NGUỒN TƯ LIỆU VÀ ĐỐI TUỢNG NGHIÊN CỨU
Công trình nghiên cứu này dựa vào nhiều nguồn tư liệu, bao gồm tư liệu từ văn khố và tư liệu in tại Việt Nam và châu Âu. Tôi dựa nhiều vào các tư liệu Việt Nam cùng thời với nhà Tây Sơn và các biên niên sử của triều đình nhà Nguyễn vào cuối thế kỷ XIX để có những phác thảo rõ ràng về cuộc nổi dậy và những biến động quan trọng do nó gây nên. Tôi bổ sung những tư liệu này bằng việc đọc nhiều bài viết của các chứng nhân là các giáo sĩ người châu Âu (chủ yếu là người Pháp), những người đã trải qua các biến động vào thời kỳ này. Các bài tường thuật của những giáo sĩ này đặc biệt có giá trị trong việc cung cấp một cái nhìn ở cấp làng xã về những biến động thường chỉ được biên niên sử Việt Nam miêu tả một cách sơ lược. Dù nguồn tư liệu châu Âu có một khuynh hương riêng và phản ánh cái ưu thế của người đứng ngoài cuộc, nhiều giáo sĩ là những người cư trú lâu năm ở Đại Việt, nói được tiếng Việt và có một cảm nhận đặc biệt rõ ràng về sự phát triển chính trị ở cả cấp làng xã lẫn cấp quốc gia. Những tư liệu của các giáo sĩ đặc biệt giúp tôi viết ra một tác phẩm tương đối chi tiết về ảnh hưởng của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đối với người Việt bình thường, cùng với phản ứng của họ.
Soạn thảo dựa vào những nguồn tư liệu như thế, công trình nghiên cứu này không thừa nhận những miêu tả về nhà Tây Sơn bằng cách cho rằng cuộc nổi dậy và chính thể mà nó tạo ra có một cấu trúc thật phức tạp và nhiều thành phần tham gia, thường những mục tiêu mâu thuẫn nhau không cho phép giải thích một cách quá đơn giản như các nhà sử học từ trước tới nay thường làm.
Cuộc nổi dậy, về sau biến thể thành một loạt những chế độ chính trị, chẳng những cố liên hệ đến giới nông dân, mà còn với nhiều nhóm chính trị và xã hội khác, mỗi nhóm chịu ảnh hưởng sâu sắc, trên một phương diện nào đó, bởi những sự kiện đã diễn ra từ mùa xuân năm 1773. Điều mà tôi muốn nói ra ở đây là cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn không chỉ có liên quan đến người nông dân mà còn nhắm đến sự tham gia của họ trong suốt một quá trình dài. Thật vậy, chính những người lãnh đạo phong trào, tức ba anh em nhà Tây Sơn, không đơn thuần là nông dân hay ngươi làm nông, cho dù họ thường lặp đi lặp lại rằng họ có gốc nông dân. Đúng hơn là nên coi họ thuộc về tầng lớp quý tộc nhỏ ở nông thôn, với người lớn tuổi nhất là Nguyễn Nhạc vốn là một người buôn bán trầu cau kiêm nghề thu thuế theo thời vụ cho triều đình nhà Nguyễn. Hơn thế nữa, cả ba anh em nhận được sự giáo huấn đáng kể của một bậc thức giả khả kính đã xa lánh khỏi những cuộc tranh chấp nội bộ trong triều đình nhà Nguyễn, về sau là người cổ vũ cho anh em Tây Sơn tiến hành cuộc nổi dậy. Lai lịch anh em nhà Tây Sơn cho thấy rõ rằng, trong lúc dựa vào người nông dân để bổ khuyết quân đội của họ và để ý đến một vài mối quan tâm của người nông dân, bản thân họ không phải là nông dân.
Khi cuộc nổi dậy bắt đầu, các lãnh tụ Tây Sơn nhanh chóng đi sâu vào khung cảnh rộng lớn của xã hội Đàng Trong, về sau, khi phong trào lan ra đến Đàng Ngoài, họ buộc phải đối phó với những phức tạp xã hội ở đó. Họ khá thành công trong việc tuyển mộ những người ủng hộ, từ những nông dân người Việt ở vùng đồng bằng, những thương buôn người Hoa ở vùng duyên hải, đến những thành viên trong gia đình hoàng tộc Chăm và các bộ tộc vùng Tây Nguyên. Mỗi một nhóm này có những mục tiêu khác nhau, họ kết hợp với nhau chủ yếu do bất bình với cung cách quản lý tồi nền kinh tế Đàng Trong của các chúa Nguyễn về các mặt thương mại, thuế khóa và tiền tệ. Anh em nhà Tây Sơn có thể lôi cuốn những nhóm chiết trung như thế theo mình, chính là vì họ đáp ứng quyền lợi riêng của mỗi nhóm và đưa những mối bất bình riêng của mỗi nhóm vào chương trình hành động của họ. Chính những lực lượng tham gia đông đảo này buộc các nhà lãnh đạo Tây Sơn phải kết nối lại một chương trình hành động đầy tham vọng và thường mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo phong trào Tây Sơn không thể đáp ứng hết kỳ vọng của những người đã tham gia cuộc nổi dậy từ lúc ban đầu.
Sau này, có vẻ như những người hưởng lợi nhiều nhất từ sự nổi dậy của nhà Tây Sơn là những người lãnh đạo của phong trào này và những kẻ ủng hộ ưu tú của họ. Cho dù một số nhóm cấp dưới cũng được hưởng lợi vào một số thời điểm, ở một số nơi, từ việc làm của nhà Tây Sơn - chẳng hạn như những lúc cần phục hồi trật tự, hoặc các cơ hội thu tóm chiến lợi phẩm do nhiều chiến dịch quân sự mang lại - những lợi ích đó hiếm khi có tính hệ thống và dài lâu. Những cuộc tái phân phối tài sản ban đầu và thủ tục bãi bỏ gánh nặng thuế khóa khiến họ có biệt danh “những kẻ cướp nhân từ", đã sớm nhường chỗ cho những đòi hỏi của chính quyền quân nổi dậy ít nhất cũng phiền hà như những gì mà chính thể do họ thay thế từng làm, và có lẽ còn hơn thế nữa, vì những đòi hỏi này thường được đưa ra trong khuôn khổ những chiến dịch hành quân kéo dài nhằm thu thuế và bắt người dân làm lao động cực nhọc.
Các nhà lãnh đạo Tây Sơn chẳng bao giờ thực hiện một sự thay đổi sâu rộng nào để cải tiến thân phận của giai cấp nông dân, như những cuộc cải cách ruộng đất qui mô hay tái phân phối tài sản. Ngay cả trong những ngày đầu của phong trào Tây Sơn, những người lãnh đạo cuộc nổi dậy cũng chỉ tái phân phối những tài sản có giá trị thấp, hoặc lúa gạo, hơn là cấp cho người nông dân các chứng thư ruộng đất. Có một khoảng thời gian ngắn họ điều chỉnh mức chịu thuế của người dân ở Đàng Ngoài và nỗ lực kích thích thương mại, song đó là những mưu chước nhằm đối phó với những cuộc khủng hoảng đang diễn ra hơn là đưa ra những cải tổ một cách có hệ thống. Dù gì thì sự tương hợp về quyền lợi giữa các nhà lãnh đạo phong trào Tây Sơn với những người theo họ trong những năm đầu tiên của phong trào cũng nhanh chóng biến mất và những gì được coi như một “phong trào nông dân” trong những ngày đầu cũng sớm biến thành một thực thể chính trị phức tạp và rối rắm ngày càng tiêu biểu cho quyền lợi của những nhà lãnh đạo chính trị cao cấp mưu cầu quyền lực để đạt được mục đích của mình. Sau nữa, cần minh xác rằng cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn cũng giống như nhiều "phong trào nông dân” khác, không thể được xem như sự biểu lộ ý chí tập thể của giới nông dân. Ngay trong thời kỳ đầu, khi số người đi theo còn ít, phong trào có khuynh hướng theo chủ nghĩa bình quân và những nhà lãnh đạo của phong trào còn cố chứng tỏ mình, song cái chủ nghĩa bình quân đó sớm dẫn đến sự xung đột giữa khát vọng của những nhà lãnh đạo Tây Sơn với kỳ vọng của những người nông dân phục vụ trong quân đội của họ. Nói cách khác, một cuộc nổi dậy khỏi đầu bởi (và kể cả cho) người nông dân không có nghĩa là nó sẽ vẫn còn giữ cái danh nghĩa “phong trào nông dân”. Như Michael Adas đã có lý khi viết rằng:
“Xem xét kỹ nhiều cuộc bạo loạn được quy cho người nông dân gây ra, hoặc những cuộc nổi dậy đòi ruộng đất, người ta có thể kết luận rằng trên thực tế các cuộc xung đột này là hậu quả mối hận thù giữa những phe phái quyền lực hoặc các cuộc chống đối triều đình, trong đó, có sự dính líu bất đắc dĩ của những người lính gốc nông dân hoặc giới nông dân. Ngoại trừ những cuộc nổi dậy quan trọng trong đó người nông dân tập hợp quanh một đấng cứu tinh hay những nhà lãnh đạo có uy tín đấu tranh để lật đổ những kẻ cầm quyền bất tài hay tàn bạo, căn nguyên và hậu quả của những cuộc đấu tranh đó rất ít được người nông dân quan tâm đến, hoặc không dính đáng bao nhiêu đến thân phận của tầng lớp dân cày”.
Trong khi xét trên một vài phương diện, phong trào Tây Sơn thuộc về trường hợp ngoại lệ như Adas đã miêu tả - theo đó, phong trào được dẫn dắt bởi “những nhà lãnh đạo có uy tín đấu tranh để lật đổ những kẻ cầm quyền bất xứng hay tàn bạo” - nó cũng biểu thị những yếu tố cùa điều mà Adas gọi là "mối cừu hận giữa những người có quyền lực trong xã hội hoặc những cuộc đấu tranh chốn cung đình”. Như sẽ nói rõ trong công trình nghiên cứu này, nhà Tây Sơn dính líu rất nhiều vào những cuộc tranh chấp ngôi vị diễn ra trên lãnh thổ của cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh. Và cho dù có thể nói rằng các lãnh tụ Tây Sơn đã tận dụng các cơ hội này cho những mục tiêu riêng của họ, cũng lại có thể cho rằng họ đã bị các đối thủ lôi kéo vào các cuộc tranh giành quyền lực và đến lượt họ lôi kéo người nông dân tham gia vào những cuộc đấu tranh do họ gây ra.
Điểm nhấn của công trình nghiên cứu này là những động lực xã hội tiềm tàng của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, và lần lượt mở rộng sang những chương khảo sát các nhóm xã hội khác. Để xây dựng một bối cảnh cho bài phân tích này, Chương I cung cấp một cái nhìn lịch sử rộng lớn về thời kỳ Tây Sơn, khảo sát những nguyên nhân chính của cuộc nổi dậy, rồi phác họa những nét đại cương về diễn biến của cuộc nổi dậy. Chương II khởi sự một cuộc khảo sát chặt chẽ hơn về nhiều khía cạnh của cuộc nổi dậy, bắt đầu với các nhà lãnh đạo là ba anh em ở ấp Tây Sơn, xem họ đã xây dựng tính chặt chẽ của phong trào như thế nào. Trong Chương III, tôi lập luận rằng lời hứa của phong trào khi khởi sự như chấm dứt nạn tham nhũng, hủy bỏ thuế má bất hợp lý, và tái phân phối tài sản cho dân sẽ sớm nhường bước cho những thực tế đời sống tăm tối dưới một chế độ gần như lúc nào cũng có chiến tranh. Tôi khảo sát vấn đề mà người nông dân, hiểu theo nghĩa rộng, đã bị tác động như thế nào và phản ứng ra sao trước “phong trào nông dân” này- Cuối cùng, Chương IV quay sang nghiên cứu về nhiều người sống ở nơi mà tôi gọi là bên lề xã hội Việt Nam vào thời kỳ này. Họ là những người Công giáo Việt Nam, các bộ tộc thiểu số, những kẻ không được luật pháp che chở, và bọn cướp biển, với mối quan hệ phức tạp giữa họ với các lãnh tụ Tây Sơn.
Tài liệu phân tích này gợi ra rằng tâm điểm cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là một loạt những tác động qua lại giữa các lãnh tụ cuộc nổi dậy với nhiều nhóm khác nhau trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Đôi khi sự tương tác đó thể hiện dưới hình thức hòa hợp giữa hai bên, có khi họ thương lượng với nhau về mối quan hệ giữa hai bên. Trong những trường hợp khác, các lãnh tụ Tây Sơn kết nạp một số nhóm hoặc người cầm đầu của nhóm, và trong nhiều trường hợp, tùy vào hoàn cảnh, nhà Tây Sơn dựa vào sự áp bức để đạt được mục tiêu của họ. Như vậy, thông qua sự hòa hợp, sự thương lượng, sự kết nạp, và áp bức, các nhà lãnh đạo của phong trào nổi dậy có khả năng tự biến đổi - ở một chừng mực nào đó - thành những nhà cai trị “Việt Nam”, ngay vào lúc đất nước vẫn còn chia cách và chiến tranh.
Công trình nghiên cứu của tôi cũng không thừa nhận ý niệm về chủ nghĩa biệt lệ* của nhà Tây Sơn thường thấy trong phương pháp chép sử của người Cộng sản Việt Nam, cho rằng chính thể Tây Sơn và chính sách, sự cư xử của họ đối với người nông dân tốt hơn những chính thể mà họ thay thế, hoặc những chính thể tiếp sau họ. Có rất ít trường hợp chế độ nhà Tây Sơn đi chệch hướng hành động của những người đi trước, nhất là trong việc chọn lựa danh xưng các chức vụ trong chính quyền, và ở một qui mô nhỏ hơn là việc họ sử dụng chữ Nôm trong một số văn kiện của chính quyền. Nhưng nhìn chung, anh em nhà Tây Sơn không phải là những nhà canh tân và điều không làm ai ngạc nhiên là chính thể mới của họ chấp nhận cung cách và lề thói của những người đi trước họ, bao gồm cả cơ cấu hành chánh lẫn nhiều thứ lễ phục. Những gian khổ mà người nông dân phải đương đầu như lao động khổ dịch, thuế má gia tăng vô tội vạ, bắt lính triền miên, được nhân lên dưới chính quyền Tây Sơn, song chúng cũng tương tự với những gì họ đương đầu dưới chính quyền các chúa Trịnh và sau đó, dưới chính quyền nhà Nguyễn vào thế kỷ XIX.
Cuối cùng, tôi lập luận rằng thay vì xem cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là tiêu biểu cho sự chiến thắng của tầng lợp nông dân đã chịu đựng khổ sở lâu ngày, chúng ta nên hiểu điều này như một thử thách về quyền lực trước một chế độ chính trị suy yếu. Những người tiến hành cuộc nổi dậy được khích lệ bởi những dấu hiệu cho thấy là một thử thách như thế có thể đạt đến thành công. Cuộc nổi dậy không phải là một phong trào về mặt tư tưởng tìm cách kết nối một chương trình hành động đồng nhất. Nói đúng hơn, đó là một biến động diễn ra trong những tình huống luôn thay đổi, bởi ý muốn thất thường của nhà lãnh đạo, và phản ứng của những người ở phía đối địch. Việc nghiên cứu này sẽ đề cập đến một số vấn đề phức tạp, mặc dù không thể dẫn chứng hết bằng tư liệu.