KẾT LUẬN NGOÁI LẠI PHÍA SAU VÀ NHÌN VỀ PHÍA TRƯỚC
Các động lực của thời đại Tây Sơn vô cùng phức tạp, phản ánh kinh nghiệm địa lý và lịch sử, và người theo chủ nghĩa đặc thù quan tâm đến các lực lượng chính trị và xã hội đang đấu tranh với nhau. Sự tương tác giữa các lãnh tụ quân nổi dậy với nhiều thành phần thường xuyên xung đột với nhau của xã hội Đại Việt thế kỷ XVIII không thích hợp với những giải thích dễ dàng hay giản lược áp dụng cho nhà Tây Sơn. Phong trào này tác động sâu sắc lên sinh hoạt của những người sống trên các vùng đất Đại Việt và quả thật đã vượt ra ngoài ranh giới của chúng. Nó cho thấy những sự phân ly đã phát triển qua nhiều thế kỷ giữa các nhóm kinh tế-xã hội khác nhau và các thực thể địa chính trị riêng rẽ nổi lên từ sau việc họ Mạc cướp ngôi nhà Lê vào đầu thế kỷ XVI. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn như một sự đề kháng về chính trị và quân sự chống lại cả nhà Lê-Trịnh ở phương Bắc lẫn nhà Nguyễn ở phương Nam đã chia cách xã hội Đại Việt về sau, định hình một số diễn biến chính trị và xã hội thế kỷ XIX.
Nếu những tương tác xã hội phức tạp là tâm điểm của thời kỳ này, sẽ vô cùng khó khăn khi áp dụng một cách gọi đơn giản cho một loạt những sự kiện được phát động bởi cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn. Nó thường được gọi là cuộc nổi dậy của người nông dân, nhưng đó là một cụm từ không chính xác vì những chứng cứ chủ yếu cho thấy những người lãnh đạo của nó không phải là nông dân và rất đông những người ủng hộ ban đầu của nó cũng không phải là những tiểu nông. Hơn nữa, như tôi đã lập luận, chính những người nông dân Việt đã chịu đựng đau khổ gần như tức khắc dưới bàn tay của một chế độ do anh em nhà Tây Sơn thiết lập. Xếp sự kiện này như một phong trào nhân dân cũng còn là chuyện cần phải bàn, vì mặc dù nó bắt nguồn từ một nỗ lực quân sự tập thể, những gì từng là một phong trào (với tính đại chúng cần được bàn lại) đã nhanh chóng trở thành một chính thể, và rồi nhiều chính thể. Năm 1775, Nguyễn Nhạc tự xem mình là một nhà cai trị hơn là người đơn thuần lãnh đạo một “cuộc nổi dậy vì chính nghĩa”, và từ điểm này, sẽ là thiếu khôn ngoan khi nói về các nhà lãnh đạo Tây Sơn và quân đội của họ như một “phong trào”. Nói tóm lại, những sự kiện về thời kỳ Tây Sơn sẽ không dễ được phân loại. Cơ cấu chính trị do các nhà lãnh đạo Tây Sơn huy động hay sử dụng cũng như các mục tiêu của họ tiến triển liên tục. Có điều rõ ràng là nguồn gốc của cuộc nổi dậy nằm trong những thất bại về kinh tế gây ra do nạn tham nhũng trong chính quyền, và việc thực hiện nó được vận dụng bằng sự kết hợp những chính thể đang đứng trước nguy cơ, cùng những kỹ năng về chính trị và quân sự đáng kể của anh em Tây Sơn, và các cố vấn của họ.
Về sau, cái chết của hai anh em có năng lực nhất là Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đã làm cho chính thể nhà Tây Sơn sụp đổ. Động lực mang lại cho họ hàng loạt chiến thắng quân sự đã không còn nữa khi chính thể riêng của họ không thể giải quyết những rắc rối mà họ phải đối mặt. Sự biến vị của cuộc chiến hòa cùng với sự mất mùa và nạn tham nhũng ở Đàng Ngoài đòi hỏi cần có thời gian và lòng kiên trì, mà cả Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đều không có. Thêm vào đó, chính thể của họ đã không được thể chế hóa một cách đầy đủ, cũng không được chấp nhận rộng rãi để đương đầu với thời kỳ chuyển tiếp, tiếp theo cái chết của các lãnh đạo chủ yếu của nhà Tây Sơn. Trong mỗi trường hợp, một vị thái tử trẻ sẽ tiếp bước vua cha với sự hỗ trợ của một quan phụ chánh, người đã gây ra những cuộc đấu tranh trong nội bộ triều đình. Sau cái chết của Huệ và Nhạc, việc cả hai chính thể vẫn tồn tại trong gần một thập kỷ là chứng cứ cho thấy đạo quân ghê gớm mà nhà Tây Sơn đã qui tụ được ít để xảy ra sự chống đối trong nội bộ. Điều đó phần nào cũng do chiến thuật quân sự lệ thuộc vào gió mùa mà đối thủ của họ là chúa Nguyễn Ánh theo đuổi, khiến cho đạo quân của ông chỉ đạt được những bước tiến chậm rãi, nhưng thường là chắc chắn, trong việc thiết lập sự kiểm soát trên những khu vực ngày một rộng lớn hơn của vùng duyên hải phía nam Đại Việt!.
Khi cuối cùng quân Nguyễn Ánh tiến vào Thăng Long vào mùa hè năm 1802, đó là cực điểm của cuộc chiến kéo dài gần một phần tư thế kỷ, để lại những vết thương vật chất và tâm lý trong xã hội Đại Việt. Sau chiến thắng của quân nhà Nguyễn, các nhà lãnh đạo Tây Sơn còn sống sót bị vây ráp, và một số người, trong đó có vua Bảo Hưng* và toàn bộ thành viên gia đình gần gũi nhất của ông ta, cùng nữ tướng lừng danh Bùi Thị Xuân, đều bị xử phân thây. Những người khác, như các đại thần Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích, bị công khai đánh bằng hèo, một hình phạt khiến Nhậm qua đời trong vòng năm đó. Không bằng lòng với việc chỉ trừng phạt những người còn sống, Nguyễn Ánh ra lệnh khai quật hài cốt hai đối thủ lâu năm của ông là Huệ và Nhạc. Kế đó, ông ra lệnh nghiền nát xương cốt của họ thành bột và cho lính đi tiểu vào*. Bằng cách này, Nguyễn Ánh muốn tin chắc rằng thời kỳ của lịch sử Đại Việt được mệnh danh là “thời đại Tây Sơn” đã chấm dứt hoàn toàn.
Chiến thắng cuối cùng của chúa Nguyễn trước kẻ thù lâu năm được coi như đã đánh dấu một chương mới trong lịch sử Việt Nam, sự khởi đầu một triều đại mới (mặc dù tổ tiên của ông đã cai trị một phần đất nước trong tay họ), và một nỗ lực kết nối các xâu chuỗi về địa lý khác biệt nhau tạo nên một vương quốc Việt Nam mới được hợp nhất lại.
Và lúc này, trong lúc với vẻ bề ngoài đang thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo duy nhất, sự chiến thắng của nhà Nguyễn đã không giải quyết được bao nhiêu những xung đột do cuộc nội chiến với nhà Tây Sơn gây ra. Sự bất mãn của giới nông dân kích động cuộc nổi dậy, và chính cuộc nổi dậy làm cho sự bất mãn đó trầm trọng hơn, và nó đã không được chính quyền mới giải quyết một cách thỏa đáng. Có thể sự bất bình của người nông dân mà giáo sĩ Pháp de la Blssachère đã xác định vào đầu thế kỷ XIX đã được nhân rộng trong suốt những thập niên đầu của triều đại nhà Nguyễn. Năm 1802, thời điểm mà nhà Nguyễn nắm lấy quyền hành chính trị từ tay nhà Tây Sơn, phải được coi là việc hình thành một điểm ngắt quãng khá thất thường từ cái nhìn của giới nông dân Đại Việt, vì với họ, điều này cho thấy sự chuyển tiếp giữa các chế độ chẳng có nghĩa lý gì. Tất nhiên là có sự xuống thang trong chiến tranh, nhưng sự lao động nặng nhọc và nhu cầu về quân sự do nhà Tây Sơn áp đặt trong một thời gian dài lại được tiếp tục, và thậm chí còn gia tăng dưới sự cai trị của nhà Nguyễn. Hơn nữa, nhà Nguyễn có thể đánh thuế một cách có hiệu quả hơn những người đi trước họ - và từ cái nhìn của người nông dân, đây là khả năng dẫn đến sự gia tăng tuyệt đối về nhu cầu thuế má*. Người nông dân lớn tiếng kêu ca về tình trạng sưu cao thuế nặng từ những người được xem là cứu tinh của họ, và sự kiện hàng trăm nông dân và những người nổi dậy khác không thừa nhận triều Gia Long - vài trường hợp có đến hàng ngàn người tham gia “cho thấy rằng trong một số lãnh vực, triều đại này còn yếu kém hơn so với những người Tây Sơn đi trước họ.*
Vả lại, không chỉ người nông dân tỏ ra lo ngại với chính quyền mới, mà chính quyền này còn phải đương đầu với những phía khác nữa. Những người trung thành với nhà Tây Sơn tiếp tục tìm cách gây ra sự bất ổn, cho dù nhà Nguyễn có những nỗ lực rất cứng rắn trong việc xóa đi những tàn tích của chính thể Tây Sơn. Nỗ lực của triều đại mới theo hướng này tiếp tục đối mặt với những sự nhắc nhở về nhà Tây Sơn, cả về mặt vật chất lẫn tâm lý. Mặc dù nhà Nguyễn có thể phá vỡ một số kiến trúc do nhà Tây Sơn dựng lên, họ vẫn không thể chấm dứt việc sử dụng đồng tiền do nhà Tây Sơn đã đúc ra. Những đồng tiền đó mang tên của ba anh em nhà Tây Sơn, là sự nhắc nhở bền bỉ về triều đại này ngay sau khi nó đã bị lật đổ. Nỗ lực của nhà Nguyễn nhằm ngưng sử dụng những đồng tiền này khá hạn chế và không hiệu quả, phản ánh qua việc phải chờ đến một chỉ dụ ban hành vào năm 1839 cấm việc lưu hành đồng tiền này, về mặt tâm lý, nhà Nguyễn cũng phải đương đầu với những hồi ức mạnh mẽ về nhà Tây Sơn, cho dù chúng được lãng mạn hóa theo thời gian. Như đã lưu ý ở Chương III, có những dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy rằng mặc dù nhiều nông dân không cảm thấy hạnh phúc do những khó khăn trong đời sống dưới chính quyền Tây Sơn, cũng những người nông dân này cảm thấy bất mãn với nhà Nguyễn, và ít nhất một số người so sánh thấy sự cai trị của nhà Tây Sơn tốt hơn nhà Nguyễn. Sự kiện nhà Tây Sơn và những hồi ức về chế độ này tiếp tục ám ảnh nhà Nguyễn có lẽ thể hiện ở việc họ tiếp tục truy đuổi những thành viên còn sót lại của dòng họ này vào thập niên 1830. Khi hai người con và người cháu còn lại của vua Thái Đức bị truy bắt được, họ bị hành hình ngay tức khắc.
Nhưng không chỉ có di tích của nhà Tây Sơn và những hồi ức về họ làm cho nhà Nguyễn lo lắng. Còn có những thách thức nghiêm trọng hơn xuất phát từ những người tiếp tục chứng tỏ lòng trung thành với nhà Lê, lòng trung thành mà một số ít nho sĩ và nhiều người khác vẫn giữ lấy suốt những năm dưới triều đại Tây Sơn. Nhiều người trong số những nho sĩ trung thành với nhà Lê này hi vọng chúa Nguyễn sẽ phục hồi nhà Lê, hi vọng vào tuyên ngôn được ban bố từ lâu là nhà Nguyễn chiến đấu nhân danh triều đại này. Khi chúa Nguyễn nắm lấy quyền hành bằng chính danh nghĩa của mình sau khi loại bỏ nhà Tây Sơn vào năm 1802, những người đặt hi vọng vào nhà Nguyễn cảm thấy bị phản bội. Một số nổi lên làm loạn, từng thời kỳ trong suốt nhiều thập niên đầu của thế kỷ XIX, một số cuộc nổi dậy có thể được xác định là hoặc phát sinh bên trong hàng ngũ những người trung thành với nhà Lê, hoặc được sự ủng hộ của họ. Những nho sĩ khác chọn cách đơn giản là ẩn dật, đã quyết định không phục vụ nhà Tây Sơn, và rồi cũng không muốn ủng hộ nhà Nguyễn mới lên. Những người này về sau còn cảm thấy đau đớn khi Thăng Long đã mất đi quy chế của một kinh đô chính trị và được xếp vào hàng thứ hai khi nhà Nguyễn nâng Phú Xuân lên tầm của một trung tâm quyền uy mới*. Trong lúc đó, Gia Định (Sài Gòn), một trung tâm chính trị và kinh tế tương đối mới, đã trở về với chính mình trong cuộc chiến của nhà Nguyễn chống lại nhà Tây Sơn, càng ngày càng có nhiều ảnh hưởng thách thức ưu thế của hai thành phố khác. Căng thẳng chính trị giữa những trung tâm quyền lực chính trị phức tạp này, ít nhất cũng đã đóng góp một phần vào những chủ nghĩa địa phương khá rõ nét vào những thế kỷ XIX và XX về sau.
Đương đầu với những nguồn đề kháng phức tạp này, triều Nguyễn không bao giờ thành công hoàn toàn trong kế hoạch xây dựng một vương quốc thống nhất và ổn định. Lúc ban đầu, tính chính thống của họ khá mong manh và ngay cả một kế hoạch dài hạn nhằm xây dựng một tính chính thống Nho giáo với vẻ bề ngoài trau chuốt thông qua thi cử, cấu trúc chính quyền, và tất cả các loại sử chép và những bảng phả hệ, cũng chỉ đến mức nào đó thôi Hơn nữa, nhà Nguyễn tự thấy là họ đang làm chủ một lãnh thổ không bao giờ được cai trị như một vương quốc thống nhất. Mặc dù họ Trịnh đã vượt qua giới hạn con sông Gianh vào năm 1774 và sau đó, nhà Tây Sơn kết liễu họ Trịnh vào năm 1786, những hành động đó đều không hợp nhất lãnh thổ Đại Việt một cách có hiệu quả. Thật vậy, việc nhà Tây Sơn chinh phục vùng đất phía bắc cuối cùng cũng chỉ tạo ra một sự phân ly phản ánh cả mưu chước chính trị lẫn thực tế lịch sử. Như thế, nhà Nguyễn thừa hưởng một lãnh thổ vẫn còn sự chia rẽ sâu sắc, một tình trạng mà chính quyền mới mẻ này tìm cách giải quyết thông qua mưu định cai trị hiệu quả một đất nước có ba vùng riêng biệt.
Bản thân các vua nhà Nguyễn cũng chỉ kiểm soát trực tiếp miền Trung, các tướng lãnh cai trị những vùng đất phía bắc và phía nam*. Điều đó hầu như không phải là mẫu hình hợp nhất chính trị và lãnh thổ, và sự phân chia tiếp tục đặt ra nhiều khó khăn cho chính thể mới trong suốt triều đại của vị hoàng đế thứ nhất là vua Gia Long (1802-1820), và hơn một thập niên dưới triều người con và là người kế tục ông là vua Minh Mạng (1820-1841)* .
Những cuộc chiến sau khi nhà Tây Sơn đã bị tiêu diệt diễn ra trong lãnh vực chép sử, trong đó những giải thích đầy tranh cãi về cuộc nổi dậy và những chế độ mà nó dựng lên đã được đề cập đến trong suốt thế kỷ XIX. Nhà Nguyễn tìm cách mô tả nhà Tây Sơn như những kẻ nổi loạn, bọn trộm cướp, không bao giờ có tính chính thống về mặt chính trị, ngay cả khi họ vấp phải một sự thực rắc rối là có không ít những quan chức phục vụ cho triều đại của họ trước đó đã từng trung thành với nhà Tây Sơn. Hơn nữa, trong lúc nhà Nguyễn chỉ thị viết chính sử theo cách của họ, họ cũng không thể kiểm soát hết lịch sử không chính thống được các nho sĩ viết riêng phần họ. Khi triều Nguyễn suy vi, và bắt đầu chế độ thực dân của Pháp, người ta tiếp tục giải thích lại về thời kỳ Tây Sơn, dành cho vua Quang Trung một công trạng lớn hơn, ít nhất do những nỗ lực của ông nhằm xây dựng một quốc gia thống nhất và đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh năm 1789. Vì thế, nhà Nguyễn tiếp tục bị ám ảnh về nhà Tây Sơn ở nhiều mức độ khác nhau.
Cho dù nhà Nguyễn tự mô tả họ như những người thừa kế trực tiếp của nhà Lê và thậm chí không công nhận một nhà Tây Sơn có tính chuyển tiếp, họ cũng không thể phủ nhận sự kiện nhà Tây Sơn đã lật đổ nhà Lê và cai trị phần lớn đất nước trong hơn một thập kỷ và để lại những dấu ấn không thể xóa nhòa.
Cho dù những thành tựu cụ thể như thế nào và di sản nó để lại cho người kế tục ra sao, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn cũng thu hút trí tưởng tượng của những thế hệ mai sau " cả giới nho sĩ lẫn giới nông dân “ mỗi giới nhìn thấy một tính chất anh hùng nào đó trong các đạo quân hùng mạnh của thời đại này. Thời gian và những thất bại hiển nhiên của nhà Nguyễn giúp đánh bóng hình ảnh của nhà Tây Sơn nổi lên sau khi họ bị tiêu diệt. Tuy nhiên, trong công trình nghiên cứu này, tôi đã thử nhìn nhà Tây Sơn từ viễn cảnh của thế kỷ XVIII mà không từ những thế kỷ XIX, XX hay XXI. Khi làm như thế, tôi đã cố tách khỏi cách chép sử có tính phê phán quá đáng của nhà Nguyễn, và cũng tách khỏi cách viết tiểu sử các vị thánh của những nhà lãnh đạo cuộc nổi dậy, và sự vinh danh những người nông dân cao thượng đã trở thành chủ đề nổi bật của phần lớn giới học thuật cuối thế kỷ XX. Tôi hi vọng rằng điều này có thể cho phép tôi miêu tả chi tiết những nỗi khó khăn kéo dài trong phần lớn các giai đoạn của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, trong lúc khai thác những động lực chi phối hành động của những người lãnh đạo cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn và những người đương đầu với cuộc nổi dậy đó trong ba thập kỷ xáo động mà nó đã tạo ra.