn cho hạ thần”.
Napoléon viết một bức thư cho Aleksandr đề nghị giảng hòa và giao cho Yakovlev. Yakovlev đã hứa với Napoléon là sẽ cố gắng hết sức để chuyển tới tận tay Aleksandr. Trong bức thư hỏa tốc đầy những lời lẽ hòa giải nhất người ta nhận thấy một câu khá kỳ quặc sau đây của Napoléon: “Tiến hành chiến tranh với Ngài nhưng không có hằn thù gì với Ngài”. Mặc dầu trước đây đã xảy ra bao nhiêu chuyện nhưng hình như Napoléon vẫn dứt khoát cho rằng không ai có thể nguyền rủa được ông và chỉ riêng ông là người có quyền nổi nóng! Cả bức thư ấy cũng không được trả lời, Napoléon liền cố gắng một lần thứ ba nữa, và cũng là lần cuối cùng để giành lấy hòa bình.
Ngày 4 tháng 10, Napoléon cử hầu tước Lauriston, nguyên đại sứ ở Nga trước chiến tranh, đến bản doanh của Kutuzov ở Tarutino. Lẽ ra Napoléon định giao nhiệm vụ ấy cho tướng Caulaincourt, công tước xứ Vicenza, nhưng Caulaincourt đã khẩn khoản can ngăn Napoléon đừng làm chuyện đó vì như vậy sẽ chỉ cho quân Nga biết rõ tình thế bấp bênh của quân đội Pháp. Như mọi lần, Napoléon lại đã nổi khùng mỗi khi cảm thấy lập luận của người phản đối mình là đúng đắn: Ông ta đã mất cái thói quen thích bị người ta cãi lại. Vì Lauriston dựa vào những lý lẽ của Caulaincourt nên Hoàng Đế đã cắt đứt câu chuyện và dứt khoát hạ lệnh: “Ta muốn hòa bình, ta cần hòa bình, ta tuyệt đối muốn hòa bình; ngươi hãy bảo vệ lấy danh dự”. Và Napoléon hạ lệnh cho Lauriston phải tức khắc tới doanh trại của quân Nga.
Việc Lauriston đến vị trí tiền tiêu của quân Nga đã thật sự làm náo động đại bản doanh của Kutuzov. Đã có nhiều người yêu nước Nga hăng hái hơn cả bản thân Kutuzov và họ lấy làm khổ não hơn Kutuzov nhiều về việc mất thành Moscow. Những nhân vật đó, chẳng phải ai khác, là Wilson, phái viên của chính phủ Anh ở bên cạnh quân đội Nga, là hoàng thân Wintzingerode, kẻ bội phản Liên Bang Sông Rhine, là công tước Württemberg, là công tước Oldenburg và nhiều người ngoại quốc khác nữa; họ bám riết lấy Kutuzov. Bennigsen, kẻ căm ghét Kutuzov và trước đây đã kịp thời báo lên Nga Hoàng rằng bỏ Moscow mà không đánh thêm một trận nào nữa là tuyệt đối không cần thiết, cũng đã về bè với bọn người trên. Nhân danh nhân dân Nga và quân đội Nga (trong hoàn cảnh ấy thì bọn chúng là đại diện), Wilson đến trước mặt Kutuzov và tuyên bố bằng những lời lẽ quyết liệt với Tổng Tư Lệnh rằng quân đội sẽ không phục tùng Kutuzov, nếu Kutuzov ra vị trí tiền tiêu để hội đàm riêng với Lauriston. Sau khi nghe Wilson nói, Kutuzov thay đổi ý định, ông tiếp Lauriston ở đại bản doanh, nhưng từ chối không thảo luận với Lauriston về vấn đề đình chiến hoặc ký hòa ước mà chỉ hứa chuyển lời đề nghị của Napoléon lên cho Hoàng Đế Aleksandr biết. Nga Hoàng không trả lời. Về phần Napoléon, hãy còn một biện pháp khác nữa: Cuộc cách mạng nông dân ở Nga. Nhưng Napoléon không thể nào đi đến quyết định đó được. Vả lại không thể nào cho rằng Napoléon, sau khi đã dùng lực lượng của quân đội Pháp để đàn áp thẳng tay không những mọi mưu đồ khởi nghĩa mà còn bất kỳ một dấu hiệu không phục tùng nào của nông dân đối với bọn chúa đất ở Litva, nay bỗng nhiên lại có thể xưng mình là người giải phóng cho nông dân Nga được.
Sau khi Moscow thất thủ, giai cấp đại quý tộc Nga lâm vào cảnh hốt hoảng khủng khiếp, và người ta báo cáo với Aleksandr rằng không những chỉ nghe thấy nông dân bàn tán về việc giải phóng, mà ngay trong binh lính người ta cũng nói rằng hẳn là Aleksandr đã bí mật yêu cầu Napoléon tiến vào nước Nga để giải phóng cho nông dân, vì rõ ràng chính Nga Hoàng cũng sợ bọn lãnh chúa. Và ở Peterburg, người ta đã đồn (một gã Sebalin nào đó đã bị mang ra tòa xét xử về tội nói như vậy) rằng Napoléon là con Catherine đệ nhị và Napoléon đến đoạt ngôi vua toàn nước Nga của Aleksandr vì Napoléon là người kế thừa chính thức, sau đó ắt Napoléon sẽ giải phóng cho nông dân. Những nguồn tin chắc chắn cho biết rằng có nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại bọn quý tộc địa chủ đã nổ ra trong năm 1812, có những cuộc rất quyết liệt.
Rõ rệt là Napoléon do dự trong ít lâu, lúc thì bất thần ra lệnh cho tìm kiếm ở Sở Lưu trữ Moscow những tài liệu nói về Pugachev (nhưng không thấy) - (khởi nghĩa nông dân dưới thời Ekaterina- R.HA), lúc sai cận thần biên thư cho Eugène Beauharnais nói rằng nên kêu gọi nông dân khởi nghĩa, lúc hỏi mụ chủ hiệu người Pháp ở Moscow là Obenshain xem mụ ấy nghĩ sao về việc giải phóng nông nô, lúc lại hoàn toàn bỏ qua vấn đề ấy để đặt ra những câu hỏi về vấn đề dân tộc Tatar và Cossacks. Tuy nhiên, Napoléon đã ra lệnh phải cho ông ta biết về lịch sử phong trào Pugachev, điều đó chứng tỏ Napoléon đã hình dung một cách cụ thể đến tác dụng của sự can thiệp vào việc giải phóng nông dân Nga. Còn bọn quý tộc Nga, nếu như có một vấn đề nào đó thật sự đang làm “ruột gan” bọn chúng bồn chồn hoảng sợ thì đó chưa phải là cuộc phong tỏa lục địa, mà đương nhiên đó là việc nhìn thấy nền móng của chế độ nông nô đang bị lung lay một khi Napoléon chiến thắng, nghĩa là cái tai biến mà bọn chúng có thể mường tượng được do bài học của Sten và Hardenberg ở Phổ (sau trận đại bại ở Jena của dòng vua Hohenzollern) đã gợi ra cho chúng, tức là dưới hình thái của một cuộc cải cách “từ trên xuống” sau khi đã ký hòa ước; đó là điều mà bọn quý tộc Nga hoàn toàn không thể chấp nhận được; hoặc dưới hình thái một cuộc khởi nghĩa mới và kinh khủng kiểu Pugachev do Napoléon gây nên trong lúc đang chinh chiến, hình thái một cuộc tổng khởi nghĩa của giai cấp nông dân nhằm thủ tiêu chế độ nông nô bằng bạo lực và bằng con đường cách mạng.
Napoléon cũng đã không muốn bắt tay vào việc thực hiện kế hoạch cuối cùng ấy. Ông Hoàng Đế của giai cấp tư sản Châu Âu không thể nào chấp nhận được cuộc cách mạng nông dân dẫu là để chống lại nền quân chủ chuyên chế và phong kiến; và ngay lúc ấy thì duy chỉ có cuộc cách mạng như vậy mới đưa ông ta đến chiến thắng.
Ở điện Kremlin, có lúc Napoléon cũng lại đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa ở Ukraine, một phong trào bất thần nổ ra trong số những người Tatar. Tất cả những kế hoạch đó cũng lại bị vứt bỏ. Thật là có ý nghĩa phi thường khi những nhà viết sử hiện đại người Pháp tán dương lòng trung thành không gì lay chuyển nổi đối với những nguyên tắc bảo thủ của Napoléon ở ngay giữa đống tro tàn của Moscow.
Edouard Driault, tác giả tám cuốn sách dày, mới xuất bản, nghiên cứu về đường lối ngoại giao của Napoléon, có nhận xét về vấn đề đó rằng Napoléon đã nghĩ đến việc xúi giục dân Tatar ở Cadence nổi dậy; đã ra lệnh nghiên cứu cuộc khởi nghĩa của dân Cossacks do Pugachev lãnh đạo, rằng không phải Napoléon không am hiểu đời sống của xứ Ukraine...
Napoléon nghĩ đến Madespa... nhưng dưới con mắt Napoléon, phát động cuộc cách mạng ở Nga là một việc vô cùng trọng đại. Khi nghiên cứu sự bí mật đáng sợ của những cánh đồng hoang vu của đất nước Nga, Napoléon không khỏi lo ngại. Ông ta không phải là người sáng lập ra cách mạng, mà là người đàn áp cách mạng. Đó là một con người đầy đầu óc mệnh lệnh: Chưa thấy ai có cái ý thức hầu như là bản năng về quyền hành của Hoàng Đế đến mức độ như vậy. Napoléon gớm ghét các phong trào quần chúng nhân dân và chính vì vậy mà Napoléon đã khư khư giữ địa vị Hoàng Đế, không muốn hạ mình xuống địa vị một kẻ chịu thỏa hiệp[50]. Trong cái ngày tháng 10 đó ở cung điện Petrovsky, ngày mà Napoléon cân nhắc xem có nên ban hành một sắc lệnh giải phóng nông nô hay không, một cuộc đấu tranh nội tại mãnh liệt đã diễn ra trong con người Napoléon. Đối với viên tướng 25 tuổi, người bạn của Augustin Robespierre, đối với người cùng đảng của Maximilien, và cho đến cả về sau này nữa, đối với tác giả của Bộ Luật Napoléon, vấn đề có nên để nông dân rơi vào tay bọn chúa đất tàn bạo Saltykova[51] nam hoặc nữ hay không đã được quyết định không một chút do dự. Napoléon hoàn toàn biết rõ rằng chế độ nông nô Nga giống chế độ nô lệ của người da đen nhiều hơn là chế độ nông nô trong bất cứ một nước chuyên chế và phong kiến nào ở Châu Âu đã bị Napoléon đánh đổ, vì Napoléon đã nuôi dưỡng ở đất nước Nga một đàn nhung nhúc những gián điệp nên đã có toàn bộ tin tức đầy đủ và khác nhau về nước Nga. Nhưng từ lâu, viên tướng của cách mạng đã là Đức Bệ Hạ Napoléon mang ơn Đức Chúa Trời mà trở thành Hoàng Đế của người Pháp thành vua nước Ý, thành tên chúa đất thực thụ và thủ lĩnh của toàn lục địa Châu Âu, thành con rể của Hoàng Đế nước Áo, thành kẻ đã đưa lên máy chém hoặc đã giết hại trong các ngục tối hoặc đưa đi đày biết bao nhiêu người, những người mà chỉ khi còn thời vận cũng đã là bạn bè của anh em Maximilien và đã có can đảm trung thành với lòng tin của họ.
Việc giải phóng nông dân bằng một sắc lệnh của Napoléon được thi hành trong tất cả các địa phương của quân đội Napoléon chiếm đóng, và nếu tin này mà được lan rộng trong khắp quân đội Nga, gồm những nông nô bị chỉ huy bằng roi vọt, thì, theo như một số người thân cận của Napoléon nghĩ, sẽ có thể làm rung chuyển khối quần chúng nông dân khổng lồ, sẽ phá hoại kỷ luật trong quân đội của Nga Hoàng và trước hết là khởi động một cuộc khởi nghĩa như của Pugachev. Sự thật là 35 hay 36 năm trước khi bị Napoléon xâm lược, nước Nga là nước duy nhất đã nổ ra một cuộc chiến tranh nông dân quyết liệt, kéo dài rất lâu, lúc thì thắng lợi, lúc thì thất bại; trong quá trình chiến tranh, có lúc nghĩa quân có lực lượng pháo binh thiện chiến hơn của quân đội Nga Hoàng, đã đánh chiếm được nhiều thành phố quan trọng, và tiến quân thắng lợi trên cả một vùng đất đai rộng lớn, làm cho toàn bộ lâu đài của đế chế Nga bị rung chuyển trong mấy tháng liền. Napoléon chỉ có thể biết phong trào khởi nghĩa của nông dân Đức qua các tài liệu viết cách đây đã 300 năm, còn như về cuộc dấy lên của Pugachev thì ông ta lại có thể thu lượm bằng cách nghe chính những nhân chứng, và những người này cũng chưa cao tuổi lắm. Hơn nữa, đời sống của những nông nô Nga cũng chưa hề có chút gì thay đổi về căn bản cũng như về chi tiết. Sau chế độ ngược đãi nông nô kiểu “Saltychikha" với những lò than hồng để thiêu đốt những nông dân nô lệ, lại đến lượt những Ismailov và những Kamensky với những phòng tra tấn và những hầm kín của bọn chúng, và với những chợ mua bán nô lệ vẫn còn tồn tại từ thời Catherine ở Nizhny Novgorod về phía Bắc và ở Kremenchuk về phía Nam, từ khắp nước Nga, người ta kéo đế nơi đây mua buôn, mua lẻ nông nô, cướp con cướp cái trên tay những người cha người mẹ. Cái khác duy nhất là quân đội Pháp đóng ngay giữa trái tim của đất nước Nga, có thể làm chỗ dựa cho cuộc khởi nghĩa của nông dân.
Ngày nay người ta biết một cách rõ ràng là, vào năm 1812, viễn cảnh của một cuộc khởi nghĩa như vậy đã làm bọn quý tộc Nga hãi hùng. Ta vừa mới nhắc đến những tin đồn truyền lan ở nông thôn, đến những vụ bạo động nổ ra ở đó đây, đến sự cảm thấy mình bất lực của các nhà đương cục đứng giữa cơn giông tố đang cuồn cuộn dâng lên. Ta biết rằng đông đảo quần chúng đã tiếp đón Aleksandr bằng sự im lặng ghê rợn như thế nào khi Aleksandr, nhợt nhạt như kẻ đã chết, đi đến nhà thờ Cadence, lúc Peterburg được tin về trận tàn sát đẫm máu ở Borodino và tin Napoléon đã vào Moscow.
Cái gì đã chặn bàn tay của Napoléon lại? Tại sao Napoléon đã không quả quyết tìm cách lôi kéo đông đảo quần chúng nông dân ngả về phía mình. Hà tất phải vắt óc xuy nghĩ khi chính bản thân Napoléon đã tự cắt nghĩa điều đó cho mình. Sau này, Napoléon có tuyên bố rằng ông ta không muốn “nổi trận cuồng phong của nhân dân khởi loạn”, không muốn tạo nên cái hoàn cảnh để rồi sau này không biết “tìm ai” ra mà ký kết hòa ước.
Tóm lại, dẫu sao ông Hoàng Đế của nền quân chủ tư sản mới cũng cảm thấy mình gần gũi với người chủ của cái quốc gia nửa phong kiến và xây dựng trên chế độ nông nô của dòng họ Romanov hơn là gần gũi các lực lượng cơ bản của cuộc khởi nghĩa nông dân. Napoléon có thể thỏa thuận rất nhanh chóng với kẻ thứ nhất (tức Aleksandr - N.D) nếu không ngay tức khắc thì cũng chỉ sau một thời gian ngắn mà thôi, như kinh nghiệm Tilsit đã chỉ cho Napoléon thấy rõ; còn với kẻ thứ hai (tức là nông dân - N.D) thì ngay cả việc đàm phán, Napoléon cũng đã không muốn rồi. Nếu như trong suốt những ngày hè và đầu thu năm 1789, những nhà cách mạng tư sản Pháp đã sợ hãi cuộc dấy nghĩa của nông dân ở trên đất nước Pháp và lấy làm khiếp đảm khi thấy cuộc dấy nghĩa ấy ngày càng mạnh mẽ thì có gì đáng lấy làm lạ khi vào năm 1812 ông Hoàng Đế của giai cấp tư sản không quyết định lôi lên từ dưới đáy mồ cái bóng hình Pugachev?
5
Sau khi đã vứt bỏ ý nghĩ khởi động một phong trào nông dân ở trên nước Nga, đồng thời cũng từ bỏ ý định đóng bản doanh nghỉ quân ở Moscow, Napoléon phải lập tức định hướng sẽ rời bỏ Moscow. Thế là đã hoàn toàn rõ ràng rằng Aleksandr đã từ chối mọi cuộc đàm phán, vì Nga Hoàng đã làm thinh phản đối những lời đề nghị do Tutolmin làm trung gian đầu tiên rồi đến Yakovlev và cuối cùng là Lauriston. Tiến về Peterburg chăng? Đó là ý nghĩ đầu tiên của Napoléon. Sau khi Moscow bị thất thủ, cả thành phố Peterburg hốt hoảng, dân chúng đã bắt đầu thu xếp của nả và bỏ trốn. Maria Feodorovna, mẹ Aleksandr, mặc dầu rất căm Napoléon, đã là người hối hả và hốt hoảng nhất và muốn người ta ký hòa ước càng sớm càng hay. Constantine cũng sợ hãi, cũng rất mong muốn như vậy. Đương nhiên là cuộc tiến quân của Napoléon về Peterburg sẽ có thể làm tăng thêm sự hoảng hốt đó, nhưng cuộc hành quân này đã không thể tiến hành được. Đúng là binh lính có được nghỉ ngơi chút ít và được lại sức ở Moscow, nhưng thiếu ngựa, thiếu đến mức mà một vài vị Thống Chế đã phải khuyên Napoléon bỏ lại một số pháo.
Ở Moscow bị tàn phá, người ta không tìm đâu được cỏ khô, lúa mạch, vì nông dân ở lân cận Moscow đã nổi lên chống cự ác liệt với những đội quân đi kiếm thức ăn cho ngựa. Vả lại tinh thần của toàn thể quân đội Pháp không còn đủ để cho người ta tiến hành một chiến dịch mới, xa xôi ở tận phía Bắc. Một cuộc tiến công bất thần của quân đội Kutuzov đánh vào Murat đang đóng vị trí quan sát ở Chernitsa, trước mặt Tarutino, nơi Kutuzov đóng quân, đã buộc Napoléon phải sớm quyết định. Cuộc tiến công ấy xảy ra ngày 18 tháng 10, đã biến diễn thành một cuộc chiến đấu thật sự, và sau trận ấy, Murat bị đánh bật ra khỏi bên kia làng Spak Kuplya. Thật ra, đó chỉ là một cuộc giao tranh phụ, nhưng nó chứng tỏ rằng Kutuzov đã tăng cường lực lượng sau trận Borodino và người ta đã phải tính đến những cuộc tiến công chủ động khác của Kutuzov. Sự thật là Kutuzov đã không muốn đánh trận Tarutino và Bennigsen đã nổi khùng với một viên tướng tổng chỉ huy vì không muốn điều động cho Bennigsen những lực lượng cần thiết.
Napoléon đã hạ quyết tâm. Quyết tâm này của Napoléon không có gì bất ngờ, mà hình như còn rất tự nhiên kể từ khi Napoléon phải từ bỏ ý định tiến quân về Peterburg. Để Thống Chế Mortier ở lại Moscow cùng với đội quân phòng thủ một vạn người, Napoléon quyết định dùng tất cả số quân còn lại tiến theo con đường cũ đi Kaluga để đánh Kutuzov. Napoléon biết rằng Kutuzov đã nhận được viện binh, nhưng trong lúc đó thì Napoléon cũng nhận được viện binh, như vậy Napoléon có trong tay hơn 10 vạn quân, trong đó có 2 vạn 2 nghìn sĩ quan và binh lính tinh nhuệ của đội cận vệ. Ngày 19 tháng 10, Napoléon hạ lệnh xuất phát, và trừ quân đoàn của Mortier ra, toàn thể quân đội Pháp hành quân theo con đường cũ đi Kaluga.
Rất nhiều xe cộ kiểu cách kỳ quặc và xe ngựa chở lương thực cùng những thứ cướp bóc được của Moscow đi theo quân đội. Kỷ luật lỏng lẻo đến nỗi Thống Chế Davout đã bỏ việc xử bắn những người không phục tùng, cố tìm mọi cớ để chất thêm lên xe những đồ vật quý giá ăn cắp được trong thành phố mặc dầu ngựa cũng còn thiếu để kéo pháo. Bị đoàn xe dài dặc đó làm rối loạn hàng ngũ nên quân lính đã phải kéo đi thành một tuyến dài vô tận. Chỉ cần nhắc lại lời nhận xét thường được kể đến sau đây của những người đã mục kích: Đi trên một con đường rộng như đường Kaluga, tám chiếc xe có thể dễ dàng sóng hàng ngang được, mà sau suốt cả một ngày hành quân liên tục không nghỉ, quân đội và hành lý vẫn chưa ra hết khỏi thành phố.
Với con mắt quân sự của mình, Napoléon nhận ngay ra rằng một đoàn xe cộ như vậy sẽ gây nên rất nhiều nguy hiểm cho quân đội, rất nhiều khó khăn trong việc bảo vệ đoàn quân quá dài đó chống lại những cuộc đột kích của kỵ binh đối phương, nhưng Napoléon đã không quyết tâm hạ những mệnh lệnh cần thiết như ý định ban đầu của mình.
Quân đội bây giờ không còn như trước nữa. Sau khi đã chịu đựng vô vàn gian khổ, và hiểu đầy đủ được tình thế khốn đốn cũng như bao nhiêu gay go khác đang chờ đón mình, thì đoàn quân ấy, sở dĩ còn giữ vững được quả thật đã vì bản năng tự vệ ở một đất nước xa lạ và thù địch hơn là vì kỷ luật. Nếu uy tín cá nhân của Napoléon không giảm sút dưới con mắt của những người lính cựu cận vệ người Pháp thì binh lính của các dân tộc bị chinh phục lại có gan làm những gương xấu; trong họ, chẳng có một tình cảm nào đối với Napoléon để ngăn cản họ làm điều xấu.
Ấn tượng đầu tiên và mạnh mẽ nhất của Napoléon là khi nhìn thấy đoàn quân đó kéo dài vô tận, nhưng cái ấn tượng mạnh mẽ hơn có lẽ là khi Napoléon biết rõ sự lỏng lẻo về kỷ luật. Và đột nhiên Napoléon thay đổi kế hoạch, cái kế hoạch mà Napoléon đã có trước vài tiếng đồng hồ, khi rời bỏ Moscow. Dù cho cuộc tiến công có kết thúc bằng một thắng lợi như Borodino chẳng hạn thì cái trận Borodino mới ấy cũng khó làm thay đổi được ý đồ của Napoléon, hay đúng hơn, lúc ấy đối với ông ta là căn bản: bỏ Moscow. Napoléon đã đoán trước được ảnh hưởng của các cuộc rút lui này đối với Châu Âu và ông rất sợ ảnh hưởng đó. Nhưng, một khi đã quyết tâm tránh giao chiến với Kutuzov, Napoléon liền chuyển ngay sang thực hiện ý đồ khác: Bỏ đường cũ Kaluga, tạt sang bên phải để bắt vào con đường Borovsk và hành quân về phía Đông Nam qua tỉnh lỵ Kaluga còn chưa bị chiến tranh tàn phá, rồi tiến về Smolensk. Napoléon chưa từ bỏ ý định tiếp tục chiến tranh: Đi qua Maloyaroslavets và Kaluga, sau khi đã tới Smolensk không gặp trở ngại gì thì có thể trú quân qua mùa đông ở thành phố Maloyaroslavets hoặc ở Vilna, hoặc còn có thể tiến hành những công việc khác. Nhưng trước nhất cần phải quyết tâm dứt khoát rời khỏi Moscow. Tối ngày 20 tháng 10, từ đại bản doanh đóng ở Troitskoye, Napoléon ra lệnh cho Thống Chế Mortier cùng với toàn bộ quân đoàn lập tức đuổi kịp quân chủ lực sau khi đã phá hủy điện Kremlin.
.
Mệnh lệnh cuối này chỉ thực hiện được một phần. Trong hoàn cảnh hỗn loạn của một cuộc rút lui quá cập rập như vậy, Mortier không có đủ thời gian để chấp hành tốt mệnh lệnh đó. “Không bao giờ tôi làm những điều vô ích”, Napoléon đã có lần nói như vậy để đáp lại lời người ta vu cáo Napoléon là cho thắt cổ Pichegru ở trong nhà tù. Nhưng trong hoàn cảnh này, việc phá hoại điện Kremlin là một hành động man rợ hoàn toàn vô ích. Hành động đó có thể là sự trả lời việc Aleksandr làm thinh phản đối ba lần đề nghị giảng hòa của Napoléon.
Thừa hành mệnh lệnh của Napoléon, đột nhiên quân đội rời bỏ con đường cũ Kaluga để đi theo con đường mới, và ngày 23 tháng 10, chủ lực của Napoléon đã tới Borovsk.
Một bộ phận của sư đoàn Delzons chiếm được Maloyaroslavets. Đoán được kế hoạch của Napoléon, Kutuzov quyết định chặn Napoléon trên con đường mới dẫn đi Kaluga. Tảng sáng ngày 24 tháng 10, tướng Dokhturov rồi đến tướng Rayevsky lần lượt tiến công Maloyaroslavets đã lọt vào tay Delzons từ tối hôm trước. Do lực lượng kéo đến tham chiến mỗi lúc một đông nên cuộc giao chiến có tính chất ác liệt kéo dài đến tối, và trong quá trình giao tranh, Maloyaroslavets đã tám lần chuyển từ tay bên này sang tay bên khác để rồi cuối cùng vẫn thuộc về quân Pháp, nhưng cả hai bên đều bị tổn thất nặng nề. Quân Pháp chết tới 5 nghìn người. Trong cái thành phố đã biến thành tro bụi đó, hàng trăm binh lính Nga và Pháp bị chết trong ngọn lửa; rất nhiều thương binh bị thiêu sống.
Mờ sáng ngày hôm sau, Napoléon với đoàn hộ tống ra khỏi làng Gorodnya để quan sát các vị trí của quân Nga, thì đột nhiên, một toán quân Cossacks lăm lăm giáo mác đã xông vào toán quân kỵ binh đó. Hai Thống Chế (Murat và Bessières) đi theo Hoàng Đế, tướng Rapp và vài sĩ quan liền vây chặt lấy Hoàng Đế và chống lại cuộc tiến công của toán quân Cossacks.
Lính khinh kỵ người Ba Lan và quân kỵ mã xích hầu của đội cận vệ vội phi ngựa đến giải nguy, cứu được Hoàng Đế và những người cùng đi. Nguy cơ bị giết chết hoặc bị bắt cầm tù đe dọa đến nỗi người ta khó mà tin được rằng nụ cười luôn luôn nở trên môi Hoàng Đế trong suốt thời gian diễn ra sự biến bất thần ấy là một nụ cười chân thật. Nhưng, mọi người đã trông thấy nụ cười đó và trong ngày hôm ấy cũng như về sau này nữa, ai nấy đều say sưa nói rằng chính sự nguy hiểm ấy là lý do để Hoàng Đế mỉm cười. Buổi tối, Hoàng Đế hạ lệnh cho bác sĩ Ivan, thầy thuốc hộ giá, pha chế dâng lên Hoàng Đế một ống thuốc độc mạnh, phòng khi chẳng may gặp phải nguy cơ bị bắt.
Sau khi đi kiểm tra các vị trí về, Napoléon họp hội đồng quân sự ở Gorodnya. Hình như trận Maloyaroslavets chứng minh cho thấy rằng nếu Napoléon không muốn một trận Borodino thứ hai thì quân Nga lại muốn, và nếu không có một trận Borodino nữa thì Hoàng Đế sẽ không mở được đường đến Kaluga. Hội Đồng Quân Sự đã hoàn toàn nhất trí với ý kiến ấy, mà cuối cùng chính bản thân Napoléon cũng tán thành. Đã không tính đến một trận tổng công kích nữa thì chỉ còn có việc tiếp tục trở về Smolensk đã hoàn toàn bị tàn phá, và phải hành quân càng nhanh chóng càng hay, trước khi quân Nga chiếm Mozhaysk bỏ ngỏ để chặn đường rút lui của quân Pháp. Sau khi lấy ý kiến của các sĩ quan hầu cận, thoạt tiên Napoléon có ý định tuyên bố với họ rằng hãy hoãn việc quyết định dứt khoát và theo ý của Hoàng Đế thì tốt hơn hết là giao chiến với Kutuzov để mở đường rút lui về Kaluga bằng vũ lực. Sự do dự của Napoléon được chấm dứt vào ngày 26 tháng 10, khi được tin quân Nga đánh bật được đội kỵ binh của Poniatowski ra khỏi Medin. Nhưng Kutuzov không muốn giao chiến, cũng không gây chiến.
Sau trận Maloyaroslavets, Kutuzov kiên quyết để mặc Napoléon rút lui, không hề dồn ép, thúc bách. Khi bọn người ngoại quốc (Đức và Anh), theo lệnh Aleksandr đến tổng hành dinh của Kutuzov để do thám viên tướng tổng chỉ huy, đã quấy rầy quá nhiều vị nguyên soái già bằng cách chê trách ông ta là thiếu nghị lực, thì đột nhiên ông phát khùng và tỏ cho họ thấy rằng ông thừa hiểu thủ đoạn của họ và biết rất rõ lý do tại sao bọn họ lại quá sợ cuộc chiến tranh của nước Nga chống Napoléon sẽ kết thúc “non yểu”.
6
Ngày 27 tháng 10, quân Pháp bắt đầu rút lui từ Borovsk đến Veria, Mozhaysk, Dorogobuzh và cuối cùng đến Smolensk. Họ hành quân một tuyến rất dài, và theo lệnh của Napoléon, đi đến đâu đốt sạch làng mạc, thôn xóm, vườn ấp đến đấy. Từ Mozhaysk trở đi thì hầu như chẳng còn gì để đốt phá nữa vì những nơi này đã bị tàn phá trơ trụi ngay từ trước trận Borodino. Thành phố Mozhaysk hoang vu chỉ còn là một đống tro tàn. Khi đi qua chiến trường Borodino, hàng ngàn xác chết của binh lính Pháp và Nga bị bỏ lại vẫn đang rữa thối, không ai thu nhặt, Napoléon hạ lệnh gấp rút ra khỏi nơi đó càng sớm càng hay: Quang cảnh khủng khiếp ấy làm cho binh lính mất hết tinh thần, nhất là lúc này họ đã nhận thấy rằng họ là những người chiến bại.
Ngày 30 tháng 10, khi đến Gzhatsk thì trời bắt đầu trở lên lạnh, thật là bất ngờ, bởi theo sự điều tra mà Napoléon lượm được vào năm 1811 trước khi tiến quân xâm lược thì ở vùng này của nước Nga đến cuối tháng 12 mới bắt đầu rét dữ dội. Đặc biệt năm 1812, mùa đông đến rất sớm, trời rét kinh khủng. Kutuzov bám sát cuộc rút lui của đối phương. Quân Cossacks liên tiếp tập kích làm cho quân của Napoléon mệt nhoài. Phía trước Vyazma, kỵ binh chính quy của quân Nga tiến công quân Pháp, nhưng rõ ràng Kutuzov tránh một cuộc chiến đấu có thế trận hẳn hoi, mặc dầu những người xung quanh đã không ngừng xúi bẩy ông làm như vậy. Dưới con mắt của người lính già này, tất cả vấn đề là ở chỗ tống cổ Napoléon ra khỏi nước Nga, nhưng đối với Wilson cũng như cả bầy người Đức và bọn lưu vong người Pháp cạnh ông thì cuộc lui quân của Napoléon không phải là sự kết thúc vấn đề mà lại là sự bắt đầu, bọn họ mong muốn được người ta trừ khử Napoléon hộ, ý định ấy sẽ chỉ có thể thực hiện được khi Napoléon hoàn toàn bị bắt hoặc bị giết. Nếu không thì đối với họ, Châu Âu vẫn chưa có gì thay đổi và rồi Napoléon vẫn sẽ tiếp tục trị vì đến tận sông Niemen. Nhưng lần này, Kutuzov đã không nhân nhượng. Nước càng đóng băng và quân Cossacks, quân du kích của Figner, Seslavin, Davydov càng tăng cường tập kích bao nhiêu thì quân đội Pháp lại càng tan rã mau chóng bấy nhiêu. Ngày 6 tháng 11, khi kéo quân về Dorogobuzh, quân đội Pháp chỉ còn được khoảng 5 vạn người đủ sức mang nổi vũ khí.
Trong khi luôn luôn cố gắng tỏ ra gương mẫu để động viên tinh thần binh lính, Napoléon phải chịu đựng tất cả những thử thách của cuộc rút lui. Napoléon đi chân hàng mấy giờ liền trên tuyết, tay chống gậy, miệng chuyện trò với binh lính đi bên cạnh. Ông còn chưa biết được rằng sắp tới có nên trú quân ở Smolensk hay không, cũng chưa biết được rằng sẽ dừng lại ở đó lâu hay chóng. Nhưng ở Dorogobuzh, Napoléon đã nhận được nhiều tin tức từ Pháp gửi tới buộc ông phải nhanh chóng hạ quyết tâm rời khỏi Smolensk thật sớm.
Thật ra, đây là những tin tức hết sức lạ lùng ở Paris chuyển đến Dorogobuzh cho Napoléon. Tướng Malet, một người Cộng Hòa lão thành bị giam trong một nhà lao ở Paris đã vượt ngục từ lâu, rồi vào một trại lính và báo cho binh sĩ của một đại đội rằng Napoléon ắt sẽ chết ở Nga, và đọc cho họ nghe một bản sắc lệnh của Thượng Nghị Viện, do chính tay Malet viết giả mạo, trong đó tuyên bố thiết lập chế độ Cộng Hòa, sau đó Malet cho bắt Bộ Trưởng Bộ Công An Savary và dùng súng lục bắn bị thương Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh. Sự rối loạn kéo dài trong hai tiếng đồng hồ, sau đó Malet bị lộ, bị bắt ra tòa án quân sự và đã bị xử bắn, cùng với 11 tội phạm khác chỉ vì đã tin rằng bản sắc lệnh đó có thật. Malet đã một mình mưu đồ việc ấy ở trong nhà lao.
Tuy cái việc nhỏ nhặt ấy chỉ là một sự manh động điên rồ nhưng đã tác động sâu sắc đến Napoléon. Ông ta cảm nhận thấy sự có mặt của mình ở Paris là cần thiết. Thoạt tiên là ở Dorogobuzh, rồi ngày 9 tháng 11, khi đến Smolensk, Napoléon được biết là Chichagov, cầm đầu đạo quân của miền Nam nước Nga từ Thổ Nhĩ Kỳ về, đang cấp tốc hành quân tiến về Berezina. Napoléon cũng được tin là quân đoàn của hoàng thân Eugène bị tổn thất nặng trong những cuộc giao chiến nhỏ với quân Cossacks, và cuối cùng, được biết rằng Vitebsk đã bị những phân đội của quân đoàn Wittgenstein chiếm đóng. Napoléon không thể tính đến việc dừng lại ở Smolensk nữa: Phải vượt qua Berezina trước khi quân Nga chặn đường, nếu không Napoléon và tàn quân sẽ nguy cơ bị bắt làm tù binh.
Trời ngay càng rét dữ. Ngay khi vừa ra khỏi Smolensk, binh lính đã suy yếu mệt mỏi đến nỗi gục xuống không dậy được nữa và đành chịu chết cóng tại chỗ. Suốt dọc đường, xác chết ngổn ngang. Do một sự sơ suất tai hại, khi rời khỏi Moscow họ đã không trang bị quần áo rét. Họ phải bỏ lại một phần lớn khí tài, xe cộ, một số pháo, có những đội kỵ binh phải đi bộ hoàn toàn vì ngựa chết như ruồi.
Với khí thế anh dũng ngày càng tăng, quân du kích và quân Cossacks lăn xả vào quân hậu vệ và những toán quân Pháp đi rớt lại sau. Khi rút khỏi Moscow, Napoléon có 10 vạn quân nhưng khi rời Smolensk thì chỉ còn lại không đầy 3 vạn 6 nghìn người, chưa kể vài nghìn binh lính đi rớt lại sau dần dần đã bắt kịp. Lúc này, Napoléon phải dùng đến biện pháp mà khi rút khỏi Moscow ông ta không định dùng: Hạ lệnh đốt hết xe cộ và quân trang, quân dụng để kéo pháo. Ngày 16 tháng 11, quân Nga tiến công quân đoàn Eugène Beauharnais ở Krasnoi và gây cho nó những tổn thất nặng nề. Ngày hôm sau, cuộc chiến đấu lại tiếp diễn. Quân Pháp bị đánh lui, hai ngày ấy bị thiệt mất chừng 1 vạn 4 nghìn, trong số đó có 5 nghìn vừa bị chết và bị thương; số còn lại đã hạ khí giới đầu hàng. Nhưng trận Krasnoi không phải đến đó đã kết thúc. Ney, bị cắt đứt khỏi quân chủ lực và bị tổn thất nặng nề (7 nghìn quân nay chỉ còn có hơn 3 nghìn), đã bị quân của Kutuzov đuổi dồn về đến sông Dnieper. Trong đêm tối, Ney đã vượt qua được sông ở về phía Bắc Krasnoi trên một lớp băng mỏng manh, binh lính bị thụt băng và chết đuối. Ney dẫn đầu một dúm quân còn lại, đã về thoát với đại quân ở Orsha.
Napoléon cố hết sức duy trì kỷ luật và tổ chức việc tiếp tế, nhưng không lo liệu trước một cách đầy đủ đến tuyến giao thông của mình về phía Minsk. Ở Dubrovka, Napoléon được tin là quân Ba Lan, mà ngay từ buổi đầu chiến dịch Napoléon đã giao cho phòng giữ Mohilev và Minsk, đã không làm tròn nhiệm vụ: Tướng Dombrowsky, được lệnh tiến công vào Borisov đã không đến chi viện cho tướng Bronikowski, và ngày 16 tháng 11, Minsk đã rơi vào tay Chichagov. Vào thành Minsk, quân Nga chiếm được nhiều kho lương thực lớn do Maret, công tước xứ Bassano, tập trung ở đó theo lệnh của Napoléon, mà Napoléon thì lại trông cậy vào những kho tàng đó. Tuyết đã bắt đầu tan.
Hoàn toàn tuyệt vọng. Các Thống Chế Oudinot và Victor đã bất lực, không cản nổi quân đoàn của Wittgenstein nên quân đoàn này từ phía Bắc đang dọc sông Dvina tiến về Berezina. Chichagov cũng đang từ phía Nam tiến lên Berezina. Ngày 22 tháng 11, sau khi đánh bật được Dombrowsky, Chichagov tiến vào Borisov.
Napoléon tái nhợt khi nhận được tin là quân Cossacks của Platov và quân của Yermolov họp thành đội tiền vệ của Kutuzov, đã hành quân từ hai ngày nay, nếu không thì là một ngày, để đuổi theo quân Pháp, và quân Pháp đang lâm vào tình trạng sẽ bị bao vây và đầu hàng. Napoléon lập tức hạ mệnh lệnh tìm một chỗ khác có thể bắc được cầu.
Borisov được nối liền với bờ bên kia sông bằng một chiếc cầu cố định, và ở tổng hành dinh của Hoàng Đế, khi người ta được tin đã mất chiếc cầu đó thì những người can đảm nhất cũng kinh hoảng. Napoléon trấn tĩnh rất nhanh. Căn cứ vào báo cáo của tướng Corbino, Napoléon quyết định vượt qua sông Berezina, quãng Studianka ở về phía Bắc Borisov, các kỵ binh người Ba Lan đã tìm thấy ở đó một chỗ lội qua được. Ở quãng này, sông Berezina rộng chưa đầy 25 mét, nhưng hai bên bờ sông là hai dải phù sa lầy lội, muốn qua được phải bắc một cái cầu dài gấp ba lần mặt nước con sông. Napoléon đã khôn khéo đánh lừa được Chichagov. Napoléon làm ra vẻ quyết định vượt sông sang Borisov. Ngày 23 tháng 11, Oudinot đánh bật được bá tước Pahlen, người chỉ huy đội tiền vệ của Chichagov phải rút khỏi Borisov vừa mới chiếm được, nhưng Chichagov vẫn ở gần Borisov và Wittgenstein đã từ phía Bắc hành quân cấp tốc tới. Napoléon không muốn và cũng không vượt sông ở nơi đó được. Bằng một loạt hoạt động nghi binh, Napoléon làm cho Chichagov lầm tưởng rằng cuộc vượt sông sẽ diễn ra Borisov hay ở phía dưới thành phố ấy, trong khi đó thì chính Napoléon đã có mặt ở Studianka vào lúc sáng sớm ngày 26 tháng 11. Lính bắc cầu của quân Pháp, lập tức bắt tay vào việc lội nước đến ngang thắt lưng, giữa những mảng băng đang trôi theo dòng, đã bắc được hai chiếc cầu ghép bằng thuyền; và quá trưa một chút thì quân đoàn của Oudinot bắt đầu vượt sông Berezina. Cuộc vượt sông tiến hành trong hai ngày 26 và 27 tháng 11. Quân Nga bố trí ở bên bờ phải, cách quãng sông lội được không xa lắm, toan tiến công vào những toán quân Pháp đã sang qua sông, nhưng quân Nga do tướng Chaplitz chỉ huy đã bị giáp binh của đội cận đánh lui. Wittgenstein tới chiến trường quá chậm. Chichagov thì bị Napoléon đánh lừa và tàn quân Pháp đã thoát không bị bắt. Tướng Apukhtin, một nhà sử học quân sự người Nga, đã nói về vấn đề này: “Không thể không nghiêm khắc chỉ trích những người chỉ huy tồi như Chichagov và Wittgenstein được, họ đã không có gan đương đầu với Napoléon”.
Cuộc vượt sông tiến hành có trật tự và khi hầu hết quân đội Pháp đã sang sông an toàn, thì thình lình một đám quân Pháp hành quân rớt lại sau khoảng 1 vạn 4 nghìn người bị quân Cossacks truy kích và chạy tán loạn về phía cầu. Đám quân đang thất đảm đó vội vã lao xuống cầu vào lúc mà những toán quân cuối cùng của Thống Chế Victor đang hàng ngũ sẵn sàng nhưng còn chưa qua được sông; họ đã phải dùng lưỡi lê đẩy lùi đám quân ấy lại. Được quân Cossacks báo tin cho biết là Napoléon đang vượt sông Berezina ở quãng lội Studianka, Kutuzov lập tức báo cho Chichagov biết. Vào giữa lúc pháo binh qua sông thì cầu gẫy. Lính bắc cầu vội vã chữa lại, nhưng vừa chữa xong cầu lại gãy. Nếu Chichagov khẩn trương hơn nữa thì quân Pháp không tài nào tránh được tai họa. Nhưng không rõ vô tình hay hữu ý, Chichagov đã đến quá chậm, khi đến nơi thì Napoléon đã cùng với tàn quân ở bờ sông bên kia. Đại đa số binh lính Pháp hành quân rơi rớt (khoảng 1 vạn trong số 1 vạn 4 nghìn người), do bị binh lính của Victor đẩy ra xa cầu, đã phải bỏ ở lại bờ sông, phần bị quân Cossacks tàn sát, phần bị bắt làm tù binh. Cuộc vượt sông vừa xong thì thì Napoléon hạ lệnh đốt cầu; và nếu như không có lệnh ấy thì số lính bị rớt lại sau hẳn đã chạy thoát được hết, nhưng vì nhu cầu quân sự đòi hỏi phá hủy phương tiện qua sông của quân Nga nên việc tổn thất 1 vạn quân rơi rớt ấy không ngăn cản được Hoàng Đế. Ông ta coi những người nào giữ vững được hàng ngũ mới là người hữu ích, còn những kẻ đã lạc ngũ thì bất kể lý do gì, dù vì bị ốm đau hay vì chân tay bị tê cóng, đối với Napoléon, họ không còn là những người lính nữa, Hoàng Đế chẳng quan tâm mấy đến số phận của họ. Napoléon chỉ chăm sóc đến thương binh khi nào những sự chăm sóc ấy không gây thiệt thòi cho những binh sĩ còn khả năng chiến đấu. Ở trường hợp này, thấy cần thiết phải đốt cầu một cách nhanh chóng nhất, Napoléon đã đốt không chút do dự.
Chính Hoàng Đế và các Thống Chế của ông ta cũng như nhiều tác giả quân sự xưa và nay đã và đang ca ngợi Napoléon, coi cuộc vượt sông Berezina là một trong những chiến công đẹp đẽ nhất của Napoléon. Một số người khác lại cho đó là một điều may mắn cho những sai lầm và sự thiếu linh hoạt của Chichagov và Wittgenstein mang lại, cũng như do sự bối rối của Aleksandr gây ra: Aleksandr đã bất chấp Kutuzov, từ Peterburg gửi thẳng cho các tướng lính một kế hoạch bao vây Napoléon, kế hoạch mà Kutuzov cho là ngu ngốc. Kharkevich, nhà viết sử quân sự người Nga đã cho xuất bản vào năm 1894 một cuốn khảo cứu đặc biệt nhan đề là Sông Berezina, đến tận bây giờ cuốn sách ấy vẫn được coi là mẫu mực. Qua cuốn sách ấy, người ta thấy rõ là Kutuzov cũng chẳng buồn thực hiện kế hoạch của Aleksandr, và chính vì cố ý mà Kutuzov đã không đi gấp tới sông Berezina, trong khi ông có đầy đủ khả năng tới đó đúng lúc. Việc nghiên cứu kỹ các tài liệu của Chichagov cũng như của Yermolov, của Denis Davydov và ngay cả của chính Kutuzov để lại, đã dẫn đến chỗ phải thừa nhận rằng rất khó bác bỏ được ý kiến của Kharkevich. Giống như Apukhtin, Kharkevich cho rằng sự sợ hãi, một sự sợ hãi đầy kinh hoàng khi đứng trước Napoléon, đã làm Wittgenstein và Chichagov tê liệt đến nỗi họ không làm những điều đáng lẽ ra phải làm. Mặt khác, Kharkevich đánh giá các cuộc hành binh của Napoléon là đúng đắn hợp lý.
Dẫu sao, tàn quân Pháp cũng đã thoát thân; họ tiếp tục hành quân rút về Vilna. Nhưng sau cơn tuyết tan nhất thời đã buộc phải bắc cầu qua sông Berezina, thì đột nhiên cái rét kinh khủng lại kéo đến. Hàn thử biểu hạ xuống 15, rồi 20, 26, 28 độ dưới không độ, và binh lính gục chết hàng chục, hàng trăm người một lúc. Những người còn sống sót phải đi giãn ra để tránh những người chết và những người hấp hối, rồi lại bám chặt lấy nhau và tiếp tục đi trong suốt thời gian rút lui khốn đốn ấy, chưa bao giờ họ phải chịu đựng những cơn rét khủng khiếp như vậy. Đằng sau họ, Kutuzov vẫn bám sát. Tuy được mặc ấm hơn quân Pháp rất nhiều nhưng binh sĩ của Kutuzov cũng đã lao đao vì rét. Chỉ cần nói rằng sau trận Borodino, khi tăng cường quân đội vào tháng 10, thoạt tiên Kutuzov rời Tarutino để đi Maloyaroslavets, rồi sau đó truy kích Napoléon, Kutuzov trên 9 vạn 7 nghìn người mà vào giữa tháng chạp, khi đến Vilna thì ông chỉ còn chưa đầy 2 vạn 7 nghìn 5 trăm người. Khi rời Tarutino, Kutuzov có 662 khẩu pháo nhưng ở dọc đường bị thiệt 425 khẩu, chỉ còn lại khoảng chừng 200 khẩu. Đó là những nỗi khó khăn gian khổ của những cuộc hành quân không ngừng, không nghỉ trong suốt cả một mùa đông rét mướt một cách rất đặc biệt ấy.
Cũng cần phải nói thêm rằng, mối sợ hãi đáng kể duy nhất của Napoléon là sợ bị Kutuzov đưa quân chủ lực ra tiến công ông. Sự thật là, tuy bằng cách đột kích vào các đoàn xe, quấy rối đội hậu vệ, quân Cossacks đã làm cho tình thế của quân đội Pháp đang rút lui trở lên hết sức bối rối, nhưng rất tự nhiên là họ không thể đơn độc chiến đấu với quân Pháp được.
.
Ở Krasnoi, họ đã đóng một vai trò quan trọng, nhưng vẫn là phụ; còn đối với quân du kích thì dẫu sao quân Pháp cũng không sợ như đội quân của Davydov, của Figner, của Dorokhov, Seslavin, Varbonski, Kudashev và hai, ba đội quân khác nữa. Quân Pháp không coi họ như quân chính quy và hầu như không bao giờ giữ họ làm tù binh: Bắt được là đem bắn hết. Vả lại, quân du kích cũng hành động như vậy, họ thích giết đối phương đã sa vào tay họ. Figner nổi tiếng là một tay rất quyết liệt. Trong hàng ngũ của quân du kích có cả sĩ quan, binh sĩ giải ngũ, những người tình nguyện. Những bút ký của người Pháp hầu như không bao giờ nhắc đến họ, trong khi ấy lại nói nhiều đến quân Cossacks và thừa nhận những tổn thất nặng nề do những đội kỵ binh Cossacks rất cơ động và ẩn hiện bất thần đã gây cho quân đội rút lui của Napoléon những trận tập kích liên tiếp và đột ngột, rồi sau đó họ lại lập tức biến đi mất. Quân du kích chỉ công kích vào những đơn vị đã hoàn toàn bị tan rã mà lúc đó họ có thể thanh toán ngay được.
Đây là bức họa chân thật của Denis Davydov, người chỉ huy du kích nổi tiếng, đã ghi lại: “Cuối cùng đội cựu cận vệ xuất hiện và chính đích thân Napoléon đi ở giữa... Nhảy lên mình ngựa, chúng tôi lại chạy ra bố trí ở ven đường cái lớn. Trông thấy những đám người hỗn độn của chúng tôi, quân địch vẫn ngang nhiên tiếp tục hành quân, súng lên đạn sẵn, bước đi đều đặn. Chúng tôi định cố bắt cho kỳ được dù chỉ là một tên trong hàng ngũ chặt chẽ ấy nhưng chúng tôi đã uổng công; như một khối đá hoa cương còn nguyên vẹn, chún