Chương IV - 2 MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ TÂY SƠN VÀ NHỮNG BỘ TỘC KHÔNG PHẢI NGƯỜI KINH
Ở Chương II, tôi đã khảo sát một vài phương cách mà các lãnh tụ Tây Sơn đã sử dụng để thiết lập mối quan hệ với nhiều bộ tộc như một phương tiện để hợp pháp hóa các yêu sách chính trị của họ. Những mối quan hệ này tiếp tục quan trọng xuyên suốt những năm tháng của phong trào Tây Sơn, không những vì tính biểu tượng của chúng, mà còn vì những giá trị riêng biệt của chúng nữa. Trong lúc quân đội Tây Sơn từ vùng cao đi xuống vào năm 1773 để chiếm lấy Qui Nhơn, vùng cao còn là trung tâm điểm của cuộc xung đột giữa họ với quân Nguyễn trong 30 năm sau đó. Quân đội của hai bên đi xuyên qua vùng cao trong chiến dịch của họ và khu vực cao nguyên được sử dụng như một đường dẫn quan trọng cần cho sự di chuyển các lực lượng đi dọc theo hay đi xuyên biên giới với các nước láng giềng. Kết quả là cả hai bên đều tìm cách phát triển mối liên kết với thành viên những bộ tộc ở các vùng này, trong lúc họ vẫn tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc khác như người Chăm, người Hoa, và người Khmer ở các khu vực đồng bằng duyên hải.
Thành phần “sắc tộc không phải người Kinh” là điều cần được bàn lại, phần vì nó xác định những nhóm người bị phủ nhận, phần vì nó gợi lên một sự gắn kết không tồn tại trong những nhóm người này. Tuy nhiên, theo những nguồn tài liệu đương thời, thành phần đó có một giá trị nhất định, xét về ý nghĩa của sự chia cách giữa những nhóm sắc tộc tự xác định hay được xác định trong thời kỳ Tây Sơn. Tôi sẽ sử dụng những từ theo tập quán dành cho những nhóm sắc tộc này, những từ thường gợi lên đặc tính phổ biến kết hợp với những ranh giới quốc gia rõ rệt, vốn là sản phẩm của sự can thiệp thuộc địa do người châu Âu thực hiện vào thế kỷ XIX*. Vì thế, khi tôi nói đến người “Khmer” và khi tôi sử dụng từ “Trung Hoa”, tôi không gợi ra những đặc tính quốc gia đương thời, mà là muốn đề cập đến sự phân loại (dù có dịch ra như thế nào) phản ánh cách xếp đặt vào các thế kỷ XVIII và XIX. Điểm cơ bản mà tôi muốn nêu ra trong cuộc thảo luận là những người tham gia vào các biến động ở thời kỳ này và những người ghi nhận chúng về sau có sự nhận thức khác nhau về ý nghĩa của chúng về mặt văn hóa hay ngôn ngữ học. Trong khi nét đặc trưng của những sự khác biệt này có thể thay đổi, và cái cách phân loại của chúng ta có thể chồng chéo với nhau, theo tôi, có một nhận thức về sự khác biệt được công nhận phù hợp với những động lục về chính trị và quân sự vào thời kỳ này. Tuy nhiên, cũng thật có ích khi chúng ta ghi nhớ những nhận định của Li Tana, rằng “một quan niệm được xác định rõ về sắc tộc trong khuôn khổ tác phẩm Water Prontier ... là mọi sự phân loại nên được xem là sự ướm thử, hay thay đổi, thậm chí chỉ có tính cách tạm thời”.
Có ba nhóm sắc tộc quan trọng không phải là nguôi Kinh ở đồng bằng, chúng cũng được xác định rõ trong các nguồn tài liệu đương thời. Nhóm đầu tiên là những người Hoa, được triều đình Đại Việt và các sử gia công nhận như một thành phần riêng biệt, cho dù trong nhóm này có những nhóm nhỏ phản ánh các cộng đồng riêng, các nhóm ngôn ngữ khác nhau hoặc những vùng miền ở Trung Quốc, nơi xuất thân của họ*. Điều hiển nhiên nhất là người Hoa đã được chọn để liệt kê như một thành phần riêng biệt trong dân số (Đại Việt và Việt Nam) các thế kỷ XVIII và XIX. Nhóm thứ hai gồm những người Chăm cư trú ở đồng bằng, khác với những người Việt định cư ở vùng phía nam; họ được phân biệt bởi các hoạt động văn hóa và cách hành đạo cũng như mối quan hệ về chính trị với vương quốc Chăm còn tồn tại lúc bấy giờ. Cuối cùng, và ít đáng chú ý hơn một chút trong cuộc xung đột của nhà Tây Sơn là người Khmer, hình thành một nhóm người quan trọng ở cực nam, vùng châu thổ sông Cửu Long, và sâu vào bên trong, đến biên giới Chân Lạp.
Nhóm thứ tư không phải người Kinh mà tôi muốn nói đến, dù ngắn ngủi, là thành phần đông đúc sống trên vùng cao nguyên, ngày nay là nam trung phần Việt Nam, đôi khi được xếp vào thành phần “dân cao nguyên” hay “dân vùng cao”. Đây là một nhóm mà tính đặc trưng xuất phát từ vị trí địa lý cũng như từ những khác biệt cụ thể về văn hóa và xã hội. Cả những người quan sát Việt và châu Âu vào thời kỳ này gọi họ là man hay mọi , một từ phản ánh cảm nghĩ tự mãn, sẻ chia về tính ưu việt về văn hóa. Mặc dù thành phần sắc tộc này tương đối khó phân biệt, bao gồm nhiều tộc người, nhiều ngôn ngữ, tập quán văn hóa, song có một cảm thức rõ ràng rằng họ là một tộc người đặc biệt, tách biệt với người Việt ở đồng bằng, phân biệt bởi đời sống kinh tế, ngôn ngữ và y phục của họ. Những tài liệu còn lưu giữ ít khi mở ra các cuộc thảo luận về những nhóm người ở bên ngoài thành phần “người vùng cao” khoáng đạt và vì thế, tài liệu của tôi về những người này sẽ tương đối khó phân biệt, ngay khi cần phải nói rõ rằng thành viên của những nhóm này tự thấy họ khác biệt với nhau, cũng như với những cư dân sống ở đồng bằng.
IV.2.1 Người Hoa ở Đàng Trong
Nhóm sắc tộc nổi trội nhất bị lối cuốn vào cuộc chiến của nhà Tây Sơn là người Trung Hoa ở Đàng Trong, với nhân số vào cuối thế kỷ XVIII khoảng 30.000 người*. Trong sử biên niên Việt Nam hiện nay, người Hoa ở Đại Việt được phân biệt bởi khoảng thời gian họ đi đến vương quốc này. Người minh hương là những người đến vào cuối thế kỷ XVII hay đầu thế kỷ XVIII, nhiều người trong số họ trung thành với nhà Minh đã bị truất ngôi, trong khi thanh nhân là thần dân của nhà Thanh, phần lớn đến Đại Việt vào giữa hoặc nửa sau thế kỷ XVIII*.
Những người trung thành với nhà Minh, nhiều người là binh lính, bỏ những đồn lũy cuối cùng của triều đại này ở phía nam Trung Quốc và đi theo đường bể dọc theo duyên hải Đại Việt, đến Đà Nẵng năm 1679. Các chúa Nguyễn chính thức cho phép họ cư ngụ ở vùng duyên hải Đàng Trong và sau đó, nhiều khu vực cư trú của họ hình thành ở nhiều nơi khác nhau trong vương quốc*. Quyết định của các chúa Nguyễn cho phép đạo quân đông đảo đó cư trú trên lãnh thổ của họ xuất phát chủ yếu từ sự kiện những người Hoa tị nạn này cần ích cho việc định cư ở những nơi vẫn còn thưa dân và trong nhiều trường hợp, những nơi này được triều đình Phú Xuân kiểm soát khá lỏng lẻo. Nhiều người tị nạn trong số này cư trú bên trong hoặc chung quanh trung tâm thương mại Hội An, trong khi những người khác đi xa hơn về phía nam, cư trú ở vùng Biên Hòa thưa thớt dân cư, hoặc ở Mỹ Tho, trong vùng châu thổ sông Cửu Long; một số ít thành lập một cộng đồng ở cảng cá Hà Tiên xa xôi, nằm trong một vùng có sự tranh chấp ở biên giới Đại Việt-Chân Lạp.
Một nhóm người Hoa thứ hai gọi là thanh nhân di cư vào lãnh thổ Đại Việt chậm hơn một chút, và vì nhiều lý do khác nhau. Nhóm này đến Đại Việt tham gia vào việc buôn bán dọc theo vùng duyên hải giữa miền Nam Trung Hoa và Đàng Trong, một nền thương mại phát triển nhanh chóng vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, phần do nhà Thanh giảm nhẹ những hạn chế trong việc cho thần dân của họ tham gia vào việc buôn bán trên biển. Nhiều người đến sau định cư ở Hội An, nhưng họ cũng tản ra đến những cộng đồng khác sống dọc theo vùng duyên hải miền Trung. Không như những nhóm người Hoa định cư trước đã bắt đầu quen với chỗ cư trú mới và hợp nhất với nhau trong xã hội Việt, những người đến sau nay vẫn còn kết nối chặt chẽ với gốc gác của họ ở Hoa Nam thông qua hoạt động thương mại thường xuyên và sự tiếp xúc với các phe phái và hội kín.
Trong lúc thời điểm tái định cư là đặc điểm nổi bật của người Hoa ở Đại Việt, thì có một nét độc đáo và nhiều ý nghĩa hơn, đó là nơi xuất phát của họ bên trong đế quốc Trung Hoa rộng lớn. Nét độc đáo này có lẽ hơn cả thời điểm tái định cư, sẽ là những gì phân biệt các tộc người Hoa với nhau trên lãnh thổ Đại Việt. Người Hoa tị nạn trên lãnh thổ Đại Việt đến chủ yếu từ vùng duyên hải Trung Hoa, song ở bên trong khu vực này có nhiều tỉnh, người dân nói nhiều ngôn ngữ khác nhau và mang theo các nền tảng xã hội và lịch sử đặc biệt của họ. Bên trong Đại Việt, những người này có khuynh hướng quần tụ với nhau theo nguồn gốc xuất phát có liên hệ trực tiếp với một ngôn ngữ mà họ chia sẻ cùng nhau*. Vì thế, người Hoa sống ở Đại Việt được nhận biết sự khác biệt rõ rệt bên trong các cộng đồng và giữa các cộng đồng với nhau, những khác biệt phản ánh các nguồn gốc xuất phát khác nhau và những trải nghiệm về di trú trong lịch sử.
Do có nhiều hình thức khác biệt nhau trong cộng đồng người Hoa ở Đại Việt, cố nhiên là sẽ có một sự đon giản hóa đáng kể khi nói đến "tộc Trung Hoa" dưới hình thức tập thể như tôi đang làm ở đây. Việc tôi quyết định sử dụng hình thức tập thể này là một vấn đề có tính thiết thực, mặc dù nó được biện minh ở một mức độ nào đó bởi sự ràng buộc của thành viên người Hoa trong thế giới thương mại cùng những mối quan hệ với một khu vực buôn bán dọc ven biển rộng lớn hơn. Điều này cũng xuất phát từ sự kiện là các nguồn tư liệu hiếm khi phân biệt một cách đầy đủ những thành viên khác nhau trong một thành phần rộng lớn hơn. Tuy nhiên, tôi nhận thấy rằng bên dưới bề mặt của ký hiệu ngôn ngữ chưa hoàn chỉnh “tộc người Hoa” là những khác biệt rộng lớn và rõ ràng. Nó cần được ghi nhớ suốt cuộc thảo luận dưới đây, cho dù tôi tiếp tục tin rằng từ chung ấy có một sự hữu dụng nhất định phản ánh ý thức về sự khác biệt của điều mà người Đàng Trong vào thế kỷ XVIII nhận thấy hoàn toàn.
IV.2.2. Nhà Tây Sơn và cộng đồng người Hoa
Cho dù không thể tìm ra động cơ chính xác của việc thương nhân người Hoa ủng hộ cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, chúng ta biết rằng những thành viên của nhóm này cung ứng cả tiền bạc lẫn nhân lực cho phong trào Tây Sơn trong những năm đầu tiên. Động cơ chính có thể là kinh tế - hi vọng có được những cơ hội buôn bán tốt hơn và thuế má nhẹ hơn đánh trên hàng nhập khẩu - song cũng có thể có cả những cân nhắc về chính trị. Thư của một giáo sĩ đã viết rằng “ở xứ Chăm (Quảng Nam), những kẻ nổi loạn đạt đến thỏa thuận với người Hoa, hứa hẹn rằng nếu họ ủng hộ việc làm của nhà Tây Sơn để giải thoát người dân khỏi chế độ bạo ngược mà họ đang phải chịu đựng vào lúc đó, thì Tây Sơn sẽ cử một trong những quan lại của họ làm vua xứ Đàng Trong"*. Hoàn toàn không chắc rằng nhà Tây Sơn dự tính nhân nhượng như thế lúc bấy giờ, nhưng họ có thể sử dụng lời hứa như một chiến thuật tuyển mộ. Dù với động cơ nào, các thương nhân người Hoa cũng đã thiết lập mối quan hệ trọng yếu với các lãnh tụ Tây Sơn và các chiến binh người Hoa giữ vai trò công cụ, và có thể nổi trội trong bốn năm đầu tiên của phong trào.
Sự đóng góp chủ yếu của người Hoa là dưới dạng nhân lực, với những đạo quân người Hoa làm gia tăng mạnh mẽ tầm cỡ lực lượng quân sự do nhà Tây Sơn tuyển chọn. Số lính người Hoa chiến đấu trong hàng ngũ Tây Sơn nhiều đến nỗi vào năm 1775, một quan sát viên người châu Âu đã viết rằng đa số lính của quân nổi dậy là người Hoa. Các đạo quân người Hoa được lãnh đạo bởi hai người nổi tiếng nhất đã ủng hộ nhà Tây Sơn từ sớm là Tập Đình và Lý Tài, vốn là hai thương nhân ở Hội An. Khi họ tham gia vào phong trào Tây Sơn vào năm 1773, mỗi người mang theo họ một đạo quân gồm toàn người Hoa*. Đạo quân của Tập Đình tự đặt tên là Trung Nghĩa quân, còn đạo quân của Lý Tài là Hòa Nghĩa quân. Có thể rằng những đạo quân này được hai thương nhân trên huy động bằng cách sử dụng các mối quan hệ với hội kín hoặc với các phường hội mua bán. Vào cuối thế kỷ XVII, các hội kín nổi lên ở miền Nam Trung Hoa như những thế lực thương mại và chính trị quan trọng. Engelbert cho rằng những nhóm này được tổ chức theo ngôn ngữ và đã có mặt ở Hội An vào cùng thời điểm đó. Vào giữa thế kỷ XVIII, các tổ chức theo kiểu này đã hình thành tại nhiều nơi ở Đông Nam Á và vì thế không có gì đáng ngạc nhiên khi tìm thấy những “người anh em” người Hoa xuất hiện ở Đại Việt vài thập niên sau*. Ngoài ra, chúng ta còn biết rằng người Hoa định cư ở Đại Việt và nhiều nơi khác ở Đông Nam Á thường sống theo gia đình hay bang nhóm, các cơ cấu trung tâm của các tổ chức hội kín. Đáng tiếc là có ít chứng cứ về tính cách của những đạo quân này, hay thành phần của chúng, vì thế chỉ có thể ước đoán khả năng liên kết của chúng với các hội kín hay các tổ chức tiền thân khác. Mặc dù chúng ta không biết nhiều về cấu trúc hay thành phần của chúng, song rõ ràng rằng những đạo quân này có thể được xác minh là thành phần mạnh mẽ nhất của quân Tây Sơn trong hai năm đầu của cuộc nổi dậy.
Ngay khi một số người Hoa tiến lên phía trước để hỗ trợ nhà Tây Sơn trong những ngày đầu tiên của phong trào, những người khác ủng hộ lực lượng đối nghịch của nhà Tây Sơn. Chẳng hạn như đến cuối năm 1775, một thương nhân người Hoa họ Tất đã tài trợ cho một cuộc nổi dậy do hai thành viên của dòng họ chúa Nguyễn là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân lãnh đạo. Hai người này đã xây dựng lực lượng ở Quảng Nam và nhanh chóng chiếm lấy hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn. Tình trạng các phe phái quân sự tranh chấp với nhau sớm gây được sự chú ý của anh em nhà Tây Sơn và Nguyễn Nhạc đã dành hai tháng chiến đấu với những đạo quân này và cuối cùng thắng thế khi quân của Quyền và Xuân cạn hết đồ tiếp tế. Gần như cùng lúc đó, một người Hoa khác là Đỗ Thanh Nhân, đi theo chúa Nguyễn đang lẩn tránh và tiến về Gia Định, tại đây, ông nhanh chóng tuyển mộ một đạo quân hơn 3.000 người để chiến đấu cho chúa. Nhân gọi đạo quân của ông là Đông Sơn như một thách thức trực tiếp với những kẻ nổi dậy ở ấp Tây Sơn*. Quân Đông Sơn còn là một đạo quân độc lập đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Đỗ Thanh Nhân, nhưng nó tỏ ra quan trọng đối với sự tồn tại của quân Nguyễn vào những năm cuối thập niên 1770. Những trường hợp như thế cho thấy rõ rằng việc thừa nhận sự ủng hộ bất biến mà các thương nhân người Hoa ở dọc theo vùng duyên hải đã dành cho chúa Nguyễn là không đúng chỗ. Sự phân hóa như thế trong một cộng đồng với thành phần không ổn định hầu như là một điều khá bất ngờ. Thật vậy, đặc biệt vào những năm đầu tiên của phong trào, ngay cả những thương nhân đang tìm kiếm sự đổi thay về chính trị và kinh tế cũng không nhất thiết nhìn thấy nhà Tây Sơn như là tác nhân duy nhất của sự thay đổi này.
Trong khi đó, cũng vào năm 1775, liên minh vừa được thiết lập giữa Nguyễn Nhạc với Tập Đình và Lý Tài cũng bắt đầu rạn nứt. Lý do chính của điều này hình như là sự đặc biệt tàn bạo của các đạo quân người Hoa đã khiến cho những người dân mà nhà Tây Sơn đang tìm cách tuyển mộ trở nên xa lánh họ. Theo một số tài liệu, các đạo quân của Tập Đình và Lý Tài quấy rối người dân và gạ gẫm đàn bà, con gái. Trong một bức thư viết vào năm 1775, giáo sĩ Pierre-Jacques Halbout viết rằng “những kẻ nổi loạn... phần lớn là người Hoa và đã phạm vào hàng ngàn chuyện kinh tởm, chẳng hạn như ăn thịt người, cho rằng món đó ngon hơn các thứ thịt khác”*. Thư của một giáo sĩ Tây Ban Nha cùng thời kỳ này miêu tả các đạo quân người Hoa đã có những hành động tàn bạo tệ hại hơn cả quân Tây Sơn và quân của đối phương gộp lại*. Trên thực tế, trong những ngày đầu tiên của liên minh giữa Tây Sơn với quân Trịnh, vị chỉ huy phía bắc đã gửi một thư cho Nguyễn Nhạc đặc biệt yêu cầu Nhạc tìm cách bắt giữ hay sát hại hai tên Tập Đình và Lý Tài “gian ác”, nhắc nhở rằng tiếng đồn về những việc làm quá đáng của họ đã đến tai chúa Trịnh. Không rõ liệu những việc làm xấu xa hoặc tham vọng chính trị và quân sự có khiến cho những viên chỉ huy người Hoa xa lánh Nhạc hay không, nhưng vào một thời điểm của năm 1775, Nhạc và Lý Tài cùng âm mưu giết Tập Đình. Khi tin tức đến tai Tập Đình, ông ta chạy về Hoa Nam, tại đây, về sau, ông ta bị sát hại trong một cuộc nổi dậy khác. Một thời gian ngắn sau, đến phiên Lý Tài, có lẽ nhìn thấy cơ hội tốt hơn với chúa Nguyễn, hoặc không yên tâm về mối quan hệ giữa ông ta với Nguyễn Nhạc, đã chạy về phía nam, kết hợp với kẻ thù trước đây của ông ta. Với đạo quân hùng mạnh của mình, trong nhiều năm liền, ông ta chi phối việc bổ nhiệm các chức vụ quan trọng ở Đồng Nai trước khi bị sát hại vào năm 1777 trong một trận đánh có tính phe phái với một đạo quân khác cũng theo chúa Nguyễn*.
Ngay khi mối quan hệ của các lãnh tụ Tây Sơn với các thương nhân người Hoa như Tập Đình và Lý Tài suy sụp, những căng thẳng khác với cộng đồng người Hoa cũng bắt đầu phát triển. Có vẻ như những căng thẳng đó phần nào là sự căng thẳng giữa nông thôn và thành thị biểu lộ trong thời kỳ đầu của phong trào Tây Sơn. Quân nổi dậy tấn công các đô thị, nơi phần lớn người Hoa sinh sống, bởi vì họ cho rằng đó là những trung tâm của quyền lực chính trị và kinh tế góp phần tạo nên các vấn đề xảy ra ở nông thôn. Thành thị cũng được nhắm đến do những của cải cất giữ ở đó, những của cải được dùng để xoa dịu quân nổi dậy và những người ủng hộ họ ở nông thôn, cho dù sự cướp phá các đô thị khiến người dân thành thị xa lánh những đạo quân này.
Ngoài ra, quân Tây Sơn không chỉ đơn thuần cướp phá các trung tâm đô thị, mà hình như họ còn tấn công trực tiếp các người Hoa sống ở đó. Người ta kể rằng quân Tây Sơn đã tàn sát những người Hoa sống ở các thành phố cảng duyên hải Đà Nẵng và Hội An vào giữa thập niên 1770, một giáo sĩ Tây Ban Nha đã viết rằng: “một số người Hoa xách gươm chạy, một số khác, trong lúc chạy, đã nhảy xuống dòng sông chảy gần thành phố"*. Năm 1782, khi quân Tây Sơn đi vào Chân Lạp, “họ chạy đi tìm những người Hoa đã trốn khỏi Đàng Trong và tiêu diệt những người này mà không vì lý do gì ngoài lý do họ theo phe chúa Nguyễn" Cuối mùa xuân năm đó, mối quan hệ giữa Tây Sơn và cộng đồng người Hoa sống ở Đàng Trong rơi xuống điểm thấp nhất khi quân nổi dậy tàn sát một khối lượng lớn người Hoa ở Sài Gòn.
Theo nhiều bản tường thuật, quân Tây Sơn cướp bóc và đốt cháy cửa hàng, tàu bè của thương nhân người Hoa và giết những người Hoa sống trong thành phố, với những con số người chết ước tính từ 4.000 đến 20.000*. Bộ Đại Nam thục lục ghi nhận sự kiện này như sau: “Nhạc lập tức sai bắt hết người Thanh hơn một vạn người ở Gia Định, không kể là lính, là dân hay là người buôn bán, đều giết hết mà quăng xác đầy sông. Hơn một tháng trời, không ai dám ăn tôm cá và uống nước sông”, về nhận xét này, Trịnh Hoài Đức bổ sung trong Gia Định thành thông chí: “Tất cả hàng hóa buôn bán như vải muslin, lụa, trà, thuốc, dầu thơm, và giấy bị tịch thu từ nhà của người Hoa, bị vứt hết ra ngoài đường và không ai dám nhặt lên”.
Có một cuộc tranh luận quan trọng về lý do quân Tây Sơn tiến hành cuộc tấn công ghê gớm này và việc cướp bóc tiếp sau đó. Các nguồn tư liệu Việt Nam thế kỷ XIX (trong đó có bộ Đại Nam thực lục) có viết rằng một trong những tướng* thân cận của Nguyễn Nhạc đã bị đạo quân Hòa Nghĩa của Lý Tài sát hại và việc tàn sát người Hoa là hành động trả thù cho cái chết đó. Có thể rằng cuộc tấn công được thúc đẩy bởi lý do tài chánh, một nỗ lực tiêu hủy sự độc quyền thương mại mà người Hoa đã tạo lập ở thành phố này. Ý tưởng cho rằng cuộc tấn công được thúc đẩy bởi động cơ thương mại được nhiều nguồn tài liệu khác tán đồng, chúng ghi rõ chẳng những người Hoa, mà thương nhân Bồ Đào Nha cũng bị sát hại và hàng hóa bị cướp bóc. Việc cướp bóc vật sở hữu trong nhà cửa, tàu thuyền của người Hoa đã chứng minh cho sự giải thích này. Như các tác giả Nguyễn Thế Anh và Choi Byung Wook đã lập luận một cách thuyết phục, có thể mối ác cảm của nhà Tây Sơn đối với cộng đồng người Hoa tăng cao do sự ủng hộ của những người này dành cho chúa Nguyễn. Hành động của nhà Tây Sơn được thúc đẩy bởi sự kết hợp của những yếu tố này, lấy sự trả thù làm cái cớ cho cuộc tấn công. Dù với lý do nào, cuộc thảm sát là một biến động rất ít được các sử gia Việt theo chủ nghĩa Quốc gia hay Mác-xít đề cập đến trong tác phẩm của họ viết về phong trào Tây Sơn, vì điều này làm phức tạp cho việc họ miêu tả nhà Tây Sơn như là những lãnh tụ nhân từ của một phong trào hài hòa về mặt đạo đức.*
Cho dù có những khó khăn trong quan hệ giữa nhà Tây Sơn với người Hoa phản ánh trong vụ thảm sát năm 1782, phong trào này không phải lúc nào cũng tỏ ra thù nghịch với cộng đồng người Hoa, không phải sự căm ghét của Tây Sơn biểu lộ với tất cả người Hoa, Một năm sau vụ thảm sát tại Sài Gòn, các tàu buôn của người Hoa lại cập cảng ở đây để buôn bán. Hơn nữa, binh sĩ người Hoa vẫn tiếp tục hiện diện trong hàng ngũ quân Tây Sơn cho đến năm 1790, và như chúng ta sẽ thấy, nhà Tây Sơn vẫn duy trì quan hệ thân thiện với hải tặc Trung Hoa ở vùng ven biển, vốn là nền tảng của chiến lược quân sự của họ cho đến những ngày cuối cùng của triều đại Tây Sơn. Điều này cho thấy rằng các lãnh tụ Tây Sơn không tiếp tục theo đuổi một chính sách kiên định chống người Hoa và cũng nhấn mạnh quan điểm cho rằng hành động của họ cuối cùng là sự biểu lộ những phản ứng theo thời cơ tùy vào từng hoàn cảnh hơn là sự thực hiện một cách thận trọng một kế hoạch hành động chính trị hay xã hội đặc biệt nào. Thật vậy, trong một nghiên cứu tỉ mỉ về người Hoa ở Đại Việt, Thomas Engelbert đã phát biểu một cách hợp lý rằng nhà Tây Sơn tấn công bất cứ ai mà họ coi là kẻ thù và cuộc thảm sát ở Sài Gòn không tiêu biểu một đường hướng chống người Hoa đặc biệt nào trong phong trào của họ.
Tuy nhiên, vụ tấn công trên phản ánh nỗi khó khăn chung của các lãnh tụ Tây Sơn trong việc nhờ cộng đồng người Hoa ủng hộ cuộc tuyển mộ người ở Đàng Trong. Mặc dù lúc đầu đạo quân nổi dậy có thể tìm được sự ủng hộ của cộng đồng người Hoa sống trong khu vực ven biển Nam-Trung hay miền Trung, họ không thể chuyển sự ủng hộ thành một liên minh thân Tây Sơn hoạt động rộng rãi và lâu bền hơn, trải dài đến những khu vực dân cư sống ở xa hơn về phía nam. Quân Tây Sơn nỗ lực liên tục nhằm thiết lập sự kiểm soát chính trị vững chắc trong khu vực nơi các chúa Nguyễn đã thành lập triều đình lưu vong của họ sau khi buộc phải rời khỏi Phú Xuân vào năm 1774 . Trong cuộc chiến sau đó, như chúng ta đã thấy, khu vực phía nam được sang tay liên tục vào khoảng thời gian giữa những năm 1776 và 1787, khi nhà Tây Sơn không bao giờ có thể thiết lập quyền kiểm soát vững chắc của họ trong một thời gian dài. Cho dù bị buộc phải rời bỏ khu vực tranh chấp nhiều lần, quân nhà Nguyễn cũng đạt được nhiều thắng lợi trong việc thu phục lại một vùng Gia Định có giá trị về mặt kinh tế và chiến lược. Hơn thế nữa, họ có thể tổ chức các lực lượng địa phương trong khu vực này - trong đó có những thành viên ưu tú của cộng đồng người Hoa - với hiệu quả lớn lao hơn so với nhà Tây Sơn.
Có nhiều lý do giải thích tại sao chúa Nguyễn có thể tìm được sự ủng hộ kiên định của cộng đồng người Hoa trong lúc nhà Tây Sơn cũng phấn đấu thực hiện điều này. Trước tiên, các chúa Nguyễn đã vào đến vùng Gia Định gần 18 tháng trước khi những đạo quân Tây Sơn đầu tiên đến đây và họ nắm lấy cơ hội quảng bá lời cam kết và tuyên bố về quyền lực của họ. Họ có thể đề cập một cách có hiệu quả đến tính hợp pháp của họ và chứng tỏ một quyền hành được người dân địa phương hưởng ứng. Một lý do giải thích việc nhà Tây Sơn không có khả năng củng cố sự kiểm soát của họ trong vùng này được nêu ra trong một kiến nghị do Trương Văn Hiến, người thầy và người cố vấn cho vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, gửi đến ông ta:
Gia Định ở xa Phú Xuân, nhân dân chưa bị khổ sở về nạn Trương Phúc Loan, nên không căm thù nhà Nguyễn như người miền Trung. Quân ta vào đánh quân nhà Nguyễn, nhân dân miền Nam coi là cuộc tranh giành quyền vị với nhau, chớ không phải để giải phóng họ. Bởi vậy, bên nào mạnh, được thì họ theo, theo trong nhất thời. Rồi ai được, ai thua, họ bàng quan tọa thị. Do đó, quân ta cứ lấy được Gia Định, rồi lại mất... Muốn giữ đất được lâu bền, thì phải làm thế nào chiếm cho được lòng dân, nhất là lòng của kẻ sĩ.
Như tác giả của kiến nghị này nêu rõ, các lãnh tụ Tây Sơn đã không đánh giá đúng mức tình hình trong vùng cùng những gì đã diễn ra dưới nhà Nguyễn, nên hoàn toàn không để tâm đến những gì ở khu vực nam-trung quanh Qui Nhơn. Ngoài ra, điều này cho thấy rõ tình trạng tương đối ngoại cuộc của nhà Tây Sơn ở vùng cực nam, trong khi quân Nguyễn đến từ vùng chiến trận xa hơn, họ tiêu biểu cho một quyền lực chính trị với một độ tín nhiệm vững chắc trong vùng.
Sự thành công của quân nhà Nguyễn trong việc thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với người Hoa ở khu vực Gia Định có lẽ bắt nguồn từ những hoàn cảnh lịch sự. Mối quan hệ của dòng họ Nguyễn với những cộng đồng này đã diễn ra cách đó hơn một thế kỷ, và có thể ở một mức độ nào đó, sự kiện nhà Nguyễn chấp nhận giúp đỡ những người Minh tị nạn đã góp phần vào việc ủng hộ công cuộc chống Tây Sơn. Cuộc thảm sát người Hoa của Tây Sơn tại Gia Định năm 1782, một phần nhằm trừng phạt việc người Hoa ủng hộ nhà Nguyễn, chỉ tổ đẩy người Hoa đi sâu hơn vào quân ngũ nhà Nguyễn. Cuối cùng, sau khi vĩnh viễn chiếm lại Gia Định năm 1788, Nguyễn Ánh tiến thêm những bước hợp nhất người Hoa vào trong cơ cấu chính trị và quân sự của ông, củng cố vững chắc hơn sự ủng hộ ông trong cộng đồng này. Do đó, cho dù nhà Tây Sơn hình như có được sự ủng hộ ngay từ đầu của những thương nhân hoạt động ven biển và những người theo họ, chính nhà Nguyễn mới là những người có thể thiết lập mối quan hệ lâu bền hơn với cộng đồng rất quan trọng này.
Hình 9: Tháp Chăm ở Chà Bàn. Nằm trên một ngọn đồi ngay giữa trung tâm chính trị của nhà Tây Sơn, đây là một trong nhiều những ngọn tháp ở vùng duyên hải nam-trung, nơi khởi đầu cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn.(Ảnh của tác giả.)
IV.2.3. Nhà Tây Sơn và người Chăm
Trong lúc người Hoa là nhóm sắc tộc nổi bật nhất có dính dáng đến cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn, thì những nhóm sắc tộc khác như người Chăm và những người sống ở vùng cao cũng giữ những vai trò quan trọng. Như đã chỉ rõ ở Chương II, các lãnh tụ Tây Sơn đã dựa vào cộng đồng người Chăm trong những ngày đầu của cuộc nổi dậy, để tìm cả sự ủng hộ về quân sự lẫn sự hỗ trợ trừu tượng hơn về các dấu hiệu và biểu tượng. Việc Tây Sơn dựa vào người Chăm phát xuất từ sự gần nhau giữa nơi nổi dậy với lãnh thổ của các vua Chăm ngày xưa. Ngoài ra, bằng cách xui cho bà công chúa Chăm Thị Hỏa tham gia vào phong trào của họ, các lãnh tụ Tây Sơn có thể đưa một số lượng đáng kể người Chăm vào quân đội của họ. Với người Chăm, nhà Tây Sơn có thể tạo cơ hội cho việc phục hồi một phần sức mạnh chính trị cũ của họ, trong khi với nhà Tây Sơn, người Chăm và các trung tâm chính trị bán tự trị của họ hình thành một vị trí khác của quyền lực chính trị trong cuộc chiến đấu của họ chống lại nhà Nguyễn. Quyết định của Nguyễn Nhạc sử dụng cố đô Vijaya* làm trung tâm chính trị đã phản ánh rõ logic này.
Sự chiếm hữu Vijaya làm kinh đô chính trị cũng như việc Nhạc tịch thu biểu chương của hoàng gia Chăm vào một thời điểm giữa thập niên 1780 cho thấy rằng nhà lãnh đạo Tây Sơn có khuynh hướng lợi dụng người Chăm hơn là phục vụ các lợi ích của họ. Dù vậy, vị vương công Chăm đã bị lãnh đạo cuộc nổi dậy thu lấy biểu chương lại trở thành một liên minh chính trị quan trọng của nhà Tây Sơn. ông ta tham gia cuộc nổi dậy vào khoảng giữa thập niên 1780 và phục vụ cho mục tiêu của nhà Tây Sơn trong gần một thập kỷ, cho đến khi qua đời vào năm 1794. về sau các sử gia chép rằng Chưởng cơ trấn Thuận Thành tên Tá được nhà Nguyễn công nhận như một nhân vật trung tâm quan trọng ở vùng Qui Nhơn, họ liên tục nỗ lực lôi kéo ông ta về phía mình. Sách Đại Nam nhất thống chí mô tả những nỗ lực đó không lâu sau khi Nguyễn Ánh quay về Gia Định: “Năm Mậu Thân (1788), Thế tổ Cao Hoàng đế thu phục Gia Định, nhiều lần dụ bảo, Tá sự tội không dám ra, quân ta đi qua đất ấy nhiều lần bị hại”.
Sự thách thức của Tá có lẽ phản ánh sức mạnh quân sự liên tục của nhà Tây Sơn vào cuối thập niên 1780, đầu thập niên 1790, cho dù các nỗ lực thuyết phục những người Chăm ủng hộ họ cho thấy quyết tâm của họ trong việc đánh phá những liên minh của nhà Tây Sơn.
Khi quyền kiểm soát lãnh thổ của Nguyễn Nhạc suy yếu dần trước sức mạnh ngày càng gia tăng và sự kiểm soát đất đai ngày càng rộng lớn của quân Nguyễn, các lãnh đạo nhà Tây Sơn trì hoãn sự sụp đổ của lãnh thổ Chăm. Năm 1790, có dấu hiệu cho thấy những nhân vật chính trị quan trọng của người Chăm bắt đầu hướng sự ủng hộ của họ vào chúa Nguyễn. Năm 1793, khi quân Nguyễn chiếm lại Bình Thuận, một thị trấn ven biển ở phía nam Nha Trang, một lãnh đạo người Chăm đã dẫn quân của ông ta kết hợp với quân Nguyễn tấn công quân Tây Sơn, để đổi lấy việc chúa Nguyễn công nhận quyền uy của ông ta đối với cư dân Chăm ở địa phương*. Một thư giáo sĩ viết vào năm 1793 đề cập đến tình hình phía nam cũng viết rằng các đạo quân Chăm đã chuyển lòng trung thành của họ sang chúa Nguyễn và đã nổi dậy chống nhà Tây Sơn. Cuối cùng, vương công Chăm tên Tá không chống lại nổi với sự đổi thay này và đã bị một tù trưởng phản bội vào năm 1794, như sách Đại Nam nhất thống chí đã miêu tả:
"Năm Giáp Dần (1794), Tù trưởng Thuận Thành là Nguyễn Văn Hào dẫn đường cho quân đuổi bắt, Tá bị giết. Bèn bỏ hiệu Thuận Thành vương, cho Hào làm Chưởng cơ lãnh Chánh trấn Thuận Thành; Nguyễn Văn Chấn cũng được chức Chưởng cơ làm phó, giao cho chiêu tập nhân dân, hàng năm nộp thuế; lệ vào dinh Bình Thuận”.
Như tài liệu này đã ghi, nhà Tây Sơn đã tương tranh với nhà Nguyễn để tranh thủ lòng trung thành của cộng đồng ngươi Chăm. Nó cũng minh họa sự xung đột về lòng trung thành trong cộng đồng người Chăm rộng lớn. Mặc dù sử nhà Nguyễn mô tả Hào là "tù trưởng”, những chỉ dấu khác cho thấy rằng, cũng như Nguyễn Văn Chấn, ông là một người Chăm (tên Chăm của họ được sử nhà Nguyễn ghi là Thôn ba hú và Bô kha đáo). Cả hai hỗ trợ nhà Nguyễn cũng như nhiều người Chăm khác, tất cả đều được thưởng công bằng việc ban chức tước và giao cho các trọng trách quân sự*.
IV.2.4. Tây Sơn và người Khmer
Một cộng đồng sắc tộc nổi bật khác ở phía nam có liên quan đến cuộc chiến của nhà Tây Sơn là người Khmer. Vùng Gia Định là nơi xung đột nặng nề trong cuộc chiến, đặc biệt vào thập niên 1770 và đầu thập niên 1780, từng là nơi mở rộng của đế quốc Khmer và chỉ đặt dưới sự kiểm soát của nhà Nguyễn vào đầu thế kỷ XVIII. Dù quyền lực chính trị của nhà Nguyễn có mở rộng ở khu vực này, vẫn còn nhiều người Khmer sống ở nhiều nơi trong cùng châu thổ sông Mekong, về hướng lãnh thổ của vương quốc Chân Lạp. Trong thế kỷ XVIII, cả người Khmer sống trên lãnh thổ do người Việt kiểm soát và người Khmer sống trên vương quốc Chân Lạp ngày càng dính líu nhiều vào các vấn đề của người Việt. Sự dính líu này gia tăng trong thời đại Tây Sơn. Vào thập niên 1770 và đầu thập niên 1780, cả quân đội nhà Nguyễn lẫn nhà Tây Sơn đều từng đi vào lãnh thổ Chân Lạp, dính líu vào các cuộc chuyển đổi ngai vàng ở Oudong. Xa hơn nữa, người Khmer ở cả hai vùng biên giới được tuyển mộ vào quân đội của cả hai phía, đôi khi bằng vũ lực. Như học giả Khmer Khin Sok đã kể lại trong một câu chuyện về xứ sở Chân Lạp từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX: “Trong 10 năm - từ năm 1783 đến năm 1794 - Chân Lạp là bãi chiến trường giữa người Xiêm và người Việt; người Khmer bị cả hai bên bắt đi lính và tiếp tục hứng chịu các cuộc tàn sát, hủy hoại và tàn phá”.
Nhà Tây Sơn đã có tham vọng chiếm lãnh thổ Chân Lạp từ ít nhất là vào năm 1778, khi Nguyễn Nhạc giãi bày tham vọng quân sự dài ngày của ông ta với Charles Chapman, trong dịp người Anh này đến thăm kinh đô của nhà Tây Sơn. Vì thế, cuộc xâm lấn Chân Lạp của quân Tây Sơn vào năm 1782 tiêu biểu cho nỗ lực hoàn thành mục tiêu này. Trong lúc quân nổi dậy không thể (hay chọn cách không thể) chiếm giữ một lãnh thổ nào của người Khmer ngay tiếp sau cuộc xâm lấn này, họ đã chấp nhận sự đầu hàng của một số đạo quân Chân Lạp và có thể những lực lượng này đã tham gia vào hàng ngũ Tây Sơn. Cũng có thể rằng nhà Tây Sơn bắt giữ thường dân Khmer để gia tăng quân số của họ, vì con người có giá trị đối với các lãnh đạo Tây Sơn hơn là lãnh thổ Chân Lạp tương đối xa đối với họ. Không lâu sau khi rút khỏi Chân Lạp, anh em Tây Sơn được sự hỗ trợ thêm của một trong những người Khmer đang giành lấy ngai vàng. Ông hoàng này được sử biên niên nhà Nguyễn gọi tên là Tèn, bị buộc phải trốn khỏi kinh đô Chân Lạp ở Oudong, cuối cùng chạy về Gia Định, tại đây ông ta được sự che chở của viên trấn thủ Tây Sơn.
Suốt thời gian còn lại của thập niên 1780, binh lính và các cộng đồng người Khmer tiếp tục về phe của nhà Tây Sơn trong cuộc tranh chấp với nhà Nguyễn. Tuy nhiên, khi Nguyễn Ánh từ Vọng Các (Bangkok) trở về (Gia Định) vào năm 1787, động lực khiến người Khmer dính líu vào cuộc chiến đã thay đổi. Khi quân Nguyễn tiến vào Sài Gòn, Nguyễn Lữ bị buộc phải rút chạy về Qui Nhơn, và điều này đánh dấu sự kết thúc của bất cứ sự tồn tại nào của nhà Tây Sơn tại vùng đất cực nam. Dù vậy, một số ít người Khmer vẫn tiếp tục ủng hộ quân Tây Sơn còn ở lại vùng châu thổ sông Mekong*. Đầu năm 1788, một người Khmer tên ốc Nha Long* tiếp xúc với quân Tây Sơn, mang theo một số ít thuyền. Ông ta chiến-đấu với quân Nguyễn ở Cần Thơ nhưng thua trận. Sách Đại Nam thực lục viết về một người Khmer khác ở vùng sông Mekong là ốc Nha ốc, cũng liên minh với nhà Tây Sơn trong cùng năm 1788. Ông ta được phân nhiệm bảo vệ các vùng chiến thuật Trà Vinh và Mân Thít nằm ở các cửa sông Mekong. Tuy nhiên, sau cái chết của người chỉ huy Tây Sơn của ông ta, Ốc Nha Ốc buộc phải chạy về vùng cần Thơ, nơi cuối cùng ông ta bị bắt và bị giết bởi quân Nguyễn. Cái chết của Ốc đánh dấu sự kết thúc mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn với người Khmer tại vùng Gia Định, về sau, nhà Nguyễn tìm cách thiết lập liên minh với người Khmer trong vùng - hoặc ít nhất để đảm bảo rằng họ không tạo ra những vấn đề phải giải quyết trên cơ sở chính trị mới được thiết lập ở Gia Định*.
IV.2.5. Nhà Tây Sơn và các bộ tộc vùng cao
Dân bản địa sống ở các khu vực cao nguyên cũng bị lôi cuốn vào những cuộc chiến của nhà Tây Sơn. Những nhóm này đã có các mối quan hệ lâu dài với người Việt ở đồng bằng, qua hình thức buôn bán thường xuyên và những trận chiến thỉnh thoảng xảy ra. Tần suất của sự tiếp xúc gia tăng vào các thế kỷ XVII và XVIII*. Trong những ngày đầu làm nghề bán trầu cau, Nguyễn Nhạc đã mở rộng mối quan hệ với nhiều nhóm sắc tộc trong vùng cao nguyên ở phía tây ấp Tây Sơn. Khi anh em Tây Sơn thiết lập căn cứ đầu tiên trên cao nguyên An Khê, những mối quan hệ đang tồn tại ấy tỏ ra hữu ích cho việc lôi cuốn người theo và có được tiềm lực kinh tế và quân sự. Với việc sử dụng vùng đó làm căn cứ, lúc ban đầu, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn dựa nhiều vào những nhóm người sống trên vùng cao nguyên.
Không chỉ đơn thuần là sự gần gũi, mà còn có cả sự ác cảm đối với nhà Nguyễn đã khiến người vùng cao ủng hộ nhà Tây Sơn. Như đã đề cập ở Chương I, gánh nặng thuế khóa ngày càng tăng đối với người dân vùng cao là yếu tố quan trọng góp phần vào sự thù nghịch của họ đối với chế độ nhà Nguyễn. Sự căng thẳng này dẫn tới nhiều cuộc nổi dậy và tấn công cộng đồng dân cư vùng đồng bằng bắt đầu vào thập niên 1750. Khi quân Tây Sơn mở chiến dịch chống lại quân Nguyễn, các nhóm người vùng cao thiết lập các liên minh với quân nổi dậy, đặc biệt nhằm đóng góp kinh nghiệm của họ vào việc tấn công các vị trí của quân Nguyễn. Những nhóm người vùng cao, như người Bahnar, là một nhân tố quan trọng của đạo quân Tây Sơn suốt thập niên 1770, một vị trí mà họ không từ bỏ khi anh em Tây Sơn mở cuộc tấn công Đàng Ngoài năm 1786. Bình luận về việc các bộ tộc khác nhau tham gia vào quân nổi dậy khi đạo quân này xâm nhập miền Bắc vào năm đó, một người Pháp cho biết là các bộ tộc đó gồm có “người Mường, người Man-di và những người mọi rợ khác đến từ Cao Miên (Campuchia), Cambien* và Xiêm, V. V... ”*.
Nhận xét này làm lộ rõ tính cách rất pha tạp của quân Tây Sơn và sự hiện diện liên tục của người vùng cao, và qua thời gian, những người này được tiếp cận bởi binh lính đến từ các vùng biên giới của Đại Việt.
Cũng như với người Hoa, quân Tây Sơn không thể coi sự ủng hộ của người vùng cao là lẽ đương nhiên. Thay vào đó, hầu như ngay từ lúc đầu, họ bị buộc phải chiến đấu với quân Nguyễn, và thậm chí với cả những đội quân độc lập hỗ trợ đạo quân này. Mặc dù quân nổi dậy đạt được thành công trong việc tuyển mộ người vùng cao đứng về phía họ trong những năm đầu của cuộc nổi dậy, cuộc tuyển mộ này cũng đứng trước những thách thức khi những đội quân độc lập khác nổi lên trong đám người trên. Đáng lưu ý nhất trong những nhóm này là đội quân do Châu Văn Tiếp* tuyển mộ. Cũng như Nhạc, Tiếp từng là một nhà buôn có mối liên lạc với người vùng cao và theo sách Đại Nam liệt truyện , Tiếp có quen biết với Nhạc trước khi cuộc nổi dậy xảy ra. Tiếp và người anh của ông lợi dụng mối liên hệ có sẵn để tuyển mộ quân gồm những người vùng cao sống bên trong phủ Phú Yên vào những năm đầu của cuộc xung đột với quân Tây Sơn. Đạo quân này lên đến hơn 1.000 binh lính. Như tác giả Choi đã nêu, đạo quân do Châu Văn Tiếp lập nên hoạt động có hiệu quả như một lực lượng độc lập suốt phần lớn thập niên 1770. Xét chung, nó ủng hộ mục tiêu của chúa Nguyễn, nhưng có những thời điểm nó sát cánh cùng quân Tây Sơn vì lý do chiến lược, đặc biệt là trước năm 1776, khi nhà Tây Sơn còn tuyên bố chiến đấu nhân danh nhà Nguyễn. Sự hiện diện của đạo quân người vùng cao của Tiếp cho thấy rõ một điều là mặc dù nhà Tây Sơn có những tiềm năng đáng kể trong việc tuyển mộ những người này do họ căm hận việc nhà Nguyễn xâm phạm quyền tự trị của họ, song sự thù nghịch này không nhất thiết đảm bảo việc họ ủng hộ nhà Tây Sơn.