Chu Thich
...
George Dutton, The Tây Sơn Uprising, University of Hawai’i Press, Honolulu, 2006, ÉE. 121-122.
George Dutton, The Tây Sơn uprising, sđd, tr. 13.
George Dutton, The Tây Sơn uprising, sđd, tr. 223.
George Dutton, The Tây Sơn uprising, sđd, tr. 227-228.
George Dutton, The Tây Sơn uprising, sđđ, tr. 116.
George Dutton, The Tây Sơn Uprising, sđd, tr. 58.
George Dutton, The Tây Sơn Uprising, sđd, tr. 114-115.
Nguyên văn: provincial Capital of Qui Nhơn (cước chú của người dịch, về sau viết tắt là ND).
Theo Đại Nam liệt truyện, quan Tuần phủ Qui Nhơn lúc này là Nguyên Khắc Tuyên - ND. Đoạn tường thuật này, dưới nhiều bản dịch khác nhau, được tìm thấy từ nhiều nguồn: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, Đỗ Mộng Khương dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 493. Chỉ tiết hơn một chút có thể tìm thấy Vong: Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1998, tr. 92; Đại Việt sử kỷ tực biên, Ngô Thế Long " Nguyễn Kim Hung dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr. 359 - Dutton.
P. Lorenzo Pérez, "La Révolte et la guerre des Tayson d'après les Franciscains Espagnols de Cochinchme" (Sự nổi dậy và cuộc chiến của nhà Tây Sơn theo người Pháp và người Tây Ban Nha ở Đàng Trong), M. Villa dịch, Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, XII, số 3-4, 1940, tr. 74. Do mưu lược này, quân Tây Sơn được biết đến như là "đạo quân ó" (“hissingarmles". Từ này chính Dutton dịch ra tiếng Việt ở trang 42 trong nguyên tác). Chi tiết về khăn đỏ tìm thấy trong: Lê Quý Đôn toàn tập , tập I, Phủ biên tạp lục, Đỗ Mộng Khương dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 76.
Lê Quý Đôn toàn tập, tập I, Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 312.
“Trại chủ" là danh xưng chính thức của Nguyễn Nhạc khi mới nổi dậy, nguyên văn của Dutton là “chief of brigand” - ND.
Philippe Sérard gửi Pierre-Antoine Blandin, 8.1787, Văn khố Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris (dưới đây viết tắt là MEP) 691, tr. 1044.
Pierre-Yves Manguin, Les Nguyễn, Macau et le Portugal: Aspects politiques et commerciaux d'une relation privilégiée en Mer de Chine 1773-1802 (Nhà Nguyễn, Macau và xứ Bồ Đào Nha: Các khía cạnh chính trị và thương mại của một mối quan hệ đặc biệt tại biển Đông 1773-1802), École Française d'Extrême-Orient (Viện Viễn Đông bác cổ), Paris, 1984, tr. 100.
Jean-Prançois Le Roy gửi Blandin, 3.7.1789, MEP 692, tr. 112; Charles La Mothe gửi Blandin, 20.1.1790, MEP 692, tr. 158.
Li Tana, “An Altemative Vietnam? The Nguyên Kingdom in the Seventeenth and Eighteenth Centuries” (Một Việt Nam khác - Vương triều Nguyễn trong các thế kỷXVII và XVIII), Journal of Southeast Asian Studies (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á) 29,.no. 1 (3.1998). tr. 119.
Alexander Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in thepirst Half of the Nineteenth Century (Việt Nam và mô hình Trung Hoa; Một nghiên cứu so sánh các chính phủ Việt Nam và Trung Hoa vào nửa đầu thế kỷ XIX), Harvard University Press, Cambridge, 1971, tr. 4.
Về sau, Alexander Woodside có viết một quyển sách mỏng, không xuất bản, nhan đề: The Tay-son Revolution in Southeast Asian History (Cuộc cách mạng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Đông Nam Á), Comell University Library, 1976. Tác phẩm này đua ra những nhận thức sắc sảo về những mảng rộng lớn hơn của thời kỳ Tây Sơn và những miêu tả về sau của cuộc nổi dậy, cho dù yếu tố chưa xuất bản khiến cho ảnh hưởng về mặt học thuật của nó rất hạn chế).
David Marr, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925 (Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân, 1885-1925), University of California Press, Berkeley, 1971.
David Marr, Vietnamese Tradition on Trial , 1920-1945 (Truyền thống Việt Nam trong cơn thử thách, 1920-1945), University of California Press, Berkeley, 1981.
Li Tana , Nguyễn Cochinchina; Southern Vietnam in the Seventeenth and Bighteenth Centuries (Chúa Nguyễn ở Đàng Trong: Đàng Trong thế kỷ XVII vàXVlll), Cornell Umversity Southeast Asia Program, Ithaca, New York, 1998, tr. 41.
Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, sđđ, tr. 147.
Charles Maybon, Histoire modeme du pays d’Annam (1592-1820) (Lịch sử cận đại xứ An Nam, 1592-1820), Plon-Nourrit et Cie, Paris, 1919.
Lê Thành Khôi, Le Vietnam: Histoise ei civilisation (Việt Nam: Lịch sử và nền văn minh), Editions de Minuit, Paris, 1955, tr. 296-322.
Philippe Langlet, l’ancienne Historiographie d'état au Vietnam (Phép chép sử ở Việt Nam khi xưa), quyển 1, Raisons d’être, condition d'élaboration et caractères au siècle des Nguyễn (Lý do tồn tại, những điều kiện phát triển và các đặc tính của thời Nguyễn), École Prançaise d'Extrême-Orient, Paris, 1990.
Yang Baoyun, Contribution à l’histoire de la principauté des Nguyên au Vietnam méridional (1600-1775) (Sự đóng góp vào lịch sử của vương quốc các chúa Nguyễn tại Đàng Trong, 1600-1775), Edittons OIizane, Geneva, 1992.
Để có được mội sự miêu tả chi tiết quan niệm của triều Nguyễn về vấn đề này, xin xem: Quách Tấn - Quách Giao, Nhà Tây Sơn, Sở Vãn hóa và Thông tin Nghĩa Bỉnh, Qui Nhơn, 1988, tr. 234-249. Mặt khác, cần ghi nhận rằng nhà Nguyễn không tiêu hủy một cách bừa bãi mọi tư liệu về nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Ánh ra lệnh đặc biệt cho quân đội của ông không thiêu hủy toàn bộ các tài liệu công của nhà Tây Sơn mà thu thập chúng lại để xác định xem chúng có chứa đựng những thông tin quan trọng không. Xin xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 497.
David Marr, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925, sđd, tr. 23, ghi chú 1.
Nguyên văn của Dutton được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt: “bandits" (tặc) - ND.
Nguyên văn của Dutton là: “rebels” (giặc) - ND.
Những chi tiết này có thể tìm thấy trong tiểu sử của ba anh em nhà Tây Sơn trong: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 491-492.
Philippe Langlet, l’ancienne Historiographie d’etatau Vietnam, quyển I, Raisons d’être, condittons d’élaboration et caractèm au siècle des Nguyễn, sđd, tr. 15.
Nola Cooke, “The Myth of the Restoration: Dang-Trong Influences in the Spiritual Life of the Early Nguyen Dynasty (1802-47)” (Huyền thoại về sự phục hưng: Ảnh hưởng của Đàng Trong trong đời sống tinh thần của thời kỳ đầu triều Nguyễn, 1802-1847), trong: Anthony Reid (chủ biên), The LastStand of Asian Autonomies:Responses to Modemity in perse States of 'Southeast Asia and Korea, 1750-1900, Macmillan, London, 1997, tr. 271.
Tên Bình Định chỉ được đặt ra trong giai đoạn cuối của cuộc nội chiến nhà Nguyễn - nhà Tây Sơn, vùng này trước có tên là Qui Nhơn - ND.
Xem: Nguyễn Bá Huân, Tây Sơn văn thần liệt truyện , Ty Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, Qui Nhơn, 1979; Nguyễn Bá Huân, "Cân quắc anh hùng truyện”, trong: Phan Huy Lê, Tư liệu về Tây Sơn-Nguyễn Huệ trên đất Nghĩa Bình , Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, Qui Nhơn, 1988, tr. 172-194. Tài liệu sau viết về nữ tướng Bùi Thị Xuân. Cả hai tác phẩm này được biên soạn vào nửa sau thế kỷ XIX.
Xem: Dã sử, VHb. 263, Viện Hán Nôm, Hà Nội; Ngô Cao láng, Lịch triều tạp kỷ, Hoa Bằng và Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995; Bùi Dương Lịch, Lê quý dật sử, Phạm Văn Thắm dịch, Nxb- Khoa học xã hội, Hà Nội, -1987.
Xem "Lời giới thiệu" năm 1905 của Thiện Đình trong: Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 9; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tập 2, Nxb. Xuân Thu (in lại), California, 1990, tr. 127-128.
Xem: Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tập 2, sđd, tr. 129; Phan Bội Châu, Việt Nam vong quốc sử, Nguyên Quang Tô dịch, Nxb. Xuân Thu (in lại), Houston, Texas, tr. 23.
Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Quan hải tùng thư, Huế, 1938; Nxb. Xuân Thu (in lại), Houston, Texas, tr. 321.
Hai cụm từ “cách mạng” và “phong trào nông dân", tác giả viết bằng tiếng Việt kèm theo nguyên ngữ - ND.
Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn , Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958; Trần Huy Liệu, “Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ”, Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa, số 14 (2-1956), tr. 30-44.
Xem: Trần Thị Vĩnh, “Tìm hiểu về tổ chức nhà nước thời Tây Sơn", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số I (244), 1-2/1989, tr. 42-47.
Nguyễn Lương Bích, Quang Trung-Nguyễn Huệ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1989; Nguyễn Duy Hình, “Những suy nghĩ về nhà Tây Sơn", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1(244), 1-2/1989, tr 20-27.
Nguyên văn: exceptionalism - ND.
Do vị trí nằm phía trên sông Linh Giang, vùng lãnh thổ này đôi khi cũng được quen gọi là Bắc hà. Về cuộc thảo luận về nguồn gốc và việc sử dụng các từ “Đàng Ngoài” và "Đàng Trong", xin xem: Keith Taylor, "Surface Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region" (Định hướng bề nổi tại Việt Nam: Bên ngoài những câu chuyện về đất nước và vùng miền), Joumai of Asian Studies (Tạp chí Nghiên cứu châu Á), số 4 (1998), tr- 958-959.
Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Năm 1527, ông giữ chức Đô Chỉ huy sứ dưới triều vua Lê Uy Mục - ND.
Nhiều tài liệu chép Trịnh Kiểm sinh năm 1503 - ND.
Chỉ Nguyễn Kim - ND.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 26 - Dutton. Người này có tên Dương Chấp Nhất - ND.
Trên thực tế, Nguyễn Hoàng chỉ vào làm Trấn thủ Thuận Hóa thôi, vì lúc bấy giờ (1558), Quảng Nam đã có Trấn thủ là Bùi Tá Hán. Mãi đến năm 1568, sau khi họ Bùi qua đời, Nguyễn Hoàng mới kiêm luôn trấn Quảng Nam - ND.
Sự phức tạp trong chuyến đi về Nam của Nguyễn Hoàng và sự miêu tả trong lịch sử Việt Nam được Keith Taylor kể chi tiết trong “Nguyên Hoang and the Beglnning of Vietnam’s Southward Expansion" (Nguyễn Hoàng và sự khởi đầu cuộc Nam tiến của Việt Nam), trong: Anthony Reid (chủ biên), in Southeast Asia in the Early Modern Era: Trade, Power and Belief Comell University Press, Ithaca, N.Y và Lonđon, 1993, tr. 42- 65; xem thêm: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục , tập Một, sđd, tr. 27-28.
Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, sđđ, tr. 22.
Lúc này đứng đầu họ Trịnh là Trịnh Tùng, cháu gọi Nguyễn Hoàng là cậu ruột - ND.
Keith Taylor, “Nguyên Hoang and the Beginring otVietmn’s Southward Expansion", tlđd, tr. 45, 64. Nola Cooke không thừa nhận lập luận của Taylor, cho rằng vào thế kỷ XVII, nhà Nguyễn tiếp tục dự tính quay lại phương Bắc; xem: Noia Cooke, “Regionalism and the Nature of Nguyên Rule In Seventeenth-Century Dang Trong (Cochinchina)" (Chủ nghĩa địa phương và bản chất của chính quyền nhà Nguyễn tại Đàng Trong thế kỷ XVIII), Journal of Southeast Asian Studies29, no. 1 (3-1998), tr. 122-161.
Tức Nguyễn Phúc (Phước) Nguyên - ND-
Lời tuyên bố này được làm nhẹ đi bằng cách cho rằng không thể nộp tiền thuế do điều kiện thời tiết khiến cho năng suất mùa màng sụt giảm. Tuy nhiên, có vẻ như sự bào chữa này chỉ là một cách nói để tránh một cuộc tấn công có thể xảy ra của chúa Trịnh. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 41.
Lê Thành Khôi, Histoire du VietNam, des origines à 1858, sđd, tr. 255-256.
Chỉ tiết tóm lược về dòng họ các anh em Tây Sơn có thể tìm thấy trong: Quách Tấn - Quách Giao, Nha Tây Sơn, sđđ, tr. 17. Xem thêm: Minh Đô sử, Hv. 285, Viện Sử học, Hà Nội, quyển 5, tờ 74a-b.
Minh Đô sử sđd, quyển 5, tờ 74a; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 491; Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, sđd, tr. 28.
Quách Tấn - Quách Giao (Nhà Tây Sơn, sđd, tr. 20-23) cho tên người cha là Nguyễn Phi Phúc. Xem chương trình cưỡng bách tái định cư của gia đình trong: Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 2, Hoa Bằng - Phạm Trọng Điềm - Trần Văn Giáp dịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 719-720 - Dotton. Ở đây tác giả dùng từ “ village of Tây Sơn”, có chỗ tác giả viết là ấp Tây Sơn ( hamlet of Tây Sơn) – ND
Tức sông Gianh - ND.
Qua thế kỷ XVIII, một cơ chế quan liêu được thiết lập dần, mặc dù điều này vẫn còn tương đối ít quan trọng trong việc xác định đường hướng chính trị của nhà nước.
Ngay cả khi Tả quân Lê Văn Duyệt đã vào trấn nhậm Gia Định thành (từ Bình Thuận trở vào Nam), mỗi khi "Mọi Đá Vách” nổi dậy, triều đình lại cử ông trở ra Quảng Nam để đối phó, và hầu như chỉ có ông dẹp được những cuộc nổi dậy này - ND.
Chỉ chúa Nguyên Phúc Chu (1691-1725) - ND.
Về sự thay đổi danh hiệu và tước hiệu, xin xem: Lê Quý Đôn toàn tập, tập I, Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 67-68. Có thể xem cuộc thảo luận tỉ mỉ về động lực dẫn đến sự tự trị ở tài liệu đánh máy “Tây Sơn” của Maurice Durand, Yale University Library, New Haven, tr. 11-24.
Chỉ chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) - ND.
Song các chúa Nguyễn vẫn tiếp tục sử dụng niên hiệu của vua Lê trong các giấy tờ chính thức đến năm 1802, mặc dù triều Lê đã cáo chung từ năm 1788 - ND.
Quyết định của họ Trịnh giữ các vua Lê làm bung xung được cho là xuất phát từ Nguyên Bỉnh Khiêm, một danh sĩ ở Hải Dương được xem là quân sư cho nhiều nhân vật chính trị thế kỷ XVI. Xem: Trần Thiều, “Giữ chùa thờ Bụt mà ăn oản: Vì sao họ Trịnh không dứt nghiệp nhả Lê?", Tạp chí Xưa & Nay 53, số 7 (1998), tr. 38-39.
Xin xem tuyên cáo bằng chữ Nôm của Lê Duy Mật nhắc lại công trạng của nhà Lê và kể tội dòng họ Trịnh: “Tài liệu tham khảo: Hịch của Lê Duy Mật kể tội họ Trịnh", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 108,3-1968, tr. 58-59.
Thời kỳ nắm quyền của chúa Trịnh Doanh được miêu tả rõ trong: Lê Thành Khôi, Histoire du Viet Nam , des origines à 1858, sđd, tr. 307-309. Để có một cái nhìn ngắn gọn về những gì Trịnh Sâm đã làm được, xin xem: Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, sđd, tr. 178.
Như sẽ nói rõ ở Chương IV, khái niệm “cải đạo ” khá phức tạp, và trong bối cảnh Việt Nam, ít khi có nghĩa là việc bỏ một tôn giáo sẵn có, mà đúng hơn là bổ sung một đạo mới.
Phan Đại Doãn, Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, -Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 65; xem thêm: David Man, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925 , sđd, tr. 52-53. Vào thế kỷ XVIII, số người đỗ đạt gia tăng xuất phát từ các vùng quanh thành Thăng Long, vì thế họ không hoàn toàn tách rời khỏi kinh đô. Mặt khác, ngay những người sống trong chu vi của Thăng Long cũng có gốc rễ từ nông thôn, làng xã.
Quan điểm này được nêu trong Kinh thư , xem: Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, sđd, tr. 461; về Ngô Thì Nhậm, xem: Nguyễn Tài Thư (chú biên), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, sđd, tr. 461-462.
Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tứ, Mình Tân, Paris, 1952, tr. 141-142.
Chữ Nôm xuất phát từ chữ Hán, kết hợp chữ viết và các chi tiết phụ của chữ Hán để diễn tả nghĩa và cách đọc theo âm của người Việt.
Một bản tóm lược các vấn đề văn hóa thế kỷ XVIII có nêu trong: Lê Thành Khôi, Histoire du Viet Nam, desoriginesà 1858, sđd, tr. 286ff.
Một quan lại nhà Nguyễn là Ngô Thế Lân có bình phẩm đặc biệt về hậu quả của những biến đổi sâu sắc về dân số và lãnh thổ ở vương quốc nhà Nguyễn, trong một kiến nghị gửi đến phủ chúa. Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thục lục, tập Một, sữd, tr. 175.
Hay Xiêm La, Tiêm La, nay là Thái Lan - ND.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục , tập Một, sđd, tr. 163-164.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 171ff.
Hay Điến Điện, nay là Myanmar - ND.
Có thể đọc văn kiện này trong: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 175. Để có thể thảo luận rộng rãi hơn về vấn đề này, xin đọc: Li Tana, Nguyễn Cochìnchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, sđđ, tr. 94-98.
Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eigkteenth Centurỉes, sđd, tr. 146; Lê Quý Đôn toàn tập, tập I Phủ biên tạp lục, sđd, ư. 240-241 liệt kê nhiều loại tàu vận chuyển khác nhau, nêu rõ là Qui Nhơn có nhiều tàu ghé nhất.
Đây là Định vương Nguyễn Phúc Thuần, con thứ của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát - ND.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 173.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục , tập Một, sđd, tr. 170, miêu tả các nỗ lực của Trương Phúc Loan nhằm nâng mức thuế ở những khu vực này.
Của nhà Tây Sơn - ND.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát giữ nghiệp chúa những năm 1738-1765 - ND.
Hưng Tổ có tên Nguyễn Phúc Luân, cha ruột Nguyễn Ánh, được cha là Võ vương chọn làm người kế nghiệp - ND.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 1, sđd, tr. 202.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 173; Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, 1558-1777, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970, tr. 250-251.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 202; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 170 - Dutton. Tức Võ vương Nguyễn Phúc Khoát - ND.
Đầu năm 1776, Lê Quý Đôn (trong: Lê Quý Đôn toàn tập, tập I, Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 70-71) đã quy cho những khó khăn mà chính quyền Đàng Trong gặp phải, và đặc biệt cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, là do các chính sách và hành động của Trương Phúc Loan. Cũng xin xem: Đại Việt sử ký tục biên, sđd, tr. 375, trong đó tướng chỉ huy cuộc xâm lấn của quân Trịnh buộc tội Loan một cách gay gắt.
Người dịch chép lại nguyên văn đoạn này trong Đại Nam thực lục (tập Một, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 173). Bản tiếng Anh của tác giả Dutton cũng dịch từ nguồn tư liệu trên, song có hai nhầm lẫn lớn: một là phần đầu của đoạn trích "dẫu được chúa thân yêu, nhưng chi say mê tửu sắc, không để ý đến việc nước” đề cập đến Nội hữu chưởng dinh Tôn Thất Nghiễm và chưởng Thủy cơ Tôn Thất Viên mà Dutton lại hiểu nhầm là viết về Trương Phúc Loan; hai là từ “trăm họ” trong nguyên tác Đại Nam thực lục, Dutton dịch ra tiếng Anh là “hundred sumames” (!) - ND.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 173.
Ám chỉ vùng đất Đàng Trong của chúa Nguyễn - ND.
Chuỗi sự kiện này được miêu tả chi tiết trong: Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđđ, tr. 29-58 và sẽ được dẫn lại ở Chương II.
Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 91; Đại Việt sử ký tục biên, sđd, tr. 358; Nam sử , VHv. 2743, Viện Hán Nôm, Hà Nội, tờ 34b, chép rõ hơn khi cho rằng Nguyễn Nhạc đã thua bạc hết khoản tiền này.
Mặc dù thời điểm năm 1771 khó xác định rõ, nó được Đại Nam liệt truyện (tập 2, sđđ, tr. 492) ghi là năm Tân Mão. Nhiều nhà viết sử khác vào thế kỷ XIX bắt đầu viết về nhà Tây Sơn từ năm 1773, khi quân nổi dậy tấn công Qui Nhơn.
Nguyên văn bằng tiếng Việt trong tác phẩm của Dutton - ND.
Sử nhà Nguyễn chép rằng việc không thể tiếp cận khu vực này là lý do họ thất bại trong việc đàn áp phong trào Tây Sơn vào những năm đầu tiên. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 177.
Taylor (trong: “Suriace Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region", tlđd, tr. 964) đã miêu tả vị trí then chốt của An Khê ở điểm giao nhau của những con đường vận chuyển và buôn bán. Một khảo sát chi tiết về vai trò quan trọng của vùng cao này trong bài viết của: Vũ Minh Giang, "Tây Sơn thượng đạo, căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa”, trong: Nam Hà - Vũ Mình Giang - Nguyễn Đổng Chi, Góp phần tìm hiểu phong trào nông dân Tây Sơn Nguyễn Huệ, Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình, Qui Nhơn, tr. 22-32. Cũng xin xem: Li Tana, Nguyễn Cochinchina : Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighieenth Centuries, sđđ, tr. 123.
P. Lorenzo Pérez, “La Révolte et la guerre des Tayson d'après les Franciscains Espagnols de Cochinchine”, tlđd, tr. 74.
Lúc này là Định vương Nguyễn Phúc Thuần - ND.
Hoàng Ngũ Phúc - ND.
Theo một số tài liệu khác, người em nhỏ nhất là Nguyễn Huệ" ND.
Thái Thượng vương Nguyên Phúc Thuần và Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương bị sát hại trong dịp này - ND.
Năm 1777, Nguyễn Ánh mới 15 tuổi -ND.
Tức đảo Thổ Châu - ND.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđđ, tr. 205.
Tháng 4 âm lịch (về sau viết tắt là AL) năm 1782, tướng giỏi của Nguyễn Nhạc là Phạm Ngạn bị đạo quân Hòa Nghĩa theo Nguyên Ánh, phần lớn là người Hoa, sát hại trong một trận đánh tại cầu Tham Lương, Sài Gòn, nhà Tây Sơn đã giận cá chém thớt, sát hại hàng ngàn cư dân người Hoa để trả thù - ND.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 214.
Lê Hiển Tông - ND.
Vua Lê Hỉển Tông phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên súy Dực chính Phù vận Uy Quốc công và gả con gái là Lê Thị Ngọc Hân cho - ND.
Nhân vật này tên Lê Duy Kỳ, cháu vua Lê Hiển Tông, lên ngôi với niên hiệu Chiêu Thống - ND.
Hầu hết các sử liệu khác chép là Vũ Văn Nhậm - ND.
Nhiều tài liệu phủ nhận con số này, cho rằng chỉ vào khoang vài mươi ngàn quân Thanh - ND.
Chuỗi sự kiện được miêu tả chỉ tiết trong Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 2, sđd, tr. 194.
Theo nhiều tài liệu, nhân vật này là Phạm Công Trị, song gần đây có tác giả chứng minh rằng người đi sang Trung Quốc là vua Quang Trang thật - ND.
Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, sđd, tr. 149. Có sự tranh cãi về chuyện ai là người đóng thế vua Quang Trung. Đại Việt quốc thư (Đình Thụ Hoàng Văn Hòe dịch, Trung tâm học liệu, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1987), tr. 356-357, chép rằng người đóng thế có thể là một ngươi ở Nghệ An giống với nhà vua.
Những cuộc thảo luận chi tiết về quan hệ Việt-Hoa vào thời kỳ này, xin xem: Quang Trung: Anh hùng dân tộc, 1788-1792, sđđ, tr. 208-260; cũng xin xem: Trương Bửu Lâm, “Intervention versus Tribute in Sino-Vietnamese Relations, 1788-1790” (Sự can thiệp về lệ triều cống trong quan hệ Hoa-Việt, 1788-1790), trong: John K. Fairbank (chủ biên), The Chinese World Order, Harvard University Press, Cambridge, 1968, ư. 165-179.
Nguyễn Huệ sinh năm 1753, chỉ tiết này đúng nếu tính theo tuổi ta - ND.
Có tài liệu ghi ông sinh năm 1783, tức lúc lên ngôi mới 9 tuổi - ND.
Theo một số tài liệu, bà hoàng hậu này tên Bùi Thị Nhạn, em ruột Bùi Đắc Tuyên. Một số tài liệu khác lại cho biết bà họ Phạm - ND.
Người Việt gọi ông là Bá Đa Lộc - ND.
Theo tinh thần hiệp ước Versailles ký kết ngày 28.11.1787 giữa Bá Đa Lộc, thay mặt chúa Nguyễn Ánh và Thượng thư bộ Ngoại giao Montmorin, thay mặt Pháp hoàng Louis XVI thì Pháp giúp chúa Nguyễn 4 thuyền chiến, 1.200 lính bộ binh, 200 lính pháo binh, và 250 lính Cafres, đổi lại, Nguyên Ánh nhường cho Pháp đảo Côn Lôn (Poulo Condore) và một hòn đảo ở cửa vào cảng Hội An - ND.
Một bản tường thuật về chuyến đi sang Pháp của Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh, và những gì sau đó, có thể đọc trong: George Taboulet, La Geste pranaise en Indochine, Histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, tập 1, Librarie d’Amerique et d'Onent, Paris, 1955, tr. 163-279 - Dutton. (Nhân vật đó là bá tước De Conway, tống chỉ huy quân đội Pháp trong vùng Ấn Độ Dương - ND.)
Thư Bá Đa Lộc gửi cho Denis Boiret, 18.7.1792, MEP746, tr. 395.
Nhiều thư của các giáo sĩ kể về chuyện nhà Tây Sơn cố tuyển mộ "ông Tín” (Olivier). Thư Langlois gửi Boiret, 20.7.1795, MSP692, tr. 652.
Tức vua Cảnh Thịnh - ND.
Thư Lavoue gửi Boiret và Descourvières, 13.5.1795, MEP 746, tr. 465.
Tức hoàng đế Quang Trung - ND.
Nguyễn thị Tây Sơn ký , A- 3138, Viện Hán Nôm, Hà Nội, tờ 38a.
Sự đàn áp đó cùng nguyên nhân và hậu quả của nó sẽ được đề cập đến trong Chương IV.
Durand, "Tây Sơn”, tlđd, tr. 210-216, đặc biệt ở trang cuối có miêu tả vai trò quan trọng của thành Diên Khánh.
Theo chính sử và nhiều tư liệu khác, Bá Đa Lộc qua đời vào tháng 10.1799 - ND.
Trần Huy Liệu, "Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyên Huệ”, Tập san nghiên cứu Văn Sử Đia, số 14 (2.1956), tr. 30-44; Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, Nxb- Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958.
Nhiều phong trào nhân dân ở Xiêm, Miến Điện, Chân Lạp, Đông Ân, Philippines và Trung Hoa vào các thế kỷ XVIII và XIX được hình thành từ các ý thức hệ tôn giáo, gồm có Phật giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo. Chúng gồm có Bạch Liên giáo, Nghĩa Hòa Đoàn và Thái Bình ở Trung Quốc; ở Đông Nam Á, có những cuộc nổi dậy của người dân ở Miến Điện và Xiêm kích động bởi Phật giáo, ở Java bởi Hồi giáo, và ở Philippines bởi Thiên Chúa giáo.
Bà Hồ Tài Huệ Tâm, hiện là giáo sư sử học Việt Nam tại trường Đại học Harvard (Mỹ). Bà Huệ Tâm là ái nữ học giả, nhà hoạt động chính trị Hồ Hữu Tường - ND.
Hue-Tam Ho Tai, Millenarianism and Peasant politics in Vietnam (Chủ thuyết thiên niên và chính sách về người nông dân tại Việt Nam), Harvard University Press, Cambridge, 1983, tr. 5.
Nguyễn Khắc Đạm, “Tại sao các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Việt Nam ít có màu sắc tôn giáo?”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 81,12.1965, tr. 8-10.
Nguyên văn của tác giả - NĐ.
“Ba vị” là ba anh em nhà Tây Sơn. Tác gỉả dùng cụm từ "these three worthies" có hàm ý mỉa mai - ND.
John Barrow, A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793, sđđ, tr. 251. Các từ “nhà buôn", “tướng” và “thầy tu" nhằm ám chỉ ba anh em Tây Sơn Nhạc, Huệ, Lữ, theo thứ tự.
Từ bằng tiếng Việt của tác giả kèm theo tiếng Anh “virtuous king" - ND.
Hồ Quý Ly có hai người cô lấy vua Trần Minh Tông, một người sinh ra vua Trần Nghệ Tông, một người sinh ra vua Trần Duệ Tông, tất nhiên hai ông vua này là anh (em) cô cậu ruột với Hồ Quý Ly - ND.
Xin xem: John Whitmore, “Chung-Hsing and Cheng- Tung in Texts of and on Sixteenth - Century Vietnam” (Chung-Hsing và Cheng-Tung trong tài liệu của Việt Nam thế kỷ XVI), trong: K. W. Taylor - John K. Whitmore (chủ biên), Essays into Vietnamese Pasts, sđd, tr. 116-136.
Từ này, tác giả viết là "under he a ven” (dưới trời) chúng tôi ngờ rằng ông đã dịch từ hai chữ "thiên hạ” - ND.
Michael Adas, Prophets of Rebellion: Millenarian Movements against the European Colonial Order (Những lời tiên tri về cuộc nổi dậy: các phong trào thiên niên chống lại chế độ thực dân châu Âu), University of North Carolina Press, Chapel Hill, 1979, tr. 112.
Nguyên văn của Dutton bằng tiếng Việt - ND.
Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1997, tr. 108.
Thế kỷ XVIII và XIX, sử gọi là người Y Pha Nho - ND.
Chữ Việt trong nguyên tác của Dutton - ND.
Thư Pigneau gửi các giám đốc Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris, 5.6.1776, Tân huấn thư của các phái bộ Trung Hoa và Đông Ân, tập 6, tr. 293.
Charles Chapman, “Chapman's narrative of his mission to Vietnam" (Tường thuật của Chapman về sứ mạng của ông tại Việt Nam), trong: Alistair Lamb, Mandarin Road to Old Hue (Đường quan lộ đến Huế xưa), Archon Books, London, 1970, tr. 94-95. Đây rõ ràng là một lời chú giải trong đó từ “God" được Chapman giải thích phù hơp với cách nói của giới giáo sĩ phương Tây về chữ “trời” trong cách hiểu cũ của người Việt về từ này.
Vua Lê Hiển Tông (1740-1786) - ND.
Gần như chắc chắn Nguyễn Huệ cho rằng gió mùa tạo thuận lợi cho một cuộc viễn chinh bằng đường biển vào thời điểm này trong năm.
Để thảo luận xa hơn về vai trò của Ngô Thì Nhậm khi soạn thảo chỉ dụ này, xin xem: Alexander Woodside, “Ciassical Primordialism and the Historical Agendas of Vietnamese Confudanism" (Thuyết nguyên thủy lãnh điển và tiến trình lịch sử của Khổng giáo Việt Nam”, trong: Benjamin A. Elraan - John B. Duncan - Herman Ooms (đồng chủ biên), Rethinking Confucianism: Pastand Present in China, Japan, Korea, and Vietnam (Nghĩ lạl về Khổng giáo: Quá khứ và Hiện tại ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam), UCLA Asian Pacific Monograph Series, Los Angeles, 2002, tr. 120.
Nguyễn Cẩm Thúy - Nguyễn Phạm Hùng, Văn thơ Nôm thời Tây Sơn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 265. “Hội Thuận ứng thế đừng được chớ...” Có lẽ chỉ dụ này do kẻ đã phản lại chúa Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh soạn cho họ.
Quốc sử quán triều Nguyên, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 491. Từ “phía bắc” trong lời tiên tri này không rõ ràng, có thể giải thích là kinh đô nhà Nguyễn ở Phú Xuân hoặc kinh thành Thăng Long của nhà Lê.
Tác giả Dutton không đề cập đến con rùa thần ở hồ Hoàn Kiếm là sinh vật đã trao gươm cho Lê Lợi và về sau lấy gươm đi - ND.
Arthur là vua nước Anh. Theo truyền thuyết, ông đã nghe theo lời pháp sư Merlin, rút thanh kiếm báu Excalibur trong phiến đá và sau lên làm vua - ND.
Những mẩu chuyện về Tây Sơn , Ty Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bỉnh, Qui Nhơn, 1979, tr. 9-10; Lê Xuân Lít, “Lòng dân đối với cuộc khởi nghĩa Tây Sơn”, trong: Nam Hà -Vũ Minh Giang - Nguyễn Đổng Chi, Góp phần tìm hiểu phong trào nông dân Tây Sơn Nguyễn Huệ, sđd, tr. 289-290. Một chi tiết khác nói về Nguyễn Huệ thay vì anh của ông, và lần này ông tìm thấy trong con gà không phải một chuôi gươm mà là một chiếc ấn vàng.
Tức Nguyễn Huệ - ND.
Quách Tấn, "Di tích và truyền thuyết về nhà Tây Sơn”, Tập san Sử Địa, số 9, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1968, tr. 175. Đao hình rồng là biểu tượng của vua. Ý tưởng về một sinh vật kỳ diệu trao lưỡi kiếm gợi nhớ lại chuyện con rùa thần trao gươm cho Lê Lợi trong cuộc chiến đấu chống quân Tàu của ông vào thế kỷ XV. Rõ ràng là một lần nữa, Nguyễn Huệ được xem là một thành phần của dòng dõi anh hùng Việt Nam ra đời để giúp nước.
Quách Tấn, “Di tích và truyền thuyết về nhà Tây Sơn”, tlđd, tr. 172. Ý tưởng về sự xuất hiện những từ ngữ có tính thiêng liêng không chỉ riêng về nhà Tây Sơn. Câu chuyện này có nét giống lúc mới khởi phát cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV. Tài liệu đó ghi rằng, người cố vấn thân cận của vị lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Nguyễn Trãi đã dùng mỡ khắc câu “Lẽ Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” lên thân cây. Sau một thời gian, côn trùng và những con vật khác ăn chất mỡ đi, câu trên hiện ra trên vỏ cây như có phép kỳ điệu nào. Các tài liệu kể về chuyện này không hoàn toàn giống nhau, ý niệm về một lời tiên tri xuất hiện một cách kỳ diệu có liên quan đến hai truyện kể. Xem: Lê Thành Khôi, Histoire du Viet Nam, des origines à 1858, sđd, tr. 207 - Dutton. Theo một số nguồn sử liệu khác, câu "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi ví thần” được viết bằng mỡ trên lá cây và thả trôi theo dòng nước - ND.
Câu chuyện này không rõ nguồn gốc, được tìm thấy trong: Những mẩu chuyện về Tây Sơn, sđd. tr. 31-32.
Tiếng Việt trong nguyên tác của tác giả - NĐ.
Khái niệm kinh tế đạo đức (moral economy) được sử gia người Anh E.P. Thomson nêu ra từ một cách nói được nhiều tác giả vào thế kỷ XVIII sử dụng. Thompson viết về nền kinh tế đạo đức của người nghèo trong bối cảnh những cuộc náo loạn về lương thực lan tràn ở vùng nông thôn nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII Theo Thompson, những cuộc náo loạn này chứng tỏ một phản ứng bắt nguồn từ quyền được định giá những mật hàng thiết yếu trên thị trường. Những người nông dân tham gia cuộc náo loạn chủ trương rằng một “giá cả phải chăng" theo truyền thống quan trọng hơn giá thị trường “ tự do" và họ trừng phạt những chủ nông trại lớn bán sản phẩm với giá cao bên ngoài làng xã, trong khi bên trong làng xã, người dân vẫn còn cần đến chúng - ND.
"Tài liệu tham khảo: Hịch của Lê Duy Mật kể tội họ Trịnh”, tlđd, tr. 58-59.
Về sau, đạo quân Hòa Nghĩa về hàng chúa Nguyễn Ánh, lập nhiều công lớn. Năm 1782, họ chém tướng Tây Sơn Phạm Ngạn tại cầu Tham Lương, Gia Định; nhà Tây Sơn đã giận cá chém thớt, sát hại mấy ngàn người Hoa tại Sài Gòn, bất luận dân hay lính, thây chất đầy sông, cả mấy tháng trời người dân Sài Gòn không dám ăn tôm cá" ND.
Không rõ là tên gọi mới này được sử dụng rộng rãi như thế nào. Trong lúc khá nhiều nguồn tư liệu có ghi nhận sự thay đổi tên gọi này, một số tư liệu hiện đại lại không gọi vùng đô bằng cái tên nào khác là Nghệ An.
Có thể tìm thấy các từ này trong thời gian từ năm 1784 đến năm 1792. Xem: Thư Langenois gửi Jean-Jacques Descourvieres, 30.6.1784, MEP 800, tr. 1776; “Journal de la Procure de Macao en 1784" (Nhật ký của Linh mục quản lý Tu viện Macao năm 1784), MEP 306, tr. 929; “Journal de ce qui s'est passe de plus remarquable dans la misslon du Tong-king, depuis le mois de juiliet 1786 jusqu’à mois de julliet 1787” (Nhật ký về những gì đáng lưu ý nhất trong sứ bộ Đông Kinh, từ tháng 7.1786 đến tháng 7.1787), MEP 691, tr. 899-900; Thư Jean Labartette gửi Denis Boiret, 22.3.1787, trong: Nouvelles lettres (Những lá thư mới), tập 6, tr. 2; Thư de Gortyne gửi Pierre-Antoine Blandin, 21.12.1792, MEP 692, tr. 405.
"Journal de ce qui s’est passe de pius remarquable dans la mission du Tong-king, depuis le mois de mai 1785 jusqu'à mois de juin 1786" (Nhật ký về những gì đáng lưu ý nhất trong sứ bộ Đông Kinh, từ tháng 5.1785 đến tháng 6.1786), MSP 691, tr. 668, 899-900, miêu tả việc người giàu cố thủ trong nhà trong thời điểm xảy ra nạn đói để tránh việc bị đòi nộp lương thực.
Sau khi Võ vương qua đời, người con thứ hai của ông là Chương Võ được chỉ định kế nghiệp. Tuy nhiên, có lẽ do sự can thiệp của Trương Phúc Loan, người con thứ 16 của chúa là Định vương được kế nghiệp. Sự chọn lựa này loại ra ngoài một người có khả năng kế nghiệp khác tên Hiệu, khi Chương Võ qua đời chỉ một thời gian ngắn sau cái chết của Võ vương. Khi Nguyễn Nhạc nổi dậy, ông ta ủng hộ Đông cung Dương, là con của Thế tử Hiệu, được chỉ định làm người kế nghiệp. Alistair Lamb, Mandarin Road to Old Hue, tr. 88-89, ghi chú 2.
Tức Nguyễn Phúc Dương, con trai thế tử Nguyên Phúc Hiệu (con thứ chín Võ vương Nguyễn Phúc Khoát), mất năm 1760, được Võ vương truy tặng tước Thái Bảo Quận công - ND.
Tư liệu của nhà Nguyễn ghi rằng chính Hiến đã thúc giục Nguyễn Nhạc tự coi mình là người đang thực hiện lời tiên tri nhắm đến “một cuộc nổi dậy ở phía tây”, vì thế không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy có liên quan đến mưu lược đề ra các khẩu hiệu chính trị hoặc các mục tiêu trong thời kỳ đầu của cuộc nổi dậy.
Khá thú vị là điều này phản ánh hoàn toàn những hành động của Trương Phúc Loan, vì Loan đã gả con gái cho vị đông cung trẻ tuổi mà ông ta mưu định đưa lên ngôi chúa.
Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 148; tác giả P. Lorenzo Pérez (trong; "La Révolte et la guerre des Tayson d'après les Pranciscains Espagnols de Cochinchme”, tlđd, tr. 85) kể về trường hợp một giáo sĩ Tây Ban Nha đã viết rằng: "Dương không muốn lấy người được giới thiệu với ông làm vợ, song vốn là một người cẩn trọng, để tránh rắc rối lớn cho mình, ông đã giữ con gái Nhạc trong nhà trong sáu tháng, mà không hề sống chung với cô ta, cũng không cho cô ta được lên giường của ông hay ngồi chung bàn với ông".
Minh Đô sử , sđđ, quyển 5, tờ 75a; xin xem thêm: Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, sđd, tr. 108- Có vẻ như điều này cho thấy đây là lần duy nhất trong lịch sử Việt Nam có một chữ bị cấm kỵ do ác cảm với một cá nhân, thay vì bảo vệ tính bất khả xâm phạm của danh tánh trong hoàng tộc.
Bình Nam thực lục (qn), DC. 79, Tras. (photocopy) Thư viện tỉnh Bình Định, Qui Nhơn, tr. 12-17. Bình Nam thực lục là tác phẩm chi tiết, cận đại của họ Trịnh đề cập đến cuộc viễn chinh của họ về phía nam. Chúa Trịnh Sâm đã ra lệnh viết cuốn này và in dưới dạng mộc bản vào cuối thập niên 1770, đầu thập niên 1780 - Dutton. Trong số những tướng Trịnh qua đời, có Hoàng Ngũ Phúc, người cầm đầu quân Trịnh đánh vào Thuận Hóa - ND.
Tôi xin cảm ơn Nola Cooke đã nêu lên rằng, đây là danh hiệu cũ của Nguyễn Hoàng. Việc sử dụng những từ như “duke”, như một cố gắng tìm từ song hành của người Âu, rõ ràng là có vấn đề. Tuy nhiên, việc sử dụng cách dịch như thế trong một thời gian dài, cũng như việc thiếu một sự lựa chọn phù hợp, cho thấy rằng cách dịch tốt nhất, cho dù không hoàn hảo, có thể là cách dịch theo tập quán.
Lịch sử Việt Nam đương đại đề cập nhiều đến mỉ quan hệ ban đầu của nhà Tây Sơn với người dân cao nguyên, được diễn tả bằng những chuyện kể dân gian thu thập được. Chẳng hạn như có thể xem: Nguyễn Dương Bình, “Vài suy nghĩ về phong trào nông dân Tây Sơn với các dân tộc ít người và căn cứ địa miền núi", trong: Tây Sơn Nguyễn Huệ (Kỷ yếu hội nghị nghiên cứu phong trào nông dân Tây Sơn), Ty Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, Qui Nhơn, 25.2-28.2.1978, tr. 142-146. Tuy nhiên, các tài liệu bằng chữ viết rất ít đề cập đến những mối quan hệ ấy, do đó khó mà đưa ra những nhận định dứt khoát về mối quan hệ mà các lãnh tụ Tây Sơn đã khai triển với những nhóm người này.
Quốc sử quán triều. Nguyền, Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Phạm Trọng Điềm dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế,, 1996, tr. 143. Chức Chưởng cơ ở đây hình như được sử dụng như một chức danh chính trị chung. Thời điểm của sự chuyển giao không rõ ràng, nhưng có lẽ là vào đầu thập niên 1780.
Không hiểu sao Nguyễn Nhạc lại tự xưng là cha, rồi lại là anh cả của tiểu vương Chăm, có thể là trong hai trường hợp khác nhau chăng? - ND.
Chỉ Nguyễn Nhạc - ND.
Xem: Nguyễn thị Tây Sơn ký, A.3138,sdd, tờ 4b,6a. Để hiểu chi tiết về vị trí này xin xem: Phan Huy Lê, “Di tích thành Hoàng Đế”, trong: Phan Huy Lê, tìm về cội nguồn, Nxb Thế giới, Hà nội 1998, tr 103-123 và Chiêm Thành khảo. A.970 viện Hán Nôm.
Sau khi Nguyễn Nhạc qua đời, cháu kêu ông bằng bác là vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toàn, con trai hoàng đế Quang Trung, chỉ phong người con nối đõỉ của Nhạc là Nguyền Bảo tước Hiếu công, cắt mỗi huyện Phù Ly cho làm thực ấp. Như vậy từ năm 1793, vua Cảnh Thịnh nắm hết quyền hành và đất đai từ Qui Nhơn ra đến đất bắc - ND.
Về chỉ tiết này, có lẽ tác giả đã nhầm, vì vị vua Chăm từng cưới công chúa Đại Việt (như Nguyễn Huệ) là Chế Mân, chứ không phăi Chế Bồng Nga - ND
Việc gọi Nguyễn Nhạc là Thiên Vương tìm thấy trong: Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 93; cũng có trong: Nguyễn thị Tây Sơn ký , A. 3138, sdđ, tờ 5a. Sách Đại Việt sử ký tục biên (sđd, tr. 416-421) miêu tả sự khó chịu của chúa Trịnh trước hành động của nhà Tây Sơn, và cũng ghi lại rằng triều đình nhà Lê tiếp tục ban chiếu chỉ và chức tước cho vị lãnh tụ Tây Sơn.
Cho dù các chúa Nguyễn đã công bố sự tự trị, không lệ thuộc vào nhà Lê từ năm 1744, song họ vẫn tiếp tục sử dụng niên hiệu của vua Lê trong các văn kiện và lịch.
Về việc chúa Nguyễn tiếp tục sử dụng niên hiệu của vua Lê, xin xem: Nola Cooke, “Regionalism and the Nature of Nguyên Rule in Seventeenth-Century Dang Trong (Cochinchina)'', tlđd, tr. 161, ghi chú 201.
Ý tác giả muốn nói đến kinh đô cũ của người Chăm là Vijaya - ND.
Theo lệ của các cung đình thời Lê-Trịnh, triều phục màu vàng chỉ dành cho vua; chúa Trịnh chỉ mặc trang phục màu tía - ND.
"Journal de la Procure de Macao en 1784” (Nhật ký của Quản lý tu viện Macao năm 1784), MEP 306, tr. 928-929. Sự kiện này được miêu tả chỉ tiết ở Chương IV.
“Phù Lê Diệt Trịnh". Đây không phải là lần đầu tiên một biểu ngữ có khẩn hiệu như thế được giương lên ở phía bắc. Trong một chiến địch kéo dài vào những thập niên 1730-1760, Lê Duy Mật đã dùng khẩu hiệu y như thế.
Cảnh Hưng là niên hiệu của vua Lê Hiển Tông (1740-1786) -ND.
Trên thực tế, tuy cùng danh hiệu Đại Nguyên Soái, song chúa Trịnh được phong tước Vương, còn Nguyễn Huệ chỉ được phong tước Quốc công - ND.
“Xem: Nguyễn Thu, Lê quý kỷ sự, Hoa Bằng dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, tr. 39; Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 133; Đại Việt sứ ký tục biên, sđd, tr. 468.
Vài nguồn tư liệu cho rằng Nguyễn Hữu Chỉnh đã gợi ý Nguyễn Huệ đua ra lời xin cầu hôn. Xem: Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 133. Đại Việt sử ký tục biên (sđd, tr. 468) cho rằng Chỉnh thúc giục vua Lê gả công chúa (Ngọc Hân - ND) mà không có lời cầu hôn trước của Huệ; Nguyễn Thu, trong Lê quý kỷ sự (sđd, tr. 39) thì cho rằng Huệ ra lệnh cho Chỉnh gửi lời cầu hôn nhân danh ông.
Đó là Đông cung Nguyễn Phúc Dương, về sau bị chính quân Tây Sơn bức tử - ND.
Về trường hợp này, Dutton đã nhầm giữa Chế Mân và Chế Bồng Nga, như đã lưu ý ở trên. Bà công chúa Việt ở đây là Huyền Trân công chúa - ND.
Đúng ra tên của người cháu vua Lê Hiển Tông là Lê Duy Kỳ, Mãn Đế chỉ là miếu hiệu của ông sau khi chết - ND.
Vua Lê Chiêu Thống sinh năm 1765, lúc lên ngôi cũng đã 21 tuổi - ND.
Có lẽ vì sợ sự đe dọa của quân Tây Sơn, vừa lên ngôi, vua Lê Chiêu Thống đã sử dụng trở lại người của dòng họ Trịnh, phong Trịnh Bồng làm Án Đô vương, tái lập phủ chúa Trịnh - ND.
Từ "kẻ phản bội” dùng ám chỉ Nguyễn Hữu Chỉnh - ND.
Vài tài liệu của các giáo sĩ Pháp đưa ra giả thuyết là chính công chúa Ngọc Hân thúc ép Huệ ra Bắc trong chiến dịch năm 1787 chống lại Chỉnh. Xem: "Journal de ce qui s’est passe de plus remarquable dans la mission du Tong-king, depuls le mols de juiliet 1786 jusqu'il mols de juillet 1787” (Nhật ký những gì đáng nhớ diễn ra trong chuyến đi Đông Kinh, từ tháng 7.1786 đến tháng 7.1787), MEP 691, tr. 899.
Nhiều tài liệu Việt gọi Võ Văn Nhậm là phò mã (rể vua).
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện , tập 2, sđd, tr. 511. Nguồn tư liệu này đưa ra giả thuyết là Huệ đã sẵn nghi ngờ Nhậm, cho dù đã cử Nhậm ra Bắc.
Có tài liệu cho rằng một thời gian ngắn trước khi xử Nhậm, Huệ đã nói với Nhậm "về chuyện này không cần phải nói nhiều; ông có tài hơn cả tôi và là vậy, ông không phải là người mà tôi có thể dùng”. Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 2, sđd, tr. 834.
Tướng nhà Thanh tuyên bố rằng đạo quân của ông ta có 500.000 người (Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 2, sđđ, tr. 162). Theo một giáo sĩ châu Âu, con số đó là 36.000. Thư Boisserand gửi Blandin, 14-3.1789, MEP 746, tr. 237. Quách Tấn và Quách Giao (trong: Nhà Tây Sơn, sđd, tr. 122) và Đại Nam liệt truyện (tập 2, sđd, tr. 515) đưa ra con số 200.000. Charles La Mo the, trong một bức thư gửi Blandin, ước lượng quân Thanh 300.000 (Thư La Mothe gửi Blandin, 7.1789, MBP 692, tr. 135).
Vào thời điểm này, đất Gia Định đã nằm trong tay chúa Nguyễn Ánh - ND.
Dù trong chiếu lên ngôi, Nguyễn Huệ mô tả lãnh địa của người anh (Nguyễn Nhạc - NĐ) thu hẹp chỉ còn là phủ Qui Nhơn.
Việc Nguyễn Ánh nhất định tiếp tục sử dụng niên hiệu Cảnh Hưng (của vua Lê Hiển Tông - ND) tạo được ấn tượng đến nỗi ông được một số quan sát viên đương thời người châu Âu đề cập đến ông bằng cách dùng niên hiệu “Caung Shung”. Xem: John Barrow, A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793 , sđd, tr. 256ff.
Trương Bửu Lâm, Partenis of Viemamese Respome to Foreign Interưention, 1858-1900 (Những mô hình phản ứng của Việt Nam trước sự can thiệp từ bên ngoài, 1858-1900), Yale University Southeast Asian Studies, New Haven, Connecticut, 1967, tr. 63-64.
Thư từ vua Quang Trung trao đổi với nhà Thanh có thể đọc trong: Đại Việt quốc thư , sđd, tr. 67.
Đó là sự kiện quân Trịnh dưới sự chỉ huy của tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh chiếm kinh đô Huế của nhà Nguyễn - ND.
Tức Thăng Long và Phú Xuân - ND.
Chẳng hạn như Ngô Thì Nhậm là anh vợ Phan Huy ích và học với Lê Quý Đôn. Nguyễn Du là em rể Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?). Ninh Tốn (1743-?), một nho sĩ nổi tiếng đất Bắc, đã nhận được những bài thơ tán tụng hoặc những bài viết giới thiệu tác phẩm văn chương của ông từ các cây bút Phạm Nguyễn Du, Phan Huy ích, Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn (1749-1800), Đoán Nguyễn Tuấn, Nguyên Thế Lịch (1748-1817), và Vũ Huy Đỉnh (1730-1789). Ngoại trừ Vũ Huy Tấn, những người khác đều đã đỗ tiến sĩ. Hoàng Lê (chủ biên), Thơ văn Ninh Tốn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 17.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục (tập 2, sđđ, tr. 835) đặc biệt lưu ý việc Huệ ép buộc các quan lại triều Lê ký tờ thỉnh nguyện ông lên ngôi vua. Sách Đại Việt sử ký tục biên (sđđ, tr. 479) chép rằng Huệ triệu tập các quan lại triều Lê lại song không nói đến tờ thỉnh nguyện có tính ép buộc kia. Một nguồn tư liệu kể rằng khi (Bùi Huy) Bích không chịu ký, Huệ lấy làm khó chịu và tìm người khác ký thay. Xem: Trúc Khê, Bùi Huy Bích: Danh nhân truyện ký, Nxb. Hà Nộí, Hà Nội, 1998, ư. 55-56.
Một quan lại có tiếng của nhà Lê là Ngô Trọng Khuê dùng câu này trong một bức thư gửi vua Quang Trung, miêu tả thái độ của nhiều quan lại triều Lê. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 4, sđđ, tr. 41.
Ngô Thì Nhậm, Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển II, sđđ, tr. 124.
Trong các nguồn tư liệu, sách ĐạiNam thực lục (tập Một, sđd, tr. 258) dù không phải là không có thiên kiến, đã viết rằng, hoàng đế nhà Thanh cảm thấy hổ thẹn vì đã bị người Việt đánh bại.
Ám chỉ việc Nguyễn Nhạc gả con gái là Thọ Hương cho hoàng tôn Nguyên Phúc Dương - ND.
Sự thúc đẩy dẫn đến yêu cầu của Nguyễn Huệ được mô tả trong Tây Sơn thuật lược (sđd, tr. 16) khi xảy ra cái chết của một trong những bà vợ chánh của ông vào năm 1791.
(MEP 746, tr. 542), gián tiếp đề cập đến kế hoạch đó, chép rằng vua Quang Trung "có thể dễ dàng làm chủ Trung Quốc”; Thư vô danh gửi Pigneau ngày 7.7.1792 (MEP 313, tr. 983), viết về vua Quang Trang rằng: “ông không tính toán gì hơn ngoài việc chiến tranh với người Tàu".
Attila (406-453) là tên ngưởi lãnh đạo đạo quân Hung Nô, một bộ tộc du mục ở châu Á vào thế kỷ V.
Trong thư, ông giáo sĩ này đã dùng từ “tyran" (bạo chúa) để nói về vua Quang Trung - ND.
Về chi tiết này xem ra tác giả bức thư nói quá đáng, vì theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, đạo quân của vua Quang Trung đã là 10 vạn người, nếu là tỷ lệ 10/1 thì đạo quân Thanh phải 100 vạn, tức 1 triệu người - ND.
Giáo sĩ này là La Mothe, thư gửi cho Blanđin, không rõ vì sao dùng từ “kinh đô của chúng ta" (our Capital). Người thay thế vua Quang Trung đi sứ nhà Thanh được cho là Phạm Công Trị - NĐ.
Thư La Mothe gửi Blandin, 20.1.1790, MEP 692, tr. 158.
Hình như Keith Taylor nhắm đến quan điểm có tính địa phương này trong bình luận của ông về “sự định hướng bề ngoài" của vùng Bình Định và ảnh hưởng của nó lên cái nhìn của anh em nhà Tây Sơn. Xem: Keith Taylor, “Surtace Orientations In Vietnam: Beyond Histories of Nation and Reglon", tlđd, tr. 965.
Thư Le Roy gửi Blandin, 6.1789, MEP692, tr. 112.
Tác giả dùng từ “Todder” (cỏ khô) - ND.
Ý nói chế độ ở Đàng Trong năm 1775 và chế độ ở Đàng Ngoài năm 1788 - ND.
Tức Nguyễn Ánh - ND.
Tất nhiên khó mà xác định qui mô và phạm vi của hành động lẩn tránh này, song sức mạnh tương đối hạn chế của chính quyền địa phương cho thấy rằng loại hành vi này thường xảy ra.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđđ, tr. 49; xem thêm: Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, 1558-1777, sđd, tr. 482. [ tàng tật : Nguyên văn trong sách ghi thế (người làm ebook)]
Việc hình thành những phương thức được các cơ chế phân loại dần sử dụng ở phía bắc vào thế kỷ XIX có thể xem trong: Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí , tập 3, sđd, tr. 48-53.
Thành viên những gia đình trong bộ máy hành chánh-chính trị ở địa phương của họ được miễn nghĩa vụ quân sự.
Mặc dù sự khai thác có hệ thống những người dưới 18 tuổi có vẻ như là sáng kiến của nhà Tây Sơn, có một số chỉ dấu cho thấy rằng những bên khác trong cuộc xung đột cũng sử dụng các binh lính trẻ tuổi, cho dù không thường xuyên như thế. Xem Lê quý dật sử (sđd, tr. 66) miêu tả quân Trịnh trông giống như “những trẻ trâu".
Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 2, sđd, tr. 218.
Xem: Nguyễn thị Tây Sơn ký A. 3138, sđd, tờ 38a; hoặc: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđđ, tr. 531. Tuy nhiên, một thư giáo sĩ vào mùa hè năm 1793 vẫn còn kể về những người được ghi tên trong sổ bộ làng và cấp thẻ căn cước. Thư Le Roy gửi Blandin, 12.7.1793, MEP 692, tr. 482.
Thư Jean-André Doussain gửi?, 8.7.1787, MEP 746, tr. 205. Không hoàn toàn rõ ràng về tỷ lệ những nguời chết và bị thương và tỷ lệ số người đào ngũ trong quân đội của Nguyễn Nhạc.
Quân đội nhà Nguyễn cũng gặp phải vấn đề đào ngũ. Xem: Quốc sử quán triều Nguyên, Đại Nam thực lục, tập Một, sđđ, tr. 246.
“Joumai de ce qui s’est passe de plus remarquable dans la mission du Tong-king, depuis le mois de juillet 1786 jusqu’a mois de juillet 1787”, MEP 690, tr. 899.
Thư Le Roy gửi Biandin, 3.7.1789, MEP 692, tr. 112.
Mặc dù thường được sử dụng như một hình thức trừng phạt hay áp bức trong việc tuyển mộ, việc hành hình binh lính không phải lúc nào cũng được áp dụng cho mục đích này. Thỉnh thoảng, nó được sử dụng thay vì kêu gọi người dân ủng hộ nhà Tây Sơn, như trường hợp chiến dịch năm 1786 ở Đàng Ngoài, trong đó các lãnh đạo Tây Sơn đã hành hình các thành viên trong đạo quân của họ vì những sự mạo phạm thậm chí nhỏ nhất đối với thường dân. Xem: Thư Le Roy gửi Letondal, 6.12.1786, MEP 700, tr. 1307; xem thêm: Thư Gerard gửi Blandin, 31.7.1786, MEP691, tr. 749.
Thư Louis Prançois Le Breton gửi các Giám đốc MEP, 7.1788, MEP 692, tr. 12(8).
Thư Charles - Prançois Langlois gửi?, 1795, MEP 692, tr. 359.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 186. Sự kiện có vẻ không thật đó cũng được đề cập trong các tài liệu khác vào cuối thế kỷ XIX, kể cả trong các chuyện kể về việc quân lính Việt vào thế kỷ XX ăn các phần cơ thể của kẻ địch (thường là nội tạng).
Thư Sérard gửi Letondal, 26.7.1797, MBP 701, tr. 253 (nhấn mạnh thêm). Nhà Nguyễn cũng sử dụng những cách khích lệ như thế; vào một thời điểm của năm 1788, các quan lại của chúa Nguyễn được cử tham gia vào các chiến dịch, mang theo hàng ngàn giấy thăng thưởng để trống hầu sử dụng ngay tại trận tiền. Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thục lục, tập Một, sđd, tr. 234.
Tạm dịch lần lượt ba từ Colonel (đại tá), Lieutenant-colonel (trung tá), và Major (thiếu tá) trong nguyên tác của Dutton - ND.
Thư Barisy gửi Marquini và Letondal, 16.7.1801, MEP 801, tr. 964.
Tất nhiên việc lao dịch là điều mà người dân phải cam chịu, bất luận kẻ thống trị họ là ai. Nhà Nguyễn bắt người dân sống dưới quyền kiểm soát của họ phải lao động nặng nhọc trong việc xây dựng ngôi thành mới ở Gia Định, và trước đó, họ Trịnh “tuyển mộ” dân Thuận Hóa để là