Chương 7 ÔNG CHỦ ĐẠI TÂY DƯƠNG
Sự hiểu biết rõ ràng, chính xác của Colombo về Ghinê cũng quan trọng trong sự triển khai kế hoạch lớn của ông về cuộc phát kiến vĩ đại như những chuyến đi của ông đến Chio, nước Anh, Băng Đảo, Madera và việc ông lưu lại trên đảo Porto Santo.
Chúng ta biết chắc chắn giữa 1482 đến 1484 Colombo đã hoàn thành ít nhất một chuyến đi đến Ghinê. Trong Nhật ký, ông thường nói đến pháo đài Mina và bờ biển Melegueta. Bờ biển này kéo dài từ mũi Mesurado đến mũi Palmas. Gần mũi Mesurado, ngày nay nổi lên Monrovia, thủ đô Liberia. Mũi Palmas cũng ở Liberia, gần biên giới với Bờ biển Nga. Pháo đài vẫn còn tại Elmina; thực ra hiện nay là hai pháo đài, ngự trị thành phố Elmina, ở nước Ghana hiện đại.
Colombo đã tìm gì ở Elmina? Không phải sản phẩm nông nghiệp, cũng chẳng phải những đường biển cho kế hoạch thai nghén của ông, vì những đường ấy nằm trong một hình bốn cạnh của Đại Tây Dương mà chúng ta sẽ thấy ở phía Bắc vĩ tuyến của Ghinê. Người ta thường nói rằng ông đi tìm vàng ở đó. Huyền thoại về vàng luôn luôn ám ảnh đầu óc ông. Ông chỉ quan tâm ít đến hương liệu và thuốc nhuộm, mặc dù những thứ này là cơ sở cho những lợi ích kinh tế của Bồ Đào Nha. Ông thường nói trong Nhật ký về mát tít và thuốc nhuộm có thể lấy từ cây cối, nhưng ý nghĩ cố định (1) của ông vẫn là vàng. Ông đã thấy vàng ở Elmina, hoặc nói đúng hơn, một ngành thương mại vàng đang phát triển.
Không cần đến Ghinê để biết tầm quan trọng của kim loại quý này đối với người châu Âu, lục địa châu Âu hầu như không có. Thật vậy, lượng vàng do những người thám hiểm đầu tiên phát hiện năm 1471 ở Elmina đã tạo cho người Bồ Đào Nha một ấn tượng ảo vọng là lượng vàng đó đã được tích lũy qua nhiều thế hệ. Rõ ràng những người châu Phi đã tìm vàng trong hơn hai nghìn năm. Thí dụ, chúng ta biết rằng ngay cả trước kỷ nguyên Công Giáo, những dây chuyền vàng cục tự nhiên đã được chế tạo tại Nigeria, một nước không sản xuất vàng.
Nắm độc quyền việc buôn bán, người Bồ Đào Nha đã có thể nhập khẩu hàng năm khoảng 25.000 aoxơ vàng trong một số năm.
Năm 1502 riêng một chuyến tàu đã chở 125 cân Anh vàng. Những số lượng đó không phải là những con số lớn, nếu ta xét tới việc phát hiện và khai thác những mỏ lớn ở Nam Phi và Liberia, cũng như những mỏ rải rác ở khắp châu Mỹ. Nhưng trong thế kỷ XV, những con số như thế là có ý nghĩa, đủ khích lệ bất cứ ai khao khát của cải, hoặc ngay cả những người mong muốn của cải một cách vừa phải.
Theo những tài liệu của Bồ Đào Nha, hình như một phần lớn vàng ở Elmina là những đồ trang sức, nhưng cũng có vàng mới. Chắc chắn Colombo bận tâm về việc xác định chất lượng vàng đó. Colombo đã thấy rõ tầm quan trọng của tỷ lệ mất cân đối giữa vàng đã chế biến với vàng mới trong chuyến đi thăm đầu tiên của ông tới Elmina. Tại đó ông đã học phân biệt hai nguồn vàng. Nhân dân bờ biển đãi cát, thu lượm bột vàng và một đôi khi vàng cục, trong khi những thợ mỏ trong đất liền theo những mạch trong đá, đào những đường hầm dài, một đôi khi đường hầm nọ trên đường hầm kia, nối với nhau bằng những đường hàm thẳng đứng.
Sau này, khi Colombo đi từ đảo này đến đảo khác trong vùng biển Caribê và thấy khắp nơi những người bản xứ mang đồ trang sức châu báu, mối quan tâm đầu tiên của ông luôn luôn là: Vàng từ đâu đến? Ở sông nào? Núi nào? Việc tìm kiếm vàng huyền thoại đã đưa Colombo đến Elmina, từ đó ông trở về, tin tưởng một cách vững chắc hơn trước vào sự thật, của những báo cáo về sự tồn tại của vàng.
Ngoài vàng, chuyến đi của Colombo tới Ghinê đã cho ông kinh nghiệm chủ yếu nhất đối với kế hoạch lớn của ông, kế hoạch mà ông vẫn còn đang bố trí sắp xếp. Để đến Ghinê, Colombo đã phải đi qua Cape Verde - không phải những đảo mà đại lục, Dakar ngày nay - và cây cối xanh tươi của vùng này. Ông đã trông thấy Grain Coast (ngày nay là Liberia) và Bờ biển Ngà, biết rằng những vùng ấy không những có cây cỏ mà còn xanh tươi. Ông còn thấy người, rất nhiều người.
Colombo muốn xác minh bằng chính mắt của ông sự sụp đổ lòng tin của những nhà thông thái thời cổ đại - từ Aristote đến Tolemeo - và tiếp tục qua thời Trung cổ, cho rằng vùng xích đạo và Nam bán cầu, con người không thể ở được. Lòng tin này là dối trá, tín ngưởng này là dối trá. Người ta chịu đựng rất tốt khí hậu ở miền nóng như thiêu như đốt. ‘‘Dưới đường xích đạo, nơi mà ngày luôn luôn kéo dài mười hai giờ, là lâu đài của Vua Bồ Đào Nha mà tôi đã đến thăm. Tôi thấy khí hậu vùng này dịu’’. Colombo đã viết như vậy về Elmina, bằng chữ La-tinh đây những lỗi đặc trưng cho cuối thời Trung cổ. Không những Elmina mà toàn bộ vùng nhiệt đói ‘‘không phải là không thể sống được vì ngày nay người Bồ Đào Nha đi biển ở đó và nơi đó hoàn toàn có người ở’’.
Ngoài ra luôn luôn có những vùng đất mới, những sông mới, những rừng mới, những cánh đồng mới do những dân tộc cùng một dòng giống trồng trọt. Bên kia đường xích đạo là đất liền và hơn nữa, đất liền của cùng một lục địa, châu Phi - những bờ biển Bắc châu Phi tắm trong Địa Trung Hải. Những chân trời mới đang mở ra. Người ta có thể đi tới vùng ôn đới ở phía Nam, vùng đó rõ ràng có những đất có người ở, hoặc ít nhất những đất có thể ở được. Đây là tin tức cực kỳ quan trọng mà Colombo đã biết được trong những năm đầu ông sống ở Lisbon và muốn chính mình trải qua trực tiếp ở Elmina. Ngày nay người ta thường gọi đó là tin tức làm nên lịch sử. Đó là một mảnh cơ bản – mảnh quan trọng nhất và quyết định - trong hình mẫu nhiều màu sắc khác nhau mà từ đó kế hoạch lớn của ông cuối cùng nổi lên rõ ràng.
Ngay cả trước khi Colombo vượt từ Đông sang Tây trong cuộc phát kiến vĩ đại nhất trong lịch sử, người ta có thể nói ông đã làm chủ Đại Tây Dương. Ông đã đi về phía Bắc, tới nước Anh và Ireland và xa hơn nữa, gần tới vòng Bắc Cực, tới Băng Đảo. Từ những cuộc hành trình trên biển đó, ông đã biết được những đợt lên xuống của thủy triều - độ lớn, độ lên cao và lạ lùng mà ít thủy thủ Địa Trung Hải hiểu được. Ông đã trải qua sương mù, giông bão với mức độ chưa từng có ở miền biển ấm áp phương Nam. Ông đã chú ý đến những dấu hiệu đầu tiên không lầm lẫn vào đâu được của dòng nước biển đã tạo cuộc sống cho phần lớn châu Âu: dòng Gulf Stream ấm áp.
Khi trở về Lisbon, Colombo đã là một thủy thủ lão luyện. Trước khi kết hôn, ông đã thực hiện một chuyến đi tới Madera tháng 7 - 1478. Có thể là lần đầu tiên ông đến đó; chắc chắn không phải là chuyến đi cuối cùng của ông. Ông đã trở lại Madera và Porto Santo nhiều lần, vì lý do công tác lẫn lý do gia đình sau khi kết hôn. Ta có thể nói không quá đáng rằng Colombo đã quen với giải Đại dương từ Lisbon đến Madera đến nỗi như đó là nhà của ông. Ông đã biết mọi thứ về con đường Lisbon - Madera, vai trò của gió và những dòng nước, khả năng tìm thấy loại cá này hay loại cá khác.
Ông đã biết tất cả các ngôi sao dọc theo những con đường của ông; trước khi nghiên cứu những ngôi sao ấy trong các sách thiên văn, ông đã trông thấy những ngôi sao đó mỗi lần mặt trời lặn, mỗi đêm và mỗi lần mặt trời mọc. Và từ những ngôi sao, những cơn gió và dòng nước, Colombo đã biết được những bí quyết của nghệ thuật mà ông là vô địch: nghệ thuật đi biển bằng cách tính vị trí theo la bàn, hay máy tính tốc độ. Ông đã nắm vững nghệ thuật ấy bằng cách đi quá những quần đảo ở Canarie, Cape Verde, Azzorre và Ghinê. Chắc chắn ông đã sống một thời gian nào đó trên đảo Gran Ganaria và đã biết Lanzarote và Gomera. Ông đã biết những đảo Cape Verde trên đường từ Ghinê trở về; những tàu Bồ Đào Nha thích đi đường đảo hơn là đường dọc bờ biển, nơi mà những tàu đó buộc phải đi theo hình chữ chi. Sự hiểu biết mà Colombo đã biểu hiện tại vùng biển quần đảo Azzorre trong những cuộc hành trình thuộc cuộc phát kiến lớn bảo đảm cho chúng ta rằng Colombo cũng đã đi biển giữa những đảo này trong suốt thời kỳ sống tại Bồ Đào Nha. Hơn nữa, những người dân sống ở Azzorre đã cho Colombo một số chỉ dẫn quan trọng nhất - tôi sẽ nói về những chỉ dẫn đó ở dưới.
Ở vùng biển Azzorre Colombo đã có được một niềm tin khác làm căn bản cho khái niệm về kế hoạch lớn của ông: ở kinh tuyến đó của Đại Tây Dương, những trận bão thì mạnh hơn, thường xuyên hơn và kéo dài hơn những cơn bão ở xa hơn về phía Nam. Hậu quả là trong những thời kỳ thời tiết yên tĩnh, đi trở lại từ Tây sang Đông quá Fayal thì dễ hơn, nhưng đi từ Đông sang Tây thì khó, và trong những thời kỳ dài không thể thực hiện được. Niềm tin này cũng quan trọng như sự hiểu biết về những cơn gió thổi liên tục về hướng xích đạo suốt năm, Colombo đã không thể có được ngoại trừ ở trong vùng biển Azzorre, nói một cách chính xác hơn, bằng cách đi từ Fayal đến Flores và có lẽ đến một điểm nào đó vượt quá Flores.
Trong nửa sau thế kỷ XV, việc thông thương giữa Azzorre và những điểm khác không chỉ từ Lisbon. Những con đường giữa Azzorre và Galway và giữa Azzorre và Bristol, hoặc Luân Đôn, cũng đi lại nhiều. Thậm chí có thông thương giữa Madera và Azzorre. Thường xuyên những tàu biển lấy một chuyến hàng từ Lisbon đi Azzorre, dỡ hàng ở đó và lấy một chuyến hàng khác và dỡ chuyến hàng này ở Galway. Tại đó tàu lại lấy hàng và chở hàng về Lisbon. Một số đoàn tàu còn đi từ Azzorre đến Băng đảo và trở lại. Chúng ta đang xem xét một vùng rộng lớn ở Đại Tây Dương do Bồ Đào Nha, Ireland, Băng Đảo, Azzorre, Madera, Cape Verde, Elmina và Ghinê bao quanh, hoặc ở giữa 64° và 5° Bắc và 8° và 30° Tây. Trong phạm vi vùng rộng lớn này là một vùng nhỏ hơn - giữa 40° và 28° Bắc - mà Colombo đã đi từ Đông sang Tây, Đông – Bắc đến Tây - Nam, Tây - Nam đến Đông - Bắc, Nam đến Bắc, thực tế mọi hướng. Ở trung tâm của cả hai khu là đảo Porto Santo, ở 34° Bắc và 16° Tây. Đây là nơi sinh ra kế hoạch lớn; người mẹ của kế hoạch ấy, chính là đại dương, Đại Tây Dương, Biển Đen Tối. Porto Santo, quần đảo Canarie và quần đảo Azzorre là ba điểm trong phương trình địa lý và hàng hải mà việc giải phương trình đó đã cho quyền làm chủ Đại Tây Dương. Với ý thức biển cả đã làm cho ông nổi tiếng, Colombo đã tìm thấy lời giải đó từ năm 1476 đến năm 1484..
Vào thời đó, người ta chỉ biết gió hay thay đổi, vì ở Địa Trung Hải, Đại Tây Dương thuộc châu Âu và Bắc Hải giữa nước Anh và các nước Bỉ, Lúc-xăm-bua (Luxembourg) và Hà Lan gió đều luôn luôn biến đổi, chuyển hướng thường xuyên. Nhưng vì những lý do khác nhau, những thủy thủ không hiểu biết, hay đúng hơn không hiểu biết một cách chính xác là có những luồng gió thổi cùng một hướng suốt năm. Những nhà đi biển Bồ Đào Nha thế kỷ XV trước Colombo chỉ biết những ảnh hưởng không đáng kể của gió Đại Tây Dương, vùng biển Madera, Canarie và bờ biển châu Phi. Họ quen gió Đông Bắc không thay đổi, hay gió thổi mạnh một năm về phía đường xích đạo chỉ dọc theo những bờ biển châu Phi; họ không biết gió ở ngoài biển khơi như thế nào - mạnh tới mức nào và vươn xa tới mức nào về phía Tây.
Tính không thay đổi của gió xích đạo xuất phát từ việc đốt nóng liên tục bầu khí quyển miền nhiệt đới, làm cho không khí ít dày đặc hơn và dẫn đến giảm áp lực bầu khí quyển. Những khối không khí ở gần bị kéo vào để thiết lập lại sự cân bằng, rất giống sự thở. Gió xuất phát từ đó sẽ thổi về đường xích đạo, nhưng vì trái đất xoay xung quanh trục, tất cả mọi vật thể chuyển động ở Nam bán Cầu xoay về bên trái. Hậu quả là những khối không khí ở phần thấp hơn của bầu khí quyển ở Bắc bán Cầu thổi từ Đông bắc đến Tây nam, và ở Nam bán cầu thổi từ Đông nam xuống Tây bắc. Đây là gió xích dạo, thổi suốt năm với sự đều đặn lớn nhất. Gió xích đạo từ Đông - Bắc,và gió xích dạo từ Đông - Nam bị tách ra bởi một vùng xích đạo lặng gió, đới xích đạo lặng gió gây ra bởi chuyển động đi lên của khối không khí ấm. Đới xích đạo lặng gió ở gần đường xích đạo nhưng ở phía Bắc bán cầu nhiều hơn, vì Bắc bán Cầu có nhiều đất hơn Nam bán cầu - đất nóng hơn biển.
Cho rằng Colombo đã biết tất cả những thực tế khoa học này sẽ là một sự cường điệu, tuy nhiên ông đã hiểu những ảnh hưởng thực tế qua kinh nghiệm từ nhiều chuyến đi đầu tiên. Ông đã phát hiện ra ý nghĩa tiềm tàng của gió xích đạo từ hướng Đông - Bắc để đi về hướng Tây; đó là phát hiện quan trọng nhất cho việc ông làm chủ Đại Tây Dương. Từ thái độ của ông đối với chuyến đi đầu tiên, ta có thể thấy rằng đây không thuần túy là sự suy đoán mà là một điều ông đã xác minh bằng kinh nghiệm của bản thân mình. Nếu không thì khó giải thích tại sao Colombo đã rời Palos, đi thẳng đến Canarie và từ đó đi về hướng Tây một cách tin tưởng. Cũng giống như vậy, sẽ khó giải thích tại sao trên đường trở về ông đã không biểu lộ một chút do dự nào trong việc đi về hướng Bắc vĩ tuyến của Azzorre, ở đây ông biết gió hay thay đổi nhưng thường xuyên thổi từ hướng Tây. Colombo không những đã phát hiện ra châu Mỹ, ông còn phát hiện ra hai đường biển lớn ở Bắc Đại Tây Dương mà bốn thế kỷ tiếp theo về hoạt động hàng hải bằng thuyền buồm đã xác minh là những con đường nhanh nhất và tốt nhất.
Nhiều điều khác Colombo đã nghiên cứu và hiểu bằng cách dùng thuyền buồm đi lại nhiều lần trong hình chữ nhật của Đại Tây Dương giữa 40° - 30° Bắc và 30°- 10° Tây. Ở những hải phận đó và ở những đảo ông đã lên bờ sinh sống, Colombo đã phát hiện một quan hệ cộng sinh với Đại dương và với những chòm sao. Ông đã khảo sát cẩn thận, và nghiên cứu biển và bầu trời, phát hiện ra nhiều điều bí ẩn. Ông đã đốt cháy bằng tình yêu đối với biển và bầu trời đó, tưởng tượng của ông được kích thích bởi những chân trời vô tận. Tuy vậy chỉ có một chân trời thực sự vô biên đối với Colombo: không phải chân trời về phía Bắc, nơi ông đã đi qua nhiều độ vĩ tuyến và đã tới Ultima Thule; không phải chân trời về phía Nam, Ghinê ở đó, nơi ông đã biết; không phải chân trời về phía Đông, nơi ông đã có đầy đủ sự hiểu biết về Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Địa Trung Hải, Italia, Hy Lạp và Ai Cập. Bây giờ ông chỉ quan tâm về phía Tây. Ở đó có điều ông không biết, ở đó ông bị thôi thúc bởi giấc mơ nồng cháy của trí tưởng tượng, một sự say mê không thể nào dập tắt được.
Chú thích:
(1) Bản tiếng Anh dùng tiếng Pháp: idée