← Quay lại trang sách

Chương IV NHỮNG KẺ SỐNG BÊN LỀ CUỘC NỘI CHIẾN
NGƯỜI CƠ ĐỐC GIÁO, HẢI TẶC VÀ CÁC THÀNH PHẦN KHÁC

Đó là năm 1787 và tôi vẫn còn sống.

Nhưng tôi vẫn sống là nhờ đức của Đấng Hoàng Thiên

Bởi vì tôi đã sống giữa gươm giáo và vây phủ bởi cái chết.

-Visente Liêm Ký, 1787-

Người nông dân Việt sống ở đồng bằng không phải là giai tầng duy nhất bị tác động sâu xa bởi những biến động thời kỳ Tây Sơn. Cuộc nổi dậy và những chế độ mà nó tạo ra cũng có những tác động quan trọng lên những nhóm người sống bên lề của xã hội Đại Việt thế kỷ XVIII. Trong số những nhóm đó, có người Việt theo Cơ Đốc giáo, nhiều nhóm sắc tộc và di cư, nổi tiếng nhất là nhóm di cư từ Trung Hoa, nhưng cũng có những nhóm sống ở cao nguyên, và đôi khi ở xuyên qua biên giới, đến Xiêm, Chân Lạp, và vương quốc Lào; nhiều băng cướp sử dụng các chiêu bài khác nhau, thoắt ẩn, thoắt hiện tùy theo sự biến đổi của hoàn cảnh; và cuối cùng là bọn hải tặc, được phân biệt với các băng cướp không đơn thuần chỉ vì chúng hoạt động ở biển và sông ngòi, mà trong trường hợp này, còn do chúng xuất phát từ Trung Quốc. Mặc dù đôi lúc số hải tặc này không nhiều, nhưng chúng tạo được hiệu ứng quan trọng trong diễn biến của cuộc nổi dậy, căn cứ vào những thành công và thất bại của chúng.

Có nhiều cách để phân loại cái mà tôi gọi là “bên lề xã hội”, và tôi chọn những nhóm được nêu rõ trong các tài liệu và đáng chú ý do vai trò của họ trong thời kỳ Tây Sơn. Tất nhiên có những nhóm khác mà dấu vết của họ đã bị thời gian xóa nhòa. Trong một vài trường hợp, có sự chồng chéo đáng kể giữa những thành viên của các nhóm này với thành phần “nông dân” rộng lớn hơn đã được đề cập trong chương trước. Chẳng hạn như nhiều người theo Cơ Đốc giáo lại là những nông dân sống ở vùng đồng bằng và nhiều nông dân trở thành kẻ cướp do nhu cầu sống hoặc chọn lấy đó làm nghiệp dĩ. Vấn đề bên lề khá phức tạp, bởi vì từ ngữ này chỉ có nghĩa khi được quan sát trong một phạm vi đặc biệt nào đó. Tính bên lề của một vài nhóm - những nhóm sắc tộc ở cao nguyên, các băng cướp, hải tặc và những người Cơ Đốc giáo - hiển nhiên là sống xuyên suốt lãnh thổ Đại Việt. Những nhóm khác, như người Hoa, người Chăm và người Khmer chẳng hạn, hiện diện rất nhiều ở phần phía nam của Đàng Trong, ở đó, ít nhất về mặt cộng đồng, họ chiếm đa số. Vì thế, xác định những nhóm này cái tên “bên lề” là điều còn phải bàn lại, trong một phạm vi hạn hẹp hơn của khư vực trung và nam Đàng Trong, trong lúc sẽ có lợi hơn đôi chút nếu nhìn vấn đề trong khuôn khổ rộng lớn của toàn bộ lãnh thổ Đại Việt. Cố nhiên, việc đặt những nhóm ở phía nam qua một bên lề phần nào là sản phẩm của những nhân tố chính trị, dân số, và cuối cùng là thuật chép sử phát triển vào cuối thế kỷ XIX, khi sự Việt hóa về mặt sắc tộc ngày càng tăng lên.

Tuy nhiên, với những ý nghĩ có sẵn như thế trong đầu, chúng ta có đầy đủ lý do để khảo sát những nhóm này với tính cách riêng của họ. Trước tiên, đó là những nhóm được các nhà hoạt động chính trị vào thế kỷ XVIII, các quan sát viên, và các nhà chép sử biên niên xác định như là những nhân tố tách biệt rõ ràng trong xã hội Đại Việt. Thứ đến, mỗi một thành phần trong những nhóm này bị tác động sâu sắc bởi những biến động của thời kỳ Tây Sơn và lần lượt để lại dấu ấn của họ trong cuộc nổi dậy và trong các chính thể về sau, cùng kẻ thù của các chính thể này. Cuối cùng, mỗi một nhóm trên có thể được phân loại như “ở bên lề” bằng một cách nào đó, cho dù tinh chất bên lề này thay đổi tùy từng lãnh thổ và đôi khi nặng về tính ý thức hệ và văn hóa hơn là về số liệu và tính chất địa lý. Chẳng hạn người Cơ Đốc giáo đôi khi có thể ở vào các trung tâm quyền lực và tính bên lề của họ xuất phát từ qui chế thiểu số dành cho họ, cũng như sự tách biệt giáo lý của họ trong những bài giảng về sự hành lễ, sự tôn kính và cách hành xử trong xã hội.

Các băng cướp và hải tặc bị gạt ra ngoài lề về mặt luật pháp và cả về mặt địa lý. Những nhóm người Hoa bị gạt ra ngoài lề ở một mức độ nào đó về mặt chính trị, và đôi khi về mặt văn hóa, mặc dù có những khu vực (như vùng quanh Sài Gòn, Hội An và Hà Tiên), họ hiện diện đông đảo và có một ảnh hưởng chính trị đáng kể.

Sự tương tác gia tăng giữa những người ở bên lề xã hội Việt Nam và những người ở trung tâm xã hội không phải là điều đáng ngạc nhiên trong thời gian xảy ra cuộc xung đột, vì trong những thời điểm như thế, giới ưu tú về chính trị quay sang những nhóm sống bên lề để tìm sự ủng hộ của họ. Lịch sử Việt Nam đầy rẫy những cuộc xung đột và liên minh với nhau giữa người ở đồng bằng và đối tác của họ ở vùng cao. Xung đột thường phát sinh từ sự tranh giành tài nguyên và đất đai, khi các thế lực chính trị ở đồng bằng nỗ lực cướp lấy tài nguyên của các vùng cao. Liên minh thường là sản phẩm phụ của một thực tại, trong đó nhiều phong trào quần chúng và phần lớn nỗ lực kháng chiến chống phương Bắc vào các thời kỳ tiền cận đại và sơ kỳ cận đại bắt đầu bằng việc rút quân về các vùng ngoại vi (thường là vùng cao), nơi những người trung thành có thể khôi phục sức mạnh, thu thập tài nguyên, kết nạp người ủng hộ trước khi tung ra những cuộc tấn công chống lại các trung tâm chính trị ở đồng bằng.

Mô hình có sự xen kẽ giữa xung đột và hợp tác xuất hiện từ những thế kỷ đầu tiên của thời kỳ Bắc thuộc, một thời kỳ mà sự khác biệt về mặt chủng tộc giữa những cộng đồng dân tộc sống ở đồng bằng và cao nguyên vẫn còn chưa được giải quyết. Mô hình này tiếp tục vào hậu thời kỳ tự chủ bắt đầu từ nửa sau thế kỷ X, thỉnh thoảng có sự nối kết giữa người Việt ở đồng bằng với các tộc người ở cao nguyên. Từ những cuộc chống Nguyên Mông vào nửa sau thế kỷ XIII đến cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của Lê Lợi vào thế kỷ XV, các nhà lãnh đạo quân sự Đại Việt thường được sự ủng hộ về thực chất của các nhóm sắc tộc miền núi và thủ lĩnh của họ sống trong những khu vực mà các lãnh tụ quân sự Việt vẫn thường lui về. Về sau, khi nhà Mạc bị đánh đuổi khỏi Thăng Long vào cuối thế kỷ XVI, họ tìm chỗ ẩn lánh trên vùng cao nguyên phía bắc Cao Bằng và thiết lập mối quan hệ với các nhóm sắc tộc ở địa phương. Nhiều cuộc nổi dậy ở Đàng Ngoài vào thế kỷ XVIII cũng có liên quan đến những sắc tộc không phải là người Việt thuần túy*. Việc nhà Tây Sơn liên minh với những nhóm người vùng cao là sự thể hiện tiếp nối một truyền thống lâu đời, cho dù việc thiết lập những liên minh như thế đôi khi hoàn toàn mới mẻ trong bối cảnh đặc biệt của Đàng Trong, nơi mà cuộc chung sống không dễ dàng giữa người vùng cao với người đồng bằng đã được đưa vào qui chuẩn dưới chính quyền nhà Nguyễn từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII.*

Khi đặt vấn đề những nhóm người sống bên lề xã hội, mục đích của tôi nhằm đưa tất cả các nhóm này vào trong những câu chuyện kể về thời kỳ Tây Sơn, vì những tài liệu hiện có hoặc không đề cập đến, hoặc giải thích sai lạc bản chất sự tham gia của họ. Một vài nhóm, như hải tặc hay các băng cướp chẳng hạn, hầu như hoàn toàn không được nói đến trong những câu chuyện kể về thời kỳ này. Việc không đề cập đến những nhóm này không có gì đáng ngạc nhiên khi tác phẩm của những người theo chủ nghĩa quốc gia đương đại vốn miêu tả quân Tây Sơn là sự liên kết của những thành phần đạo đức trong xã hội, cho dù bị áp bức, đã đứng lên đấu tranh vì lợi ích quốc gia. Sự miêu tả này đã vô tình hay cố ý phản ứng lại sử nhà Nguyễn đã mệnh danh nhà Tây Sơn một cách rõ ràng là “giặc”. Mặc dù hầu như ba anh em Tây Sơn không phải là “giặc cướp”, nhiều người tham gia vào phong trào hay ít nhất hoạt động song hành với nó đã bị gọi mơ hồ như thế. Họ cướp bóc trong chính cái xã hội mà các nhà lãnh đạo Tây Sơn cần được sự hỗ trợ của họ. Không đề cập tới sự hiện diện và đóng góp của những thành phần này trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn sẽ làm sai lạc rất nhiều những động lực phức tạp của thời kỳ này.

Mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn với những nhóm khác như người Cơ Đốc giáo và người không thuộc dân tộc Kinh, nếu không bị quên lãng thì cũng bị đơn giản hóa rất nhiều trong các tác phẩm lịch sử hiện đại. Sự đơn giản hóa này xuất phát từ việc sử dụng cớ chọn lọc những nguồn tư liệu củng cố cho lối chép sử coi các lãnh tụ Tây Sơn như những mẫu mực của một chính sách xã hội tiến bộ*. Tác phẩm của các nhà nghiên cứu Việt Nam đã miêu tả thời kỳ Tây Sơn như dấu mốc cao nhất trong việc hành xử đối với người bản địa theo Cơ Đốc giáo, ủng hộ luận điệu này, các nhà sử học đó thường chọn ra một ít thư từ của các giáo sĩ châu Âu ca ngợi chế độ của nhà Tây Sơn thông qua sự khoan dung về mặt tôn giáo của họ và so sánh cách hành xử này của họ với những người đi trước họ*. Trong lúc có những thời điểm nhà Tây Sơn tỏ ra có thiện cảm với những người Cơ Đốc giáo sống dưới sự kiểm soát của họ, cũng có nhiều trường hợp họ đàn áp thẳng tay một thiểu số người theo tôn giáo này. Tương tự như thế, sự giải thích hiện nay về động lực chi phối mối quan hệ giữa các nhà lãnh đạo Tây Sơn với những nhóm không phải người Kinh cũng được đơn giản hóa rất nhiều. Phong trào Tây Sơn tính đến việc lôi cuốn thành viên của các nhóm không phải là người Kinh, bao gồm các nhóm trên cao nguyên, người Hoa và người Chăm. Tuy nhiên, những nhóm người trên không ủng hộ nhà Tây Sơn một cách đồng nhất. Thỉnh thoảng một vài nhóm hỗ trợ nhà Tây Sơn. Tuy nhiên, các thành viên của họ ủng hộ những người đối địch với nhà Tây Sơn nhiều hơn.