← Quay lại trang sách

Chương 16 CUỘC VƯỢT ĐẠI DƯƠNG LẦN THỨ NHẤT- -

Cuộc vượt Đại Tây Dương bắt đầu ngày 9 tháng 9 khi Colombo đi qua những vùng đất đã biết lần cuối cùng, và kết thúc ngày 12 tháng 10. Trước đó đã có những cuộc thám hiểm của người Scandinave ở miền Bắc, nhưng ở những vĩ tuyến cao hơn thì cơn đường ngắn hơn nhiều. Đã có những cuộc thám hiểm khác về phía Nam không? Do những người Công giáo thực hiện - Ailen, Genova, Catalan. Bồ Đào Nha? Do những người Fenici hay những người Ai Cập? Nhiều người nói về những cuộc thám hiểm đó, những học giả, những nhà thám hiểm và nhất là buồn thay những kẻ tài tử, mỗi năm người ta đưa ra một lý thuyết mới nào đó hoặc một lý thuyết cũ nào đó, được sống lại. Nhưng có quan trọng gì? Bất cứ cuộc phát hiện nào không truyền lại cho những người khác thì cũng mất đi trong lịch sử, và như vậy việc Colombo vượt Đại Dương là sự kiện có tính quyết định, độc đáo dẫn đến cuộc phát kiến vĩ đại nhất trong lịch sử.

Tuy nhiên đó không phải là một cuộc du hành khó khăn mệt nhọc nhất, bi kịch nhất. Quả thật, những khổ cực khác chờ đợi Colombo, từ khi ông trở về sau chuyến đi thứ nhất đến những thử thách trong vùng biển Caribê trong chuyến đi thứ tư. Chỉ có trong truyền thuyết mới có nỗi sợ sệt chung về vùng biển Sargasso, sự khủng khiếp về sự chuyển động lạ lùng của chiếc la bàn tại vùng nghiêng từ tinh và cuộc nổi loạn của thủy thủ thấy chuyến đi quá dài, tại một vùng biển không quen biết. Không một nhà sử học đáng tin cậy nào cố nặn ra tấn bi kịch. Những sự khác nhau trong các bản tường thuật của họ chỉ hạn chế ở chỗ nhấn mạnh ít hay nhiều về những sự kiện thực tế đã diễn ra và từ đó truyền thuyết đã tạo ra những huyền thoại mang đầy kịch tính. Những thực tế cần được xem xét là:

- Tàu đi vào biển Sargasso ngày 16 tháng

9 và rời biển này ngày 17 tháng 10 (1)

- Ngày 17 tháng 9 người ta thấy kim la - bàn lệch về hướng Tây, dấu hiệu về việc này được nói đến lần đầu tiên trong Nhật ký ngày 13 tháng 9.

- Cuộc hành trình trên vùng biển chưa được quen biết hình như vô tận.

Tảo biển có những bong bóng chứa khí và những hình lá cuộn tròn. Những bong bóng giống như một quả cây, nhưng chứa đầy khí và nổi trên mặt nước. Tảo biển này, qua tác động của sóng và những dòng nước biến đã tụ lại tại một vùng rộng lớn ở Đại Tây Dương xấp xỉ từ 30° đến 75° Tây, 22° và 40° Bắc.(2). Một hệ động vật phong phú sống trong tảo biển, có nhiều loại: sâu, loài tôm cua, loài nhuyễn thể, cá và vô số loài côn trùng. Thời cổ người ta đã biết biển Sargasso. Trong thế kỷ XIV và XV những thủy thủ đã mất công tìm những đảo Antilia (Bảy thành phố), và Thánh Brendano đã nói về cỏ dại bao phủ biển ở phía Tây. Tảo biển này làm sống hy vọng rằng đất liền ở ngay gần, nhưng nó cũng gây ra lo lắng, sợ hãi và khủng khiếp.

Như vậy chắc chắn rằng trước khi xuất phát cuộc đi vĩ đại, ít nhất Colombo đã gián tiếp biết về hiện tượng khác thường này. Có lẽ ông cũng có kinh nghiệm trực tiếp về hiện tượng đó từ một số những chuyến đi trước. Ta cần nhớ rằng đảo Flores và đảo Corvo, những đảo xa nhất của quần đảo Azzorre, nằm ở quá 30° về phía Tây. Ngày 16 tháng 9, cách quần đảo Canarie khoảng chín trăm dặm ở 28° Bắc và 35° Tây, ba tàu đã đi vào những mảng tảo biển xanh nhất. Colombo viết thêm một cách thơ mộng rằng không khí ôn hòa như tháng 4 ở Andalusia và ‘‘nếm’’ không khí buổi sáng thì rất thú vị; cảnh đó chỉ thiếu tiếng hót của chim sơn ca. Ngày 17 tháng 9, tảo biển trở nên dày hơn, xuất hiện như một con sông. Người ta thay một con ‘‘Cangrejo’’ còn sống. Trong cuốn Lịch sử của ông, Altonso Ulloa đã dịch ‘‘Cangrejo’’ là ‘‘tôm’’, nhưng đó là một sai lầm; đó là một loài cua phổ biến ở biển Sargasso.

Ngày 19 tháng 9, quả chì thăm dò được thả xuống với hai trăm sải đường dây thả ra, nhưng nó không chạm được đáy. Ngày 21 tháng 9, 28° Bắc và 48°Tây, tảo biển đọng lại đến nỗi "biển hầu như hoàn toàn cong lên". Ngày 22 tháng 9, họ hầu như không trông thấy tảo, nhưng ngày hôm sau tảo lại ‘‘hoàn toàn dày đặc’’. Ngày 26 tháng 9, ‘‘biển giống như một con sông và không khí thơm và hầu như ôn hòa’’. Ngày 29 tháng 9, Colombo nhắc lại bài thơ trước đây của ông ‘‘không khí rất thơm ngon, nó không thiếu gì, ngoại trừ tiếng hót của con chim sơn ca’’. Vẫn ‘‘còn nhiều tảo’’. Lại nhiều tảo vào ngày 30 tháng 9 và 2 tháng 10, nhưng giờ đây nó đến từ phía Đông và đi sang phía Tây, ngược với con đường từ trước đến nay. Chuyển động này là do kết quả tác động của sóng, một dòng liên tục đã giới hạn tảo biển tới vùng rộng lớn của Đại Dương đã chỉ rõ ở trên. Ngày 3 tháng 10, tảo biển vẫn còn nhiều, nhưng một phần già, một phần còn rất tươi. Ngày 5 tháng 10, không có tảo biển. Nhưng ngày 8 tháng 10 một số tảo biển lại xuất hiện. Đây là lần cuối cùng người ta thấy tảo biển. Có lẽ ba tàu đã vượt qua 72° Tây. Như vậy cản trở biển Sargasso đã được vượt qua mà không xẩy ra chuyện bi đát nào. Colombo là người đầu tiên vượt qua biển này.

Trái với hiện tượng tảo biển, hiện tượng độ từ thiên sang phía Tây là hoàn toàn mới lạ và chưa ai từng thấy. Hiện tượng từ thiên là do một kim nhiễm chệch sang phía đông, hay phía tây, hình thành dưới ảnh hưởng của từ trường trái đất với đường thẳng lý tưởng từ tâm của kim đến cực thiên văn. Góc này thay đổi từ nơi này đến nơi khác. Ít lâu nay người ta đã biết độ từ thiên sang phía đông, nhất là ở Địa Trung Hải. Nhưng cho đến ngày 13 tháng 9-1492 người ta chưa biết có trường hợp nào ghi lại độ từ thiên sang phía tây. Hôm đó khi màn đêm buông xuống, Colombo thấy kim từ lệch về phía tây sao Bắc Đẩu, trong khi vào buổi sáng, những kim ấy còn lệch về phía Đông. Ông đã viết trong Nhật ký: ‘‘Hôm nay vào lúc trời bắt đầu tối, các kim từ quay về Tây Bắc, và buổi sáng chúng lại quay cùng một khoảng về phía Đông Bắc’’.

Cần nhớ rằng trong chuyến động biểu kiến hàng ngày sao Bắc Đẩu vẽ thành một vòng tròn quanh thiên trục. Năm 1492 dường như có chuyển dịch khoảng 3°27 (ngày nay ít hơn). Vào lúc mặt trời lặn ngày 17 tháng 9 việc chuyển dịch về bên phải của cực, cộng với độ từ thiên sang hướng Tây, nhưng kim từ đã lệch mạnh về phía trái. Thủy thủ không nói gì, nhưng họ rất lo lắng. Họ rất cần được làm yên lòng và Colombo đã làm việc đó bằng cách giải thích cho họ một cách khéo léo. Colombo biết vòng tròn nhỏ do sao cực vẽ nên, trong khi hầu hết các hoa tiêu khác không ai biết điều đó. Colombo tập hợp họ lại và chỉ rõ độ chênh lệch vào lúc rạng đông. Khi sao Bắc Đẩu chuyển về bên trái và vì vậy độ chênh của những kim từ giảm đi mặc dù vẫn còn lệch. Tổng thuyền trưởng Colombo nói rằng những kim từ chỉ chuyển dịch hướng theo sao Bắc Đẩu. Sao Bắc Đẩu di chuyển thì những kim từ vẫn giữ khả năng chỉ hướng.

Nhật ký cho biết rằng Colombo đã ra lệnh cho các hoa tiêu lặp lại việc quan sát vào lúc hừng sáng và đi về hướng Bắc, họ thấy các kim chuyển động tốt. Thế là đám thủy thủ hiểu rằng sở dĩ có độ lệch của kim không phải vì kim chuyển động mà vì sao Bắc Đẩu chuyển động. Colombo không tin những lập luận như thế; trong thực tế ông tiếp tục quan sát một cách cần cù những độ lệch của kim la bàn, thay đổi hướng đi một phần để giữ nguyên cái góc khó hiểu này. Mỗi ngày độ lệch về bên trái của những kim từ càng lớn. Ngày 30 tháng 10 có lẽ đội tàu đã ở hướng thiên lệch 7 độ về phía Tây, đến chiều tối các kim lệch một điểm về phía Tây. Góc này cộng với 7 độ từ thiên cho tổng số dưới một điểm một chút (11 ¼° ). Vào lúc bình minh quan sát thấy những kim ‘‘chỉ đúng hướng sao Bắc Đẩu’’; trong khi đó sao Bắc Đẩu đã chuyển về hướng Tây của thiên cực và góc ban đầu 11 ¼°), đáng lẽ đã phải giảm đi, dù không mất hẳn. Colombo khẳng định rằng ‘‘từ hiện tượng này rõ rằng sao Bắc Đẩu cũng di chuyển như các sao khác và các kim luôn luôn nói lên sự thật’’. Có phải niềm lạc quan đã làm ông tin rằng ông đang đề cập đến một hiện tượng tự nhiên, hay là lòng tin không lay chuyển của ông vào thành công đã hỗ trợ ông? Cả hai lý do đều là câu trả lời, chứng cớ về hai mặt đối lập trong nhân cách của ông, một nhà phát kiến, vừa khó hiểu vừa hấp dẫn.

Tảo biển cũng như độ từ thiên đều không ảnh hưởng một cách có ý nghĩa đến cuộc vượt biển lớn. Ngược lại mối lo âu lớn nhất là từ chiều dài của cuộc hành trình, mối lo này tăng thêm do sức đẩy liên tục của gió xích đạo từ Đông sang Tây; mọi người trên thuyền không biết trước nên lo lắng ngày càng tăng về khả năng có thể quay trở về.

Thủy thủ không biết kế hoạch của tổng thuyền trưởng. Colombo đa nghi, đã luôn luôn cẩn thận tránh tiết lộ những kế hoạch ấy. Ông tránh không nói rằng chính vì gió thổi không, ngừng từ hướng Đông-Bắc, ông đã chọn hướng đi một lộ trình khác tại vùng gió thay đổi để trở về. Mọi người trên thuyền đặc biệt sợ gió luôn luôn không đổi hướng làm mất khả năng trở về, họ còn có tâm lý phải đi đến một miền không biết, điều này cũng luôn luôn tạo ra nỗi sợ hãi; cuộc đi càng kéo dài sự sợ hãi càng lớn.

Colombo đã thấy trước cả hai nỗi lo đó. Đối với nỗi lo thứ nhất, sự may mắn đã giúp ông vì ông đã luôn luôn giữ được đội thuyền ở trong giới hạn gió xích đạo, và những giới hạn đó thì không tuyệt đối cố định mà thay đổi theo mùa. Gió ấy cũng không thổi một hướng từ mùa này sang mùa khác. Gió xích đạo tháng 9 và tháng 10 năm 1492 hóa ra đặc biệt thuận lợi. Xuất hiện bất ngờ luồng gió ngược lại (22 tháng 9) là sự may mắn thêm. Colombo viết: ‘‘Gió ngược rất thuận lợi cho tôi. Người của tôi vui vẻ và được cở vũ vì luồng gió đó, vì họ cứ tưởng rằng ở những biển này không có gió thổi về Tây Ban Nha. ‘‘Ngày hôm sau một điều gì đó khác thường đã xẩy ra: biển trở nên rất động, dù gió chưa nổi. Điều đó một mặt làm thủy thủ sợ hãi, mặt khác làm cho họ yên tâm vì trước đó, khi mặt biển luôn luôn phẳng lặng, họ lẩm bẩm rằng vì không bao giờ biển có sóng nên sẽ không có gió để trở về châu Âu’’.

Cuối cùng Colombo may mắn khi tới 70° Tây, Colombo liều đi về phía Bắc của ranh giới phía trên của gió xích đạo. Vào lúc đó một đàn chim bay đã làm ông thay đổi hướng đi về phía Tây- Nam. Colombo rời Gomera ở 28° Bắc. Ngày chủ nhật, 7 tháng 10, Colombo đã thấy mình ở kinh tuyến 67° Tây, vĩ tuyến 26 Bắc. Ông đã đi xuống phía Nam hai độ, nhờ có gió Đông - Bắc; mặc dù hướng đi là về phía Tây, gió đã đẩy mạnh ông về hướng Tây-Nam. Lúc rạng đông ngày hôm đó, thủy thủ của chiếc thuyền Nina đã giương cờ, tin rằng họ đã trông thấy đất liền. Tin báo không đúng, đất liền không xuất hiện ngày hôm đó, hay tối hôm đó. Tuy nhiên, rất nhiều đàn chim đã xuất hiện, chúng đang bay từ phương Bắc đến Tây-Nam, như vậy người ta có thể dễ dàng tin rằng chúng đang bay đi ngủ trên đất liền khô ráo, hay có lẽ đang trốn mùa Đông; mùa đông có thế đang xuống những vùng đất chúng đã rời khỏi. Như vậy viên Đô Đốc đã đồng ý rời bỏ hướng Tây và quay hướng Tây- Tây Nam, với ý định bám lấy hướng mới này trong vài ngày.

Với sự thay đổi hướng, đoàn thuyền đã đi bốn ngày tới 24° Bắc. Như vậy họ ở trong phạm vi gió xích đạo và đã đi vào biển thuộc quần đảo Bahamas trước đó.

Về nỗi lo sợ chung hơn và nghiêm trọng về cuộc hành trình dài đi về miền đất không biết, Colombo đã nghĩ về nó trước khi khởi hành. Ngày mà Hierro biến đi khỏi chân trời, ông viết trong Nhật ký; ‘‘Ngày đó chúng tôi đã đi 15 dặm (9 tháng 9) và tôi đã quyết định nói ít hơn là đoạn đường chúng tôi đã đi được, để nếu cuộc hành trình còn dài đoàn thủy thủ sẽ không sợ, hoặc mất tinh thần’’. Những ngày và tuần lề qua đi, bản Nhật ký nhắc đi, nhắc lại điệp khúc này; Colombo viết đến hai mươi nhăm lần rằng số ghi trong Nhật ký hoa tiêu thực ra ít hơn số đã đi được.

Ông cho đoàn tàu còn phải đi bao nhiêu dậm nữa?

Colombo có hai điểm làm căn cứ: Cipango (Nhật Bản) mà theo ông cách quần đảo Canarie 2.400 dặm, Quinsay (Hàng Châu), một thành phố của Cataio (Trung Quốc) mà ông cho là ở cách xa 3.550 dặm. Rồi đến ngày thứ ba, 25 tháng 9, đoàn tàu đã đi được 2.400 dậm. Theo tính toán của Colombo (chúng ta sẽ xem chính xác hay không chính xác như thế nào), đó là khoảng cách dự tính giữa Canarie và Cipango. Cùng ngày hôm đó Martin Alonso Pinzon từ đuôi tàu Pinta, đã thét lên với viên Tổng thuyền trưởng: ‘‘Thưa ngài! Đất liền! Đất liền!" Nhiều người tin họ đã trông thấy đất liền. Nhưng họ đã nhầm!

Ngày 3 tháng 10, Colombo nói một cách rõ ràng rằng, trong tuần qua ông trông thấy nhiều dấu hiệu về đất liền cũng như trong những ngày này’’. Tuy nhiên ông nói thêm rằng, họ không phải đổi hướng tàu, biết rằng có những đảo ở gần đấy. Mục tiêu của ông là tới những đảo Ấn Độ và ‘‘đi chậm chạp là dại dột’’. Ở đây Nhật ký có vẻ như tranh luận về những mối lo ngại của thủy thủ. Nhưng từ ngày 5 đến 6 tháng 10, chắc hẳn mối lo lắng đã ảnh hưởng đến viên Tổng thuyền trưởng. Ông nghĩ rằng họ đã đi 913 hải lý (3.652 dặm (3) dài hơn khoảng cách ông đã tính từ Canarie đến Cataio, tức là đến Luc địa châu Á, 100 dặm.

Và người ta chưa trông thấy đất liền. Những ngày lo lắng đã qua đi, những ngày cuối cùng của cuộc vượt biển, nhưng chưa đủ ngày để sự căng thẳng trên tàu trở thành một tấn bi kịch. Tôi tin rằng tấn bi kịch thật sự không bao giờ ở đó; đó chỉ là truyền thuyết. Về chứng cớ từ những nguồn nguyên thủy, cuốn Nhật ký chỉ nói về sự càu nhàu và phản đối, chưa bao giờ nói đến bạo động, hay những cuộc nổi loạn thực sự. Chuyến đi biển quan trọng nhất trong lịch sử đã qua những biển yên tĩnh nhất của tám cuộc vượt Đại Tây Dương của Colombo. Trừ một ít giờ ngày 23 tháng 9, Đại Dương chưa bao giờ nổi sóng, dữ tợn hoặc tối đen. Những con tàu luớt nhẹ trên mặt nuớc luôn luôn phẳng lặng như ‘‘dòng sông ở Seviglia’’. Rồi chính ngày cuối cùng, ‘‘biển đầy sóng gió, nhiều sóng gió hơn họ thấy trong suốt cuộc hành trình’’. Những làn sóng bao phủ đuôi tàu, tăng sức đẩy đi tới đích. Lịch sử mà gần như truyền thuyết: hình như có một bàn tay tiên đã huớng dẫn những con tàu.

Chú thích:

(1) Bản dịch tiếng Anh ghi ngày 8 tháng 10. Ở đây dịch theo bản tiếng Ý.

(2) Những con số là xấp xỉ, nhưng không phải vì sự khác nhau về ý kiến của các nhà địa lý học. Các vùng có sự thay đổi do kết quả những dòng nước biển và những cơn bão, những sự khác nhau có thể đánh giá được từ năm này qua năm khác và thậm chí từ mùa này sang mùa khác. (TG)

(3). Tôi đã từng nói đến hải lý và dặm, dùng những thuật ngữ của Colombo. Hải lý là 4 dặm, trong khi dặm là dặm vùng Địa Trung Hải, hoặc 1.480 mét (6.856 thước Anh). Trái lại, dặm đường biển hiện đại là 1.852 (6.076 thước Anh), như vậy dặm của Colombo là bằng 3,18 dặm đường biển hiện đại, không phải 4. (TC)