NHÀ TÂY SƠN VỚI LỊCH SỬ ĐƯỢC BIÊN CHÉP BẰNG NGÔN NGỮ PHƯƠNG TÂY
Năm 1971, trong một công trình nghiên cứu mở đường cho lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX có tên Việt Nam và mô hình Trung Hoa , Alexander Woodside lập luận rằng: “lịch sử cận đại Việt Nam mở ra với cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn*”. Cho dù nhận định này chứa đựng sự thật, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn vẫn còn là một khoảng trống trong giới học thuật phương Tây, vốn đã thất bại trong việc xử trí những vấn đề phức tạp ở thời kỳ này. Chẳng hạn như tác phẩm của Alexander Woodside, cho dù trong lời tựa công nhận tầm quan trọng của nhà Tây Sơn, cũng chỉ bắt đầu phần tường thuật sau sự thất bại của nhà Tây Sơn, miêu tả cách mà triều Nguyễn đã áp dụng để triển khai các định chế chính trị và hành chánh trong nửa đầu thế kỷ XIX*. Năm 1971 cũng chứng kiến sự ra đời của một công trình tiên phong khác về lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX, đó là tác phẩm Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925 (Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân, 1885- 1925) của David Marr đề cập đến dòng lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, khi Việt Nam chịu chấp nhận qui chế thuộc địa xứ bảo hộ của Pháp*. Một thập kỷ sau, với tác phẩm Vietnamese Tradition on Trial (Truyền thống Việt Nam trong cơn thử thách), David Marr đưa câu chuyện trở về giữa thế kỷ XX, miêu tả thời kỳ đỉnh cao của chế độ thực dân Pháp từ năm 1920 đến năm 1945*. Trong mỗi công trình còn phôi thai của giới nghiên cứu bằng ngôn ngữ Anh, thời kỳ Tây Sơn lẩn khuất ở phía sau, được công nhận do ý nghĩa về mặt lịch sử hay biên chép sử, nhưng không nhất thiết được bàn đến.
Giới học thuật viết bằng tiếng Anh gần đây tiếp tục khuynh hướng nghiên cứu những sự kiện diễn ra trước và sau thời kỳ Tây Sơn, cho dù nhiều tác phẩm cuối cùng cũng đề cập trực tiếp đến ít nhất vài yếu tố của thời kỳ này. Đáng chú ý nhất là Li Tana, tác giả của Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries (Chúa Nguyễn ở Đàng Trong: Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII) (1998) tiếp cận với thời kỳ Tây Sơn từ thế kỷ XVII bằng việc khảo sát sự hình thành một chính quyền nhà Nguyễn ở Đàng Trong*. Bà đã dành trọn một chương cho những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy, đánh dấu một công trình nghiên cứu chi tiết bằng tiếng Anh về nhà Tây Sơn, và điều quan trọng là bà đã đặt cuộc nổi dậy này trong khuôn khổ nguồn gốc địa lý và xã hội-chính trị của nó ở Đàng Trong. Li Tana lập luận rằng, đó không phải là một “phong trào nông dân” do những nông dân Việt ở vùng đồng bằng phát động, mà đúng hơn là một “cuộc nổi dậy ở tỉnh thành”, tiêu biểu bởi sự tham gia của những nhóm người bất mãn ở vùng cao*. Bà chỉ tường thuật những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy và vì thế đã nêu bật nhà Tây Sơn như một hiện tượng cục bộ, nhưng đã không đề cập đến bản chất của phong trào khi nó bành trướng ra khỏi điểm khởi nguyên của nó. Như tôi sẽ phát biểu về sau, một khi cuộc nổi dậy vượt ra ngoài cội rễ Qui Nhơn, quá trình diễn biến của nó về cơ bản sẽ chuyển qua một thế giới rộng lớn hơn của xã hội và hoạt động chính trị Đại Việt, và nó trở nên lớn mạnh hơn một cuộc nổi dậy ở tỉnh thành về cả tầm vóc lẫn ảnh hưởng.
Một nghiên cứu mới đây cũng có liên quan đến nhà Tây Sơn, mặc dù vẫn còn có tính hạn chế. Tác phẩm của Choi Byung Wook có nhan đề Southern Vietnam under the reign of Minh Mạng (1820-1841): Central Policiesand Local Response (2004) (Nam kỳ dưới triều Minh Mạng (1820-1841): Các chính sách của trung ương và phản ứng của địa phương), cũng giống như nghiên cứu trước đó của Alexander Woodside, chỉ nhắm vào thời kỳ đầu của nhà Nguyễn. Choi Byung Wook mở đầu nghiên cứu của ông bằng cách nhắm vào cuối thế kỷ XVIII và khảo sát sự hình thành của một tổ chức chính quyền ở Gia Định trong thời gian xảy ra cuộc chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn. Tuy nhiên, ông đã không chứ trọng đến nhà Tây Sơn, mà chú trọng đến đối thủ của Tây Sơn là nhà Nguyễn và những người kế tục, đã thành lập một liên minh chống Tây Sơn bên trong vương quốc không đồng nhất ở phía nam Đàng Trong.
Hai công trình nghiên cứu khác bằng tiếng Anh cũng đề cập đến phong trào Tây Sơn. Đó là Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino-Vietnamese Relationship (Hawa’i, 2005) (Bên kia đồng trụ: Thi sứ và mối quan hệ Trung-Việt) của Liam Kelley, bao gồm thời đại Tây Sơn và một số danh sĩ, như một phần của một cuộc nghiên cứu rộng rãi nhằm khảo sát cái thế giới tư tưởng lớn lao hơn của vùng Đông Á tìm thấy trong thi ca Việt. Bài nghị luận mới đây của Wynn Wilcox nhan đề “Allegories of Vietnam: Transculturation and the Origin Myths of Franco-Vietnamese Relations” (Cornell, 2002) (Chuyện ngụ ngôn ở Việt Nam: Sự chuyển đổi văn hóa và những huyền thoại khỏi đầu của mối quan hệ Pháp-Việt), là một nghiên cứu sử học nhìn trực tiếp về thời kỳ Tây Sơn, sử dụng nó như một lăng kính dùng để khảo sát mối quan hệ giữa chúa Nguyên Ánh và các giáo sĩ châu Âu đã ủng hộ ông. Tuy nhiên, Wilcox ít chú trọng đến những biến động của thời kỳ Tây-Sơn, mà quan tâm nhiều hơn đến sự xuất hiện về sau của những nhân vật lịch sử quan trọng. Trong lúc cả hai công trình nghiên cứu này có tính cách quan trọng khi quan tâm nhiều hơn vào những vấn đề ở cuối thế kỷ XVIII, chúng lại không dành sự quan tâm đặc biệt cho sự nổi dậy của nhà Tây Sơn và mối quan hệ lớn lao hơn của nó trong xã hội Đại Việt.
Đáng ngạc nhiên hơn, và với một vài ngoại lệ, các công trình nghiên cứu bằng tiếng Pháp về thơi kỳ tiền thuộc địa của Việt Nam cũng có khuynh hướng xem nhẹ nhà Tây Sơn như thế. Một nghiên cứu của Charles Maybon vào năm 1919 với nhan đề Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820) (Lịch sử cận đại xứ An Nam, 1592-1820) dành nhiều chương cho thời kỳ Tây Sơn, cho dù có một cái nhìn riêng biệt về nhà Nguyễn, và một điều không làm ai ngạc nhiên, là ông nhấn mạnh nhiều đến vai trò của người Pháp*. Năm 1955, Lê Thành Khôi xuất bản Le Vietnam: Histoire et civilisation (Việt Nam: Lịch sử và nền văn minh), đưa ra một phân tích chấp nhận được về thời kỳ Tây Sơn trong khuôn khổ một quyển sách giáo khoa về lịch sử Việt Nam*. Ông Khôi miêu tả những chuyển đổi về kinh tế và xã hội gây nên tình trạng bất ổn phổ biến ở cả hai miền của đất nước và rồi đưa ra một bản mô tả có cân nhắc về cuộc nổi dậy và sự sụp đổ sau cùng của chế độ Tây Sơn. Khi chỉnh sửa lại cuốn Histoire du Vietnam (1983,1992) (Lịch sử Việt Nam), trong phần tóm lược về cuộc nổi dậy, ông Khôi vẫn giữ lại phần kể về những diễn biến của nó và những động lực làm thay đổi những diễn biến đó. Tác phẩm nghiên cứu bằng tiếng Pháp gần đây của Philippe Langlet nhan đề L’ancienne Historiographie d’état au Vietnam (1990) (Phép chép sử ở Việt Nam khi xưa) tuy chủ yếu là một nghiên cứu tỉ mỉ về dự án chép sử nhà Nguyễn thế kỷ XIX, cũng quan tâm đến quan điểm của nhà Nguyễn đối với những người đi trước họ, bao gồm nhà Tây Sơn và nhà Lê*. Langlet chứng minh rằng, các sử quan nhà Nguyễn đã phải đánh vật với vấn nạn làm thế nào để miêu tả chân dung nhà Tây Sơn, đồng thời tìm cách củng cố tính hợp pháp của chính họ đã bị làm vẩn đục bằng con đường nắm quyền lực không chính quy của họ. Cuối cùng là Yang Baoyun với chuyên khảo năm 1992 với nhan đề Contribution à Vhistoire de la principauté des Nguyễn au Vietnam méridional (1600- 1775) (Sự đóng góp vào lịch sử của vương quốc các chúa Nguyễn tại Đàng Trong, 1600-1775) là một ví dụ khác về một nghiên cứu gần đây đã tiếp cận nhưng không đề cập trực tiếp đến nhà Tây Sơn.
Như nhan đề đã gợi ra, tác phẩm của Yang ngưng ngay khi nhà Tây Sơn bắt đầu nổi dậy, và chỉ báo trước một cách vắn tắt những gì tiếp theo sau*. Theo cách này, phong trào Tây Sơn đã được các tác phẩm nghiên cứu quan trọng bằng tiếng Anh trình bày một cách rành mạch theo thứ tự thời gian và được khảo sát tương đối chi tiết hơn bằng tiếng Pháp, trong khi phần lớn giới học giả sử dụng ngôn ngữ châu Âu đã không có những nghiên cứu tỉ mỉ về phong trào.
Trên một vài phương diện, phong trào đã không đương cự nổi trước những nỗ lực có hệ thống của nhà Nguyễn nhằm xóa sạch - trong chừng mực có thể - những dấu vết của chế độ Tây Sơn*. Như David Marr đã chỉ ra: “triều Nguyễn cấm các sử gia của họ thuật lại những gì thuộc về triều đại ngắn ngủi của nhà Tây Sơn (1788-1802), thông thường đó là lề thói hàng ngày nhằm bảo tồn cho hậu thế tính liên tục thời gian từ một quá khứ xa xôi*”. Tất nhiên là sự cấm đoán này khiến cho việc nghiên cứu về thời kỳ Tây Sơn trở nên khó khăn hơn so với những thời kỳ trước và sau đó, là những thời kỳ mà các tư liệu lịch sử được biên soạn nhiều hơn và tồn tại lâu hơn. Sự thống trách cũng có thể diễn ra trước ngưỡng cửa của thời kỳ thuộc địa hóa, là thời kỳ lôi cuốn sự chú ý của giới học thuật nhiều hơn, một phần do nó kết nối trực tiếp Việt Nam với thế giới châu Âu, và tất nhiên, một phần nó được xem là khúc dạo đầu gần gũi nhất dẫn đến cuộc cách mạng bi thảm và những cuộc chiến ở thế kỷ XX. Dù với lý do nào, nước Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII cũng là một vùng đất chưa được khai phá hết của các nhà học thuật phương Tây.