← Quay lại trang sách

Chương XIV (tt)

3

Đoạn kết của chiến dịch năm 1813 đang đến gần. Ở Nga, ở Phổ và ở Áo người ta liên tiếp động viên tân binh. Người ta đưa hết lực lượng dự trữ ra mặt trận, người ta căng hết sức lực. Nước Anh một lần nữa cởi nút túi tiền, không keo kiệt bủn xỉn tiếc đồng vàng lá bạc cần thiết cho việc củng cố Khối Liên Minh, cũng như tăng cường cho Wellington ở Tây Ban Nha. Kể cả những lực lượng dự bị, bây giờ Khối Liên Minh có gần 85 vạn binh lính, và Napoléon kể cả đội dự bị, có gần 55 vạn quân. Đại nguyên soái Áo Schwarzenberg được bổ nhiệm làm tổng chỉ huy Quân Đội Liên Minh. Napoléon không sợ Schwarzenberg chút nào. Quân Nga không còn Kutuzov và Bagration nữa và bây giờ Hoàng Đế đánh giá số tướng lĩnh còn lại của họ cũng chẳng hơn gì năm 1812. Napoléon đánh giá khá cao một số người đã chiến đấu ở Smolensk và Borodino, song, nói chung Napoléon đánh giá quá thấp Bộ Tham Mưu Nga. Chẳng hạn Napoléon cho rằng phương pháp chỉ đạo các cuộc hành binh suốt trong quá trình rút lui khỏi Moscow là hoàn toàn ngu xuẩn, và Napoléon xác định rằng, như ông đã từng nhắc mãi cho đến khi chết, chỉ có những khoảng không gian vô hạn, việc đốt cháy thành Moscow, mùa đông khủng khiếp và cái sai lầm mà chính bản thân Napoléon mắc phải trong khi chiếm đóng Moscow và lần lữa ở lại đó mới là những nguyên nhân làm cho chiến dịch bị thất bại; còn như các tướng lĩnh, các nhà chiến lược, chiến thuật Nga, theo ý Napoléon đều không có khả năng lợi dụng kịp thời một chút nào những hoàn cảnh và cùng thuận lợi cho họ. Năm 1813, Napoléon đánh giá người lính Nga còn cao hơn năm 1807, sau trận Eylau, trên cả những người lính khác trong Khối Liên Minh. Còn đối với nước Phổ, Napoléon coi cũng chẳng hơn gì nước Áo và nước Nga, ông ta không thấy trong hàng ngũ họ tay địch thủ nào khả dĩ đáng sợ về nghệ thuật chiến tranh. Nhưng Napoléon biết rằng Bernadotte (người đã trở thành kẻ thù của Napoléon vào năm 1813) với tư cách là thái tử nước Thụy Điển, đã khuyên Aleksandr đệ nhất và các vua chúa các nước Liên Minh cầu cứu tướng Moreau, một tướng tài mà năm 1804 đã bị kết án vì liên quan vào vụ âm mưu George và Pichegru, rồi bị trục xuất khỏi nước Pháp và từ đó sống ở Châu Mỹ. Là kẻ thù không đội trời chung với Napoléon, Moreau đã sang hàng ngũ của Aleksandr đúng vào lúc chiến sự tiếp diễn, sau khi Hội Nghị Prague bị thất bại.”Không nên xông vào những cánh quân nào mà chính Napoléon có mặt ở đó, chỉ nên đánh vào các Thống Chế”, đó là lời khuyên đầu tiên của Moreau với Aleksandr và quân Liên Minh. Nhưng mọi việc đều làm cho người ta thấy lương tâm của kẻ phản bội ấy không để cho hắn yên, mặc dầu hắn đã tự an ủi bằng cách cho rằng hắn không đánh lại nước Pháp mà chỉ đánh lại kẻ áp bức nước Pháp. Tướng Nga, hoàng thân Repnin, được chứng kiến cảnh tượng nổi bật sau đây: Gặp một người lính Pháp già bị bắt làm tù binh, Moreau liền bắt chuyện, nhưng nhận ra được người tướng trước đây đã từng chỉ huy quân đội của nước Pháp, bây giờ lại giúp đỡ kẻ thù của Tổ Quốc mình, người lính già đó lánh xa Moreau mấy bước và hô lên: “Nền Cộng Hòa muôn năm”. Người lính già chỉ còn thấy ở người tướng Cộng Hòa ấy là một kẻ phản bội mà lão chẳng thèm bắt chuyện. Với thái độ mơn trớn, Aleksandr đệ nhất tỏ ra hết sức chăm chút quý mến Moreau, và nhất quyết giao cho Moreau vai trò chính. Trước hết, Hoàng Đế Nga quý trọng Moreau vì với tài chiến lược của Moreau thì Moreau là người duy nhất xứng đáng gọi là địch thủ của Napoléon, sau nữa là sự có mặt của Moreau ở tổng hành dinh của quân Liên Minh có thể gây ra một sự dao động nào đó trong quân đội Pháp, vì đến tận bây giờ Moreau vẫn giữ được tiếng tăm của một người tướng Cộng Hòa hoàn hảo, bị nghi oan trong vụ Cadoudal và đã bị Napoléon trục xuất. Nhưng trong thời đại ấy, đối với binh lính Pháp, đối với quân đội thì các khái niệm nước Pháp, đế chế, Hoàng Đế, Tổ Quốc chỉ là một; khi họ đứng trước quân thù, trước sự can thiệp của nước ngoài, trước bọn Bảo Hoàng, trước bọn lưu vong thì họ coi tất cả bọn chúng cũng chỉ là một mà thôi, và Nga Hoàng đã tính sai. Về mặt tinh thần, dưới con mắt của binh lính Pháp, người được Nga Hoàng nâng đỡ đã không còn sống nữa ngay từ khi hắn vừa bước sang hàng ngũ quân địch. Lẽ ra Aleksandr định để Moreau đứng đầu chỉ huy Quân Đội Liên Minh thay Schwarzenberg nhưng chính Moreau lại đề nghị tổng chỉ huy quân đội là Aleksandr còn Moreau làm tham mưu trưởng, như vậy có ngược thực tế Moreau nắm quyền chỉ huy tối cao. Nhưng số mệnh lại đã quyết định hoàn toàn khác. Sau khi chiến sự tiếp diễn, trận đánh lớn đầu tiên là trận Dresden (27 tháng 8 năm 1813). Ở đây, Napoléon đã giành được một trong những chiến công rực rỡ nhất. Trong trận này, quân Liên Minh thiệt hại chừng 2 vạn rưỡi người chết, bị thương và bị bắt, và Napoléon mất gần 1 vạn. Quân Đội Liên Minh rút lui rất trật tự, trừ một vài quân đoàn bỏ chiến trường chạy trốn, bị kỵ binh truy sát gót. Cả hai bên đều sử dụng lực lượng pháo binh mạnh mẽ, và toàn bộ trận đánh đã diễn ra trong cơn sấm sét liên hồi của 1 nghìn 2 trăm khẩu pháo. Vào lúc ác liệt nhất, khi cánh trái của quân Liên Minh đã hoàn toàn bị đánh bại, đích thân Napoléon đứng ở trung tâm chỉ huy pháo binh, trên đồi Rohnischa, thấy bên trận địa quân địch có một toán kỵ binh, Napoléon bèn hạ lệnh cho một khẩu đội ngắm bắn. Ở giữa toán kỵ binh đó là Hoàng Đế Aleksandr, lần đầu tiên làm tròn nhiệm vụ tổng chỉ huy Quân Đội Liên Minh, bên cạnh Aleksandr là Moreau. Những viên đại bác đầu tiên bắn vào dúm người đó, theo lệnh của Napoléon, đã làm gãy hai chân của tướng Moreau và vài hôm sau thì Moreau chết. Trong hàng ngũ quân Pháp cũng như trong hàng ngũ quân Liên Minh người ta thêu dệt ra rằng Moreau bị chết bởi một viên đạn của khẩu pháo do chính tay Napoléon nhắm bắn, sau khi Napoléon nhận ra kẻ “phản bội” qua ống nhòm. Dầu sao thì quân Liên Minh cũng đã hoàn toàn thua ở Dresden và cái chết hết sức đột ngột của Moreau, nhà chiến lược có tài nhất của quân Liên Minh, cũng đã giáng cho họ một đòn ác liệt. Bị đánh bại ở Dresden, quân Liên Minh đã rút bằng nhiều đường về phía núi Kim Khi (Ore Mountains).

.

Trong những ngày sau, các Thống Chế Marmont, Victor, Murat, Saint Cyr, tướng Vandamme, được phái đi truy kích, còn bắt được hàng nghìn tù binh Nga, Phổ và Áo. Nhưng vì Vandamme quá hăng nên đã tách rời khỏi quân chủ lực tiền vệ và đã bị đánh tan ở Kulm vào những ngày 29 và 30 tháng 8; trong trận này, Vandamme bị thương và bị bắt làm tù binh cùng với một phần quân đội. Thắng lợi này lại cổ vũ tinh thần quân Liên Minh đã bị suy sụp từ sau trận Dresden. Đối với Napoléon, phải đương đầu cho vững và không ký hòa ước, dù có bị thua, đó lại là một trong những lời khuyên răn mà Moreau còn kịp nói với quân Liên Minh trước khi Moreau chết. Quân Liên Minh nhận thấy rằng, nếu như trước sau Napoléon vẫn là một thiên tài thì binh lính của ông ta nay không phải là những người như trước. Những đứa trẻ 18 đến 19 tuổi không thể thay thế được những quân đoàn vô địch, những đội quân gang thép mà Napoléon đã cùng với họ chiến đấu ở Ai Cập, ở Syria và đã chinh phục được Châu Âu, cũng không thể thay thế được các đội quân mà Napoléon đã dẫn đến Moscow và đã vung vãi hài cốt của họ trên các chiến trường. Chính Napoléon cũng biết điều đó. Napoléon còn thấy được một khó khăn khác. Cái nguyên tắc mà Napoléon đã xây dựng nên, một thứ nguyên tắc đã trở thành cổ điển sau thời Napoléon và đã được mang ra giảng dạy qua tất cả các giáo trình chiến lược và chiến thuật, nói rằng bí quyết của nghệ thuật chiến tranh là ở chỗ phải tập trung mạnh hơn địch vào thời gian và địa điểm cần thiết, nay đã bị chính Napoléon vi phạm, bởi vì bây giờ mọi vấn đề đều tuỳ thuộc vào cái chiến dịch Saxony này. Davout, người cầm đầu những lực lượng đông đảo, một trong những tướng lĩnh ưu tú nhất của Napoléon, bây giờ ở đâu? Đang bắn giết những thương gia ở Hamburg. Những phân đội bộ binh, kỵ binh và pháo binh quan trọng có thể giúp ích cho Napoléon trong trận quyết định sắp tới, bây giờ ở đâu? Ở Danzig, ở miền Bắc nước Đức, ở miền Nam và miền Trung nước Ý, ở Tây Ban Nha. Gọi họ về thì khác gì tự tay Napoléon làm tan rã cái đại đế quốc chỉ có thể đứng vững được bằng sức mạnh của các đồn ải, không gọi về thì cũng sẽ đi đến kết quả như vậy, bởi vì Napoléon sẽ không thể tránh được thất bại khi quân Liên Minh tiến công; quả là Khối Liên Minh thiếu tướng tài kể từ khi Moreau chết nhưng họ điều ra trận tuyến một số quân gần gấp đôi số quân của Napoléon. Những mâu thuẫn sâu sắc và bế tắc ám ảnh tâm trí Napoléon. Đường đến Berlin hiện ra đầy gian khổ, khó khăn. Bernadotte với quân lính Thụy Điển và Bülow với một bộ phận của quân đội Phổ đã đánh lui được những sư đoàn Pháp, trong đó có rất nhiều quân của các nước chư hầu của Napoléon như quân Bavaria, Saxony và những nước khác và càng ngày họ càng trở nên không tin cậy được, họ đào ngũ hàng trăm người một và không chịu chiến đấu với lý do duy nhất là không chống lại những người Đức khác để phục vụ những mưu đồ của Napoléon mà họ không biết. Ngày 23 tháng 8, ở Großbeeren, Thống Chế Oudinot bị đánh bật lại trên đường đi tiến công Berlin, Trên đường đi Silesia, MacDonald cũng đã bị thất bại ở Katzbach. Ngày 4 tháng 9, Murat tiến công Blücher làm cho Blücher thua chạy nhưng lại không tiêu diệt được Blücher. Ngày 6 tháng 9, Ney bị thất bại ở Dennewitz. Từ nay trở đi, Napoléon hoàn toàn không còn trông cậy gì được vào lính Đức trong quân đội của mình nữa: Ney đã phải rút lui chỉ vì lính Saxony trong quân đoàn của Ney bỏ chạy từng mảng khi có cơ hội. Napoléon cũng không hài lòng về các Thống Chế của ông ta. “Các tướng lĩnh và sĩ quan mệt mỏi vì chiến tranh, đã không còn có cái hành động đã giúp họ làm nên những việc lớn khi xưa”, ngày 8 tháng 9 năm 1813, Napoléon viết như vậy cho Clarke, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh, khi ông ta ra lệnh cho Clarke củng cố và tiếp tế cho các cứ điểm ở Renania. Tháng 9 trôi qua, không xảy ra sự kiện quyết định nào, nhưng Napoléon cũng như quân Liên Minh còn muốn đọ sức nhau bằng một trận tổng công kích vào trước mùa đông. Phong trào giải phóng dân tộc lan rộng trên toàn cõi nước Đức. Những đội du kích của hội sinh viên Đức yêu nước và các hội yêu nước khác đã bắt đầu xuất hiện. Thanh niên tư sản, sinh viên Phổ, Saxony, sinh viên các quốc gia trong Liên Bang Sông Rhine, sinh viên Westphalia, bây giờ ai nấy đều hăng say hoạt động cho công cuộc giải phóng nước Đức thoát khỏi ách ngoại bang. Napoléon tích cực chuẩn bị chiến dịch mùa thu. Nhưng Napoléon đã thấy trước rằng dù ông ta có thắng trận thì chiến tranh cũng không thể kết thúc ngay được bởi ông ta đã quyết tâm không nhượng bộ một chút nào và hiểu rằng với những lực lượng dự bị hùng hậu, quân Liên Minh cũng không chịu là kẻ bại trận dù rằng họ bị thất bại. Napoléon liền quyết định cho gọi thêm 28 vạn thanh niên mới lớn lên, lẽ ra đến năm 1815 mới đến tuổi đăng lính. Lời tiên đoán của Metternich đã trở thành hiện thực: Cửa các trại lính lại khép lại, bên trong nhốt những chú bé tân binh. Ngay từ những ngày đầu tháng 10, người ta thấy quân đội đối phương bắt đầu tiến hành những cuộc hành binh phức tạp, cùng với những trận đánh nhỏ, những cuộc tiến công cục bộ, những cuộc rút lui. Trong những ngày đau đớn ấy đối với Napoléon, sự hoạt động của ông để chỉ đạo, kiểm tra và tìm tòi thêm mỗi ngày những mưu chước, thủ đoạn chiến tranh mới thật đáng kinh ngạc. Quân Nga lúc đó đã tràn vào chiếm vướng quốc Westphalia, và vua Jérôme chạy trốn. Xứ Bavaria phản bội và chạy sang với phe Liên Minh. Napoléon buộc phải gấp rút mở đợt tổng công kích và phải thắng trận. Napoléon đã nói như vậy, và hẳn là ông ta hiểu được ý nghĩa bi thảm của sự kiện; các nước chư hầu đã bắt đầu phản bội ông, họ không cần đợi chờ kết quả của những trận đánh sắp tới.

.

Ngày 16 tháng 10 năm 1813, trên cánh đồng Leipzig đã diễn ra trận đánh lớn nhất trong suốt cuộc đời võ nghiệp của Napoléon: “Trận các quốc gia”, như ở nước Đức lúc bấy giờ người ta thường gọi. Ròng rã ba ngày 16, 18 và 19 tháng 10 ở Leipzig, Napoléon đã chống lại cuộc liên minh của người Nga, người Áo, người Phổ và người Thụy Điển. Ngoài người Pháp ra, trong quân đội của Napoléon còn có người Ba Lan, Saxony, Hà Lan, Ý, Bỉ, người Đức của Liên Bang Sông Rhine. Khi vào cuộc chiến, Napoléon có 15 vạn rưỡi quân và bên Liên Minh có 22 vạn. Khi trời vừa tối, hai bên cầm cự rất găng và chưa phân thắng bại. Trong ngày đầu ấy, Napoléon mất gần 3 vạn quân, số thương vong của quân Liên Minh lên tới gần 4 vạn. Người ta chờ đợi ngày hôm sau. Suốt đêm, Napoléon và quân Liên Minh đều nhận được tiếp viện. Sáng ngày thứ hai, Napoléon giao chiến với số quân tiếp viện là 1 vạn rưỡi, trong khi đó thì 11 vạn quân của quân đội miền Bắc, dưới quyền chỉ huy của Bernadotte và Bennigsen, đã đến tiếp viện kịp quân Liên Minh. Trời vừa sáng, Napoléon đi thăm bãi chiến trường ngày hôm trước cùng Murat. Murat đã lưu ý Napoléon rằng kể từ trận Borodino đến nay chưa bao giờ người ta thấy cảnh tàn sát như vậy. Buổi sáng ngày 17 tháng 10 đã có lúc Napoléon nghĩ đến việc rút lui, nhưng cuối cùng lại quyết định ở lại. Napoléon sai dẫn tướng Áo Merveldt, bị bắt làm tù binh từ hôm trước đến và đề cập với Merveldt về vấn đề hòa bình với nước Áo. Merveldt nói rằng ông ta biết là nước Áo hiện nay muốn hòa bình và nếu Napoléon “vì hạnh phúc của thế giới và của nước Pháp” đồng ý thì có thể ký kết ngay được. Cả ngày 17 tháng 10 được dành cho việc chuyển thương binh và chuẩn bị để lại tiếp tục chiến đấu. Sau một hồi lâu do dự, Napoléon quyết định rút về tuyến sông Pleisse, nhưng trước khi Napoléon kịp thực hiện cuộc hành quân ấy thì chiến sự đã nổ ra vào sớm ngày 18 tháng 10. So sánh lực lượng đã biến đổi có lợi cho quân Liên Minh. Ngày 16 tháng 10, sau khi mất khoảng 4 vạn quân thì ngày 17 và trong đêm 18 họ đã nhận số quân tiếp viện hùng hậu: Để tiếp tục chiến đấu ngày hôm đó họ đã điều ra trận địa số quân đông gần gấp đôi của Napoléon. Trận đánh ngày 18 đã diễn ra kinh khủng hơn cả trận đánh ngày 16. Giữa lúc giao chiến, toàn bộ quân đội người Saxony, chiến đấu miễn cưỡng trong hàng ngũ Napoléon, đột nhiên bỏ chạy sang hàng ngũ quân Liên Minh và quay súng bắn vào quân Pháp, những người mà vừa đây họ còn chung mục đích. Tuy vậy, Napoléon vẫn tiếp tục chiến đấu, chiến đấu với một nghị lực tàn bạo, bất chấp tình thế tuyệt vọng. Khi tiếng súng câm lặng cùng với bóng chiều đổ xuống thì hai bên lại mặt đối mặt và chiến sự vẫn chưa kết thúc. Nhưng rồi đoạn chót đã đến vào đêm 18 rạng ngày 19. Sau những tổn thất kinh khủng mà Napoléon lại vừa chịu đựng và sau sự phản bội của binh lính Saxony, Napoléon không thể đương đầu được nữa. Ông quyết định đánh rút lui. Cuộc rút lui bắt đầu vào ban đêm và kéo dài suốt cả ngày 19 tháng 10, trong ngày hôm đó Napoléon đã rút khỏi Leipzig, vừa đánh vừa rút về phía Tây và bị quân Liên Minh đuổi gấp. Trận đánh thật là đẫm máu chưa từng thấy vì ở trong các đường phố và ở các cửa ô, quân rút lui ùn lại đông nghịt. Napoléon đã hạ lệnh phá các cầu đã đi qua, nhưng vì một sự lầm lẫn, công binh đã cho nổ mìn quá sớm, trong khi ấy gần 2 vạn 8 nghìn quân (quân Ba Lan) chưa qua được. Tướng Ba Lan là Thống Chế Poniatowski, chỉ huy quân đoàn Ba Lan, bị thương, đã chết đuối khi thúc ngựa cố vượt sông Elster. Nhưng chẳng mấy chốc, cuộc truy kích cũng ngừng lại. Napoléon cùng với quân đội rút về sông Rhine. Tổng số thiệt hai của quân Pháp, từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 10 ít nhất là 6 vạn rưỡi người và quân Liên Minh cũng đã mất vào khoảng 6 vạn. Nhiều ngày sau đó ở những vùng lân cận thành phố Leipzig còn vang lên những tiếng kêu ghê rợn của những binh sĩ bị thương nặng, và mùi hôi thối không thể chịu nổi của những xác chết đã rữa xông lên ngột ngạt khắp vùng. Không có người để thu dọn chiến trường, không có nhân viên y tế để cứu chữa các thương binh và những người bị què cụt.

4

Từ Leipzig, Napoléon lui về tận biên giới nước Pháp, về đến tận tuyến sông Rhine, nghĩa là tuyến ngăn đôi nước Pháp và đế quốc Đức trước khi có những cuộc xâm lược của Napoléon. Xung quanh nhân vật Napoléon nền hội họa Pháp đã nhiều lần gợi lại cái giờ phút báo ứng ấy của định mệnh và những biến cố xảy ra đầu năm 1814. Nét bút thiên tài của Meissonier đã nắm được tâm trạng của Napoléon: Ông miêu tả Napoléon ngồi trên mình ngựa đi bước một giữa những người lính già và hướng cặp mắt buồn rượi nhằm vào một vật vô hình đằng trước họ. Vào cuối tháng 10 ấy và trong những ngày đầu tháng 11 năm 1813, tức là vào giữa giai đoạn cuối của chiến dịch Saxony và giai đoạn đầu của chiến dịch Pháp, một cuộc đấu tranh khủng khiếp và chắc chắn là đau xót đã diễn trong tâm can của con người đó, cuộc đấu tranh mà Napoléon không hề nói với một ai trong đám tuỳ tùng đi giữa hàng quân thưa thớt của đội cựu cận vệ kỵ binh nhưng nó đã hiện rõ trên nét mặt nghiêm nghị và cặp mắt ủ dột của ông ta. Lần đầu tiên, Napoléon buộc phải hiểu rằng đại đế quốc đã sụp đổ: Cái khối những quốc gia và dân tộc không đồng nhất, tạp nham, mà Napoléon đã cố công gắng sức nhào nặn thành một quốc gia độc nhất bằng thép và lửa trong bao nhiêu năm, nay đang rã rời nát vụn. Murat, người Thống Chế, người chỉ huy kỵ binh của ông, người anh hùng của biết bao chiến trận, người được ông phong cho làm vua xứ Naples nay lìa bỏ ông. Murat bỏ đi, và Napoléon biết Murat ra đi là để phản bội ông, biết Murat đã bí mật đứng về phía quân Liên Minh để giữ lấy ngai vàng. Anh Napoléon là Joseph bị quân Anh và nghĩa quân Tây Ban Nha đuổi ra khỏi bán đảo Tây Ban Nha. Em là Jérôme, vua xứ Westphalia đã trốn khỏi Kassel. Davout bị quân Nga và Quân Phổ bao vây ở Hamburg. Nền thống trị của nước Pháp ở Hà Lan đang lung lay nghiêng ngửa. Nước Anh, nước Nga, nước Áo, nước Phổ chưa dồn được nước Pháp trở về biên giới cũ thì còn chưa chịu. Đại đế quốc, sự nghiệp của Napoléon, đã đến giờ chót: Nó đang tan rã ở khắp mọi nơi. Napoléon hãy còn 10 vạn quân, trong đó 4 vạn sẵn sàng chiến đấu được. Chỉ phải trang bị và tổ chức biên chế số quân còn lại. Ông cũng còn một số quân đóng đồn ở Danzig, Hamburg và rải rác trong các vùng của Châu Âu còn trung thành với đế chế, tổng số khoảng từ 15 đến 18 vạn quân. Những tân binh thuộc lớp năm 1815, đã gọi nhập ngũ năm 1813, đang được huấn luyện cấp tốc ở trong các trại lính. Napoléon vẫn chưa chịu giảng hòa. Ông ta còn nghĩ đến giai đoạn chiến đấu mới, và khi ông ta nói với các Thống Chế để phá vỡ sự yên lặng não nề của mình thì đó chỉ là để ra các lệnh mới. Hồi này, Napoléon quyết định đưa Giáo Hoàng về La Mã, cho Ferdinand, vua nước Tây Ban Nha, bị cầm tù từ năm năm nay được trở về nước. Đã phải tổn thất 12 vạn rưỡi người của cả hai bên ở Leipzig và nhất là đã phải có cuộc rút lui sau lần tàn sát rùng rợn như vậy, Napoléon mới hiểu được rằng một trận đánh lớn không thể cứu vãn tất cả những gì đã xảy ra, không thể xoá nhòa hình ảnh Borodino, đám cháy thành Moscow, đại quân bị chôn vùi trong tuyết, sự phản bội của nước Phổ, nước Áo, xứ Saxony, xứ Bavaria, vương quốc Westphalia, không thể thanh toán những hậu quả của trận Leipzig, không thể giải quyết cuộc chiến tranh mà nhân dân Tây Ban Nha đang đương đầu, và đánh bật Wellington cùng quân Anh ra biển. Mãi đến tận tháng 6, tháng 8, tháng của cái năm 1813 khủng khiếp ấy, khi hỏi Metternich đã nhận bao nhiêu tiền của người Anh, Napoléon vẫn còn có thể giậm chân, đùng đùng nạt nộ, lăng mạ Hoàng Đế Áo Francis, khiêu khích nước Áo, phá vỡ các cuộc đàm phán hòa bình, chỉ nghĩ đến phải nhượng lại miền Illyria ở phía Nam hoặc những thành phố đồng minh thương nghiệp ở miền Tây Bắc nước Đức mà đã nổi khùng lên; Napoléon vẫn có thể tiếp tục thiêu đốt hàng hoá Anh bị tịch thu, bắn giết những Thượng Nghị Sĩ của thành phố Hamburg, nói tóm lại là Napoléon vẫn có thể tiếp tục xử sự tuồng như năm 1812 ông ta đã chiến thắng quân Nga trở về, và tuồng như vào năm 1813 vấn đề chỉ là trừng phạt nước Phổ dấy nghĩa. Nhưng sau trận Leipzig, khi về đến gần biên giới nước Pháp cũ, đằng sau là quân địch đông như kiến cỏ đang bám gót, Napoléon thấy cần phải xét lại tất cả tư tưởng chính trị của mình. Nước Pháp đang bị đe dọa xâm lược, phải bảo vệ lấy lãnh thổ của nó. Trước khi tới sông Rhine, ngày 30 tháng 10, ở Hanau, Napoléon còn phải dùng vũ khí với người Bavaria và người Áo, trước đây là đồng minh với ông, để mở đường máu, và ngày 2 tháng 11 năm 1813 khi tới Mainz ông Hoàng Đế chỉ còn 4 vạn quân có thể chiến đấu được. Theo sau họ là một bầy người bị tước mất vũ khí, kiệt sức và ốm yếu ùa vào thành phố, họ là những người không đáng kể đến nữa, mặc dầu họ vẫn có tên trong những bản báo cáo thực lực quân số. Trung tuần tháng 11, Napoléon về tới Paris. Chiến dịch năm 1813 kết thúc, chiến dịch năm 1814 bắt đầu. Liếc nhìn qua sổ tổng kê, có thể nhận thấy ngay được rằng ngoài nửa triệu người mất trong năm 1812 (con số ước lượng), nước Pháp còn mất thêm hàng chục vạn người nữa do cuộc trưng binh cướp đi và bị tiêu diệt trong năm 1813. Nhưng chiến tranh còn tàn phá ác liệt hơn bao giờ hết, và đại bác đã gầm rú ở biên giới nước Pháp. Nước Pháp đang chịu đựng một cuộc khủng hoảng kinh tế mới, giống như cuộc khủng hoảng mà cái đế quốc ấy đã trải qua vào nửa đầu năm 1813. Nhưng lần này, vấn đề không phải là cứu vãn một phần thất nghiệp bằng tiền trợ cấp của Nhà Nước nữa và tuyệt không có hy vọng gì chấm dứt ngay được nó. Năm 1813, trong khi Napoléon đang chiến đấu ở Đức thì cảnh binh Parat đã bắt đầu để ý và ghi vào các bản báo cáo sự tái phát của một hiện tượng mà đúng là người ta đã nói đến một cách rất bí mật vào năm 1811: Thợ thuyền công khai bàn tán, biểu thị sự bất bình và bắt đầu nói những “lời lẽ phá hoại”. Còng lưng quá lâu dưới bàn tay sắt của nền chuyên chế quân phiệt và trong hơn 18 năm trời (kể từ Tháng Nảy Mầm và Tháng Đồng Cỏ năm 1795) không mưu đồ được một hoạt động có tổ chức nào, dưới sự thôi thúc ngày càng mạnh của túng thiếu và thất nghiệp, các vùng ngoại ô thợ thuyền bắt đầu lên tiếng kêu ca phàn nàn. Nhưng điều đó không thể dẫn đến một cuộc bạo động làm sống lại dù chỉ là một chút các cuộc bạo động Tháng Nảy Mầm và Tháng Đồng Cỏ trước đây, cũng không thể dẫn đến những cuộc biểu tình lớn. Và như vậy, không phải chỉ bởi công tác do thám đã được nâng lên tới mức hoàn thiện nhất dưới thời Fouché, và nay, dưới thới Savary - công tước xứ Rovigo thừa kế - vẫn giữ được nếp cũ; cũng không phải vì bọn cảnh binh đông nhung nhúc và bọn lính tuần tra ngày đêm cưỡi ngựa dạo khắp thành phố, lượn đi lượn lại qua những vùng ngoại ô Saint Antoine, Saint Marceau, qua khu phố Tu Viện Cũ, đường phố Molfetta; càng không phải vì quần chúng thợ thuyền không đắng cay cơ cực và không bừng bừng phẫn nộ chính quyền. Những điều đó đang diễn ra, Napoléon là kẻ sửa đổi cuốn “tiểu bạ công nhân”, tiểu bạ ấy đặt người lao động vào vị trí hoàn toàn lệ thuộc và giao phó hẳn họ cho chủ tha hồ sử dụng; hàng năm trong khi đòi hỏi thuế máu, ban đầu thì Napoléon đã tuyển những tân binh đến tuổi trưởng thành, nhưng giờ đây Napoléon cướp đoạt những đưa trẻ tuổi 18 và đã dùng hàng chục vạn đứa để bón cho những cánh đồng xa xăm của những lò sát sinh rải rác khắp nơi trên thế giới. Napoléon, kẻ đã cướp hết của thợ thuyền mọi phương tiện để chống trả với sự bóc lột của bọn chủ, không có lý gì để trông cậy vào sự ủng hộ của các tầng lớp lao động. Nhưng bây giờ đây, cũng như vào những ngày đầu của cách mạng, khi quân thù đang tiến đến gần biên giới, và khi những kẻ xâm lược đang rắp tâm khôi phục nền thống trị của bọn quý tộc và đặt lại dòng họ Bourbon lên ngai vàng thì giới thợ thuyền hoang mang và lưỡng lự. Hình ảnh đẫm máu của kẻ chuyên chế tham quyền cố vị bỗng chốc bị xoá nhòa: Họ lại thấy xuất hiện trên sân khấu một bầy Bảo Hoàng gian manh đê tiện cũ - những tên phản bội lưu vong. Lại một lần nữa bè lũ ấy chống lại nước Pháp, chống lại Paris, và đang còn ẩn núp sau lưng quân đội nước ngoài, bọn chúng đã mơ tưởng đến sự phục hưng trật tự xã hội cũ và xoá bỏ tất cả những thành tựu của cách mạng. Làm gì đây? Nổi dậy ở hậu phương của Napoléon, và như vậy, tạo điều kiện cho quân thù dễ dàng chinh phục nước Pháp và phục hưng lại dòng họ Bourbon chăng? Quần chúng thợ thuyền đã không nổi dậy vào cuối năm 1813 và đầu năm 1814 mặc dầu trong suốt triều đại Napoléon, họ đã đau khổ hơn bao giờ hết. Tâm trạng của giai cấp tư sản lại hoàn toàn khác. Đa số các nhà công nghiệp vẫn ủng hộ Napoléon. Bọn họ biết rõ hơn ai hết rằng nước Anh đang muốn gì và mong đợi gì, và họ sẽ gặp biết bao nhiêu khó khăn trong việc cạnh tranh với nước Anh ở ngoài nước cũng như ở trong nước nếu Napoléon bị thua. Giới thương mại lớn, giới tài chính, giới buôn bán chứng khoán than phiền từ lâu rằng không thể sống và làm việc trong thời chiến tranh liên miên và dưới chế độ độc tài đã được xây dựng thành một chính thể. Từ lâu, thị trường ngoài nước đã bắt đầu giảm sút ghê gớm; bây giờ thị trường trong nước cũng vừa bị thu hẹp lại không kém. Một hiện tượng đã được nhiều nhà quan sát lưu ý: “Có tiền nhưng không biết nó chạy đi đâu mất”. Bọn người làm giàu bằng chạy môi giới trăm công nghìn việc không hy vọng chiến tranh chấm dứt chừng nào Napoléon còn trị vì; sau thảm họa của đại quân ở nước Nga, nhất là sau Hội Nghị Prague tan vỡ và sau trận Leipzig, họ tin chắc rằng Hoàng Đế không sao tránh khỏi bị thất bại và như vậy là chẳng có sự ổn định tối thiểu nào về tài chính, chẳng có việc mở rộng quan hệ thương mại, việc nhận đơn bán hàng hay đặt đơn quan hệ thương mại, việc nhận đơn bán hàng hay đặt đơn mua hàng quan trọng. Bộ phận rất đáng kể ấy của giai cấp tư sản đã nóng lòng sốt ruột, đắng cay, chán chường, tức giận: Họ nhanh chóng tách khỏi Napoléon. Tuy Napoléon đã làm cho các làng mạc Pháp bị kiệt quệ vì những đợt trưng binh liên tiếp, không ngừng không dứt, cũng vì những sự bòn rút của cải, nhưng quần chúng nông dân có ruộng đất (trừ nông dân ở Vendée) lại còn sợ những sự thay đổi về chính trị do cuộc xâm lược đem đến hơn. Đối với đông đảo quần chúng trong giai cấp nông dân, dòng họ Bourbon là tượng trưng của sự phục hưng chế độ phong kiến, với quyền lực của bọn lãnh chúa về con người và ruộng đất, là tượng trưng của sự tước đoạt lại những tài sản của Giáo Hội cũng như những đất đai tịch thu của bọn lưu vong đã đem phân tán bán cho tư sản và nông dân trong thời kỳ Cách Mạng. Mối lo sợ bị mất những quyền lợi đã phải khó khăn lắm mới giành được ấy, cũng như quyền sở hữu hoàn toàn những mảnh đất của mình đã buộc người nông dân phải chịu đựng tất cả những hậu quả của đường lối đối ngoại xâm lược và cướp bóc của Napoléon. Nhưng dù sao, Napoléon cũng còn dễ chịu hơn chế độ phong kiến cổ xưa do dòng họ Bourbon phục hồi. Cuối cùng là tầng lớp quý tộc cũ và mới không đông lắm nhưng có thế lực. Quý tộc cũ và ngay cả số người trong bọn họ đã từng phụng sự Napoléon vẫn thấy gần dòng họ Bourbon hơn chính Napoléon. Không phải tất cả quý tộc mới gồm các Thống Chế, công hầu, bá tử của đế chế, đã được chính tay Hoàng Đế chồng chất cho vàng bạc và ân huệ, đều là chỗ dựa cho Hoàng Đế. Họ thèm khát hưởng thụ những nguồn của cải cải vô tận của họ như bọn quý tộc chính cống: Sống trong danh giá và tiện nghi, xếp những chiến công còn mới tinh của họ vào thế giới ký ức xa xưa. Có lần nổi nóng, Hoàng Đế đã nói: “Thưa các ngài, tôi thấy rõ là các ngài không muốn chiến tranh nữa! Berthier muốn đi săn ở lâu đài Grosbois, Rapp muốn chui vào ngôi biệt thự đẹp đẽ ở Paris”. “Tâu Hoàng Thượng, hạ thần cũng bằng lòng như vậy... thú vui của thủ đô, hạ thần được nếm quá ít”. Rapp đã chua chát đáp lại. Cuộc đời nơi đồn ải, giữa muôn vàn nguy hiểm, dưới làn lửa đạn, canh bạc lớn và thường xuyên với thần chết ấy đã làm mệt mỏi và kiệt sức những người dũng cảm và kiên quyết nhất như MacDonald, Ney, Augereau, Sébastiani, Victor, những người tận tụy nhất như Caulaincourt và Savary, đến nỗi họ bắt đầu lắng nghe những lời bóng gió của Talleyrand và của Fouché, những kẻ đã bí mật mưu mô phản bội từ lâu. Sau khi thất bại ở Leipzig ngày 16, 19 tháng 10 năm 1813, một chiến dịch mùa xuân khởi đầu rực rỡ là thế nhưng Napoléon trở lại Paris để xây dựng lại lực lượng nhằm đương đầu với cuộc xâm lược đang ào ào tràn vào nước Pháp thì tình hình và tình trạng tư tưởng của các tầng lớp và các giai cấp là như vậy.

5

“Ta đi đánh ông ngoại Francis đi”, chú vua nhỏ thành Roma nói như vậy, nó lặp lại với vẻ nghiêm trang của một đứa bé lên ba những lời của người cha rất yêu con đã dạy cho. Ông Hoàng Đế phá lên cười khi nghe thằng bé nhắc lại như một con vẹt câu nói mà nó không hiểu nghĩa. Giữa khi đó, khi quân đội của mình càng tiến đến gần sông Rhine thì ông ngoại Francis càng tỏ ra do dự, và đó cũng là tâm trạng của Metternich, quân sư của Hoàng Đế Francis. Chắc hẳn sự do dự ấy không phải vì những mối quan hệ họ hàng: Napoléon là con rể của Hoàng Đế Áo, và người kế nghiệp Napoléon là cháu của Francis đệ nhất. Những nguyên nhân khác buộc đường lối ngoại giao của Áo phải tính toán kết quả mong muốn trong cuộc chiến tranh này theo một quan điểm kém dứt khoát hơn nhiều so với người Anh chẳng hạn, hoặc so với Aleksandr đệ nhất, hoặc so với vua Phổ Frederick Wilhelm đệ tam. Đối với người Anh, Napoléon là kẻ thù không đội trời chung và nguy hiểm nhất của sự bành trướng thế lực Anh, mà họ đã vấp phải sau mười lăm thế kỷ lịch sử. Chừng nào Napoléon còn trị vì thì không thể có hòa bình lâu dài giữa nước Pháp và nước Anh. Aleksandr cần rửa mối nhục cá nhân và nhất là nhìn thấy ở Napoléon, một viên thủ lĩnh duy nhất có khả năng phục hưng nước Ba Lan khi gặp thời cơ. Và Nga Hoàng biết chắc rằng nếu Napoléon còn ở trên ngai thì ắt ông ta sẽ tìm những biện pháp quân sự và ngoại giao để giáng cho các kẻ thù của ông ta những đòn trí mạng. Frederick Wilhelm đệ tam - bị bức phải chống lại Napoléon vào tháng 3 năm 1813, và từ đó cho tới trận Leipzig vẫn còn chết khiếp, theo đúng nghĩa của từ ấy - còn bị lý do ấy thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa. Ông ta công kích kịch liệt Aleksandr, nhất là sau những vố thất bại, sau trận Lützen, Bautzen, Dresden: “Phen này tôi lại ở trên sông Vistula đây!” Frederick Wilhelm nhắc lại một cách tuyệt vọng. Cả đến trận thắng ở Leipzig cũng không làm Frederick Wilhelm yên lòng thêm mấy. Vào thời ấy, đứng trước Napoléon, người ta sợ hãi khủng khiếp gần như sợ hãi thần linh, và đó đã là hiện tượng phổ biến. Cho đến sau trận Leipzig, sau khi Napoléon đã mất hết các đất đai đã chinh phục được, chỉ còn lại cái hậu phương là nước Pháp kiệt quệ, với tình hình dân chúng xôn xao, mà hình như Napoléon vẫn còn đáng sợ, đến nỗi Frederick Wilhelm không thể không hãi hùng nghĩ đến mai này khi chiến tranh kết thúc và khi các bạn Liên Minh đã rút đi hết thì ông ta, vua nước Phổ, sẽ còn phải chịu đựng cái cảnh láng giềng với một kẻ là Napoléon. Nước Anh, Aleksandr và Frederick Wilhelm cho rằng nếu lần này phe Liên Minh vẫn để Napoléon ngồi trên ngai vàng thì bao nhiêu máu đã đổ ra trong những năm 1812 và 1813 đã uổng phí, nhưng nước Áo lại không thấy như vậy. Metternich muốn rằng nước Nga có một đối thủ đáng kể ở phía Tây; muốn rằng sau khi không còn là kẻ thù đáng sợ của nước Áo nữa thì Napoléon vẫn còn tồn tại ở Châu Âu, với tư cách là đồng minh về mọi mặt của một nền quân chủ của dòng họ Habsburg, để luôn luôn là vật chướng ngại lớn cho nước Nga. Metternich và Francis đệ nhất lại cố gắng dàn xếp với Napoléon, vì vị thượng thư ấy, con người thạo ngón dọa dẫm quân Liên Minh bằng cách đe rút nước Áo ra khỏi Liên Minh, đã lại buộc được nước Anh, nước Nga và nước Phổ ưng thuận đề nghị đàm phán hòa bình với Napoléon một lần cuối cùng theo những điều kiện sau đây: Napoléon sẽ phải chấm dứt chiến tranh bằng cách từ bỏ các đất đai đã chiếm được mà hiện nay đã bị mất; Napoléon sẽ còn lại nước Pháp với những đường biên giới không thay đổi mấy so với biên giới của nước Pháp đã được Hòa Ước Luneville quy định năm 1801. Các vua chúa phe Liên Minh đã có mặt ở Frankfurt. Metternich đã mời Saint Aignan, nguyên đại sứ Pháp ở Weimar hiện đang bị giữ ở Frankfurt và trước mặt thượng nghị sĩ Aberdeen đại diện cho nước Anh, Nesselrode, đại diện cho nước Nga (Nesselrode tuyên bố mình thay mặt cả Hardenberg, tể tướng nước Phổ), người ta đã giao cho nhà ngoại giao Pháp nhiệm vụ đi gặp Napoléon để chuyển những đề nghị của các cường quốc Liên Minh. Khi ký kết nó thì Hòa Ước Luneville đã là kết quả của một cuộc chiến tranh thắng lợi. Cho nên Napoléon vẫn còn lại cái đại cường quốc mà ông ta đã lập nên năm 1801 sau trận Marengo và Hohenlinden. Đang đứng chông chênh trên bờ vực thẳm - sau những tai họa khủng khiếp năn 1812 và 1813, trước nguy cơ nước Pháp bị quân Liên Minh tức thời xâm lược - thì gặp vận may cứu mạng không ngờ. Napoléon vẫn là chủ một cường quốc đứng vào bậc nhất. Ngày 14 tháng 11 năm 1813, Saint Aignan đã đến Paris với những điều kiện của Liên Minh. Napoléon không muốn bày tỏ ý kiến ngay vì đang lao vào hoạt động sôi sục và cuồng nhiệt nhất: Tuyển mộ các lớp quân dịch mới, chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc chiến tranh mới. Tuy vậy, Napoléon đã ưng thuận đàm phán một cách bất đắc dĩ và dè dặt, đồng thời tiến hành ráo riết hơn nữa việc tổ chức quân đội. “Rồi khắc biết! Rồi khắc biết!” Trong khi rảo bước đi đi lại lại trong phòng, Napoléon nói chung cũng như vậy chẳng nhằm vào ai, “không lâu đâu rồi các ngài sẽ biết rằng binh lính của tôi và tôi không quên nghề nghiệp! Người ta đã đánh bại chúng tôi ở sông Rhine và sông Elbe, đánh bại bằng cách phản bội... nhưng rồi sẽ không có những kẻ phản bội ở giữa sông Rhine và Paris đâu “. Những lời ấy bay khắp nước Pháp, bay khắp Châu Âu. Trong số những người am hiểu Napoléon, không một ai tin rằng đề nghị hòa bình của phe Liên Minh đạt được kết quả. Ngày ngày, những đoàn quân mới tiến về phía Đông, về phía sông Rhine diễu qua con mắt theo dõi chăm chú của ông Hoàng Đế. Tấn thảm kịch lớn đã sắp tới ngày kết thúc.