Chương 19 CÁI MỚI CỦA VÙNG ĐẤT MỚI- -
Sau khi rời Cuba, ngày 6 tháng 12, chiếc Santa Maria và chiếc Nina đã cập bến một hải cảng tự nhiên mà Colombo đặt tên là San Nicola trên đảo Hispaniola. Hải cảng thực độc đáo, nhưng hòn đảo còn đáng ghi nhớ hơn, vì nó giống Tây Ban Nha: "Hòn đảo hình như được hoàn toàn cầy cấy, hoặc gần như thế và những cánh đồng trông giống ruộng lúa mì vào tháng năm tại vùng nông thôn Cordoba... nhiều loại cây giống hệt như ở Tây Ban Nha, thí dụ, cây sồi xanh, cây sồi, cây dương mai. Thủy thủ bắt cá bơn và những cá khác như ở Castiglia. Họ thấy cây mía, những cây cỏ khác, đất và núi giống như ở Castiglia. Ngay cả mưa và lạnh cũng giống Castiglia vào tháng mười. Tất cả những điều này đã khiến viên Đô đốc đặt tên cho hòn đảo là Espanola mà Peter Martyr dịch sang La-tinh là Hispaniola, cái tên vẫn còn được dùng tại xứ Ý, khi người ta muốn chỉ toàn bộ đảo, gồm có hai quốc gia. Haiti và nước Cộng hòa Dominicana.
Sau này trong cuốn Nhật ký Colombo nói rằng những gì ông trông thấy trên đảo Hispaniola "là một kỳ quan". Ông đã tìm thấy gì tại những vùng Đất Mới? Mối quan tâm đầu tiên của ông là xác minh cây cối lớn và nhỏ. Ông nghĩ rằng ông đã nhận thấy cây lô hội và quyết định cắt và kéo lên tàu khoảng mười tạ cây ấy, vì theo người ta nói, "gỗ cây ấy là loại giá trị nhất", và đúng như thế. Lá và nhựa cây lô hội đã được dùng để sản xuất thuốc từ hồi cổ đại. Cuối thời Trung cổ và mãi đến cuối thế kỷ trước, người ta vẫn tin rằng từ cây lô hội có thể chế một loại thuốc trường sinh. Như vậy Colombo không sai về giá trị của cây lô hội, nhưng ông sai trong việc nhận biết cây lô hội: cây mà ông mang về không phải là cây lô hội mà chỉ là loại gỗ có mùi hăng
Một sai lầm khác nữa là về cây nhũ hương; sai lầm này chắc phải xẩy ra ngay sau đó, mặc dù lần này con người thành Genova không sai lầm trong việc nhận biết cây ấy. Ngày nay người ta còn thấy cây nhũ hương ở vùng biển Caribê. Cây có lá rất to và cũng có mùi thơm như cây nhũ hương Địa Trung Hải, trên các đảo Egeo, Sardegna và ở Liguria. Khi Colombo bắt gặp mùi nhũ hương từ một đống lửa lớn để xảm thuyền(1), ông nhớ lại rất rõ những cây nhũ hương ở Chio và giá trị của chúng, ông quyết định tìm cây đó.
Sau khi phát hiện ra cây nhũ hương ở Cuba, các thủy thủ lại tìm thấy cây đó, hoặc ít nhất một cây tương tự với số lượng lớn ở đảo Hispaniola; đảo này dày đặc những cây nhũ hương nên người ta thu được nhiều tinh dầu, nhưng lúc đó chưa phải mùa thu hoạch, vì trong mùa này những giọt nhựa giỏ xuống từ trên cây không cứng lại. Colombo đã ghi lại như vậy cho ngày 10 tháng 12. Ngày hôm sau ông viết "Nhiều người lại được cử lên bờ và họ lại thấy nhiều tinh dầu nhũ hương".
Hồi tưởng lại những kinh nghiệm của ông ở Chio, Colombo ghi lạị trong Nhật ký ngày 12 tháng 11 rằng từ những cây nhũ hương ở Chio những nhà buôn ở Genova đã kiếm được "năm mười nghìn duca một năm". Đây là một nguồn của cải. Chưa thể bảo đảm là có vàng và ngọc trai và ông không thể nói chắc chắn là có hương liệu. Nhưng cây nhũ hương thì có. Tuy vậy những cây nhũ hương ở đây không cùng một loại. Cây nhũ hương ở vùng biển Caribê giống cây nhũ hương vùng Địa Trung Hải; tuy nhiên cả hai không cho nhiều của cải; là thuốc thông thường thì đúng, nhưng không có giá trị thương mại lớn. Cây nhũ hương ở Chio là một ngoại lệ, gần như một xảo thuật của thiên nhiên, và chỉ ở miền Nam của đảo này cây nhũ hương mới sản sinh đủ tinh dầu để làm một sản phẩm có giá trị cho cả doanh nghiệp nhỏ lẫn công nghiệp.
Không phải chi có cây nhũ hương đã làm cho Colombo phấn chấn. Trên đảo Cuba, "khi ông ngửi thấy một mùi tuyệt diệu, ông chắc rằng đã tìm thấy cây và cỏ thơm" (2 tháng 11). Khứu giác của Colombo không đánh lừa ông. Những đảo Caribê là những vùng đất của hương liệu, sau này nhiều hương liệu châu Á đã được đưa vào đây, khác hương liệu bản xứ nhưng không kém thơm. Như vậy thất vọng và hy vọng, xen kẽ nhau và tiếp tục tại Haiti, nơi mà Colombo tin rằng hạt tiêu thực sự là một hương liệu. Ông viết: ‘’Hạt tiêu của họ tốt hơn hạt tiêu của chúng ta và không ai ăn mà không cho thêm thứ gia vị này, hương liệu này hổ trợ nhiều cho sức khỏe. Một năm người ta có thể chở đầy năm mươi thuyền buồm hương liệu từ đảo này. Sau này Peter Martyr bình luận rằng: "Họ cũng mang từ đó về một số hạt có vết nhăn, màu sắc khác nhau, cay hơn hạt tiêu Caucase, và những cành cây cắt phơi khô giống như quế, nhưng về mùi vị vỏ cây và ruột giống như gừng cay.’’ Đó là quả và thân của một loại cây mà cho đến thời đó Thế Giới Cũ chưa biết đến, quả hạt tiêu hình loe. Ngày nay những quả hạt tiêu hình loe và ớt được trồng và dùng trên mọi lục địa. Không những người ta thấy hạt tiêu hình loe và ớt muối ở các nhà trong mọi nước mà còn trong việc nấu ăn thông thường trên thế giới, nó đã thành quen miệng cũng như đã được phổ biến khắp mọi nơi.
Những cây cọ tại Cuba gây ấn tượng cho Colombo, vì có nhiều và khác với những cây cọ ở Ghinê và Tây Ban Nha. Những cây đầu tiên Colombo trông thấy có chiều cao trung bình: Những cây ấy có thân lớn, không có vở ở gốc và lá rất to, người bản xứ dùng lá cây để lợp nhà. Ngày 28 tháng 10, viên Đô đốc viết như vậy. Như đã nêu trong chương trước, ngày 30 tháng 10, Colombo đặt tên một mũi đất là Capo Delle Palme, những cây cọ vẫn còn đó. Mục ghi trong Nhật ký ngày 14 tháng 11 nói "những lùm cây cọ nối tiếp nhau vô tận". Và cuối cùng ngày 17 tháng 11, ông đã gặp "những cây cọ rõ ràng hơi cao hơn những cây mà ông đã từng trông thấy". Mười ngày sau đó ông lại phát hiện "những cây cao và đẹp nhất" chưa từng thấy trong các loại cọ. Đó là loại cọ vua, từ trước đến hồi đó châu Âu chưa hề biết. Những cây cọ khác mà Colombo phát hiện ra ngay, không phải là những cây chà là nổi tiếng ở Tây Ban Nha và châu Phi thuộc vùng Địa Trung Hải và cũng không phải là những cây dừa như một số người nghĩ. Cây dừa ngày nay rất nhiều ở vùng biển Caribê đã du nhập sau này. Những cây ấy cũng không phải là cọ dầu như ở Ghinê, Colombo đã nhận xét chúng là một loại khác, người ta vẫn còn thấy ở quần đảo Bahamas và ở nơi này, nơi khác trên những đảo thuộc vùng Caribê. Người ta gọi chúng là cọ lùn vì chiều cao của chúng, mặc dù hoàn toàn bình thường, vẫn còn kém xa chiều cao của những cây cọ vua đồ sộ.
Nhưng những phát kiến thực vật học quan trọng nhất không phải là những cây cọ vua, gây nhiều ấn tượng và uy nghi, cũng không phải những cây thông, có nhiều một cách khác thường, thậm chí cũng không phải những loại hương liệu mới, mà là những cây khi đưa vào nền kinh tế châu Âu và thế giới sẽ tạo ra một cuộc cách mạng thực sự: ngô, khoai, thuốc lá, và những loại bông mới. Một vài con số thống kê đủ để chỉ rõ tầm quan trọng hiện nay của những loại cây ấy và không ai phủ nhận điều đó. Hàng năm người ta trồng hơn 330 triệu tấn ngô, gần một nửa số ngô trong Thế Giới Cũ; hơn 330 triệu tấn khoai, gần hai phần ba số khoai ở châu Âu và châu Á; và hơn 5,5 triệu tấn thuốc lá, gần ba phần tư số thuốc lá ở châu Âu và châu Á.
Lần đầu tiên trông thấy ngô, Colombo đã nhầm nó với một loại kê, và trên đảo Haiti ông đã nhầm nó với lúa mạch. Ferdinando thì chính xác hơn, nói về "một loại hạt khác, mà người ta gọi là Mahiz; khi nấu, nướng, hoặc xay làm cháo, loại bột này có mùi vị tuyệt diệu nhất. Peter Martyr chưa bao giờ trông thấy một cánh đồng ngô nên đã nhầm lẫn khi nói rằng có rất nhiều loại "lúa mì, hoặc cỏ khô cho súc vật ăn". Lời khẳng định này không thể có vào năm 1493. Colombo đã mang cây đó về Tây Ban Nha sau chuyến đi đầu tiên của ông. Nhưng giống cây trồng mới này chỉ tràn lan khắp châu Âu sau nhiều năm và thậm chí nhiều thập kỷ. Hình như cây này đánh dấu sự nhầm lẫnđãá định sẵn, vì ngay cả cái tên trong lời nói hàng ngày - Granoturco (hạt Thổ Nhĩ Kỳ) ở nước Ý, Turkey Wheat (lúa mì Thổ Nhĩ Kỳ), ở Anh Blé de Turquie (lúa mì Thổ Nhĩ Kỳ), ở tiếng Pháp thì một từ ngữ mơ hồ, không có quan hệ gì với Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng trong thế kỷ thứ XVI Turkish (thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ) được áp dụng cho bất cứ cái gì ngoại lai đối với thế giới Công Giáo.
Khoai không xuất hiện trong Nhật ký trong chuyến đi biển lần thứ nhất, cũng không xuất hiện trong những bản tường thuật về những cuộc đi biển sau. Khoai tây thực sự không thể nói là ở trong số những phát kiến của Colombo. Dân Caribê không trồng khoai tây và ngày nay người ta cũng không trồng, vì nó không thích ứng với khí hậu. Người ta mới chỉ tìm thấy khoai tây mấy thập kỷ sau tại vùng núi Andes ở miền bắc Chilê, Peru và Ecuador. Nhưng nếu về thuật ngữ khoai tây không phải là một phát kiến của Colombo, nó vẫn có thể được coi như vậy, vì hai loài gần giống với nó là khoai lang (người Anh-diêng gọi là ajes) và sắn (ngày nay ở Trung và Nam Mỹ còn gọi là Yuca. Những thứ này không phảị là họ hàng thân thuộc về ý nghĩa chặt chẽ của khoa học thực vật, nhưng khoai tây, khoai lang và sắn, tất cả đều là những củ có cùng những đặc tính dinh dưỡng, có thể thay thế cho nhau, hoặc khi đói kém thiếu ăn có thể thay thế cho các loại hạt, ngô, hoặc gạo. Như vậy việc phát hiện ra khoai lang và sắn có thể coi là một sự lường trước việc phát hiện ra khoai tây.
Đầu tiên Colombo nghĩ rằng khoai lang vùng Caribê là cùng loại với ajes, khoai Yams ở Ghinê. "Những vùng đất này rất màu mở; sản xuất một lượng lớn Niames, giống như cà rốt có mùi vị hạt dẻ", Colombo đã viết như vậy ngày 4 tháng 11 trên đảo Cuba và ngày 6 tháng 11, ông viết "đất phì nhiêu và giống khoai Yams". "Ngày 15 tháng 11, ông viết trong Nhật ký. "Những rễ của cây này người Anh-diêng dùng làm bánh của họ", ông nhắc đi nhắc lại trong suốt cuộc khảo sát Haiti.
Tin vang dội về phát kiến của Colombo là những củ này. Không phải chỉ có dân Ghinê ăn khoai, các dân tộc ở Thế Giới Mới cũng trồng và ăn khoai; khoai sinh trưởng dưới mặt đất, giống như rễ cây và về mặt thực vật học, đó là rễ cây, hoặc một bộ phận cửa rễ cây. Colombo và những người Tây Ban Nha ăn những loại củ này và thấy rằng bánh sắn ngon, hơi giống vị hạt dẻ; họ quen ăn bánh ấy. Sau khoai lang họ thử ăn yuca - sắn đã lọc chất độc - và thấy bổ và ngon. Họ cũng không coi thường khoai vùng Caribê; họ rửa, chặt, nghiền và thêm vào súp, hoặc những món ăn có thịt. Như vậy cuộc cách mạng về ăn uống đã bắt đầu và bùng nổ với khoai tây?
Khoai tây thực sự chỉ xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ XVI. Nó khó tồn tại ở các thuộc địa châu Mỹ và việc nó đi vào châu Âu là khiêm nhường. Tuy nhiên một thế kỷ sau, thành công của nó là hiển nhiên. Năm 1645 nhờ có khoai, nước Đức đã thoát khỏi nạn đói kinh khủng. Tại nước Pháp năm 1771 người ta thưởng cho ai tìm được thứ thay thế ngũ cốc trong bữa ăn chính. Parmentier trở về từ một nhà tù ở Đức, đã gợi ý khoai tây. Cuối cùng loại thức ăn này đã lôi cuốn sự chú ý của Louis XVI. Vị vua này gọi khoai là "bánh mì của người nghèo" và thúc đẩy việc trồng khoai.
Vốn là "bánh mì của người nghèo", khoai tây đã thay thế bánh mì lúa mạch đen và trong hàng trăm năm là thức ăn chính của nông dân châu Âu. Khi người ta coi bánh mì làm từ lúa mạch đen là nguyên nhân của một trong những bệnh dịch đáng sợ nhất trong bệnh học thời trung cổ do nấm trên hạt ngũ cốc này gây ra, việc sử dụng khoai tây thay lúa mạch đen rõ ràng đã cải thiện sức khỏe dân chúng, ít nhất là cho đến khi tìm ra những phương tiện tối tân để tẩy lọc lúa mạch đen.
Khoai tây đã tạo ra một cuộc cách mạng thực sự trong nông nghiệp, kinh tế, sự ăn uống, và trước hết là sức khỏe của các dân tộc ở Thế Giới Cũ bằng sự góp quyết định của nó vào việc loại trừ một phần những tai họa do nạn đói và bệnh dịch gây nên. Cuộc cách mạng mở rộng đến cả chiến lược quân sự. Người ta đã nhận xét một cách đúng đắn rằng, nếu không có khoai, Napoléon đã không thể đạt được những thắng lợi. Việc chuyển quân nhanh chóng - nguyên tắc chủ chốt trong chiến lược của vị tướng người đảo Corse vĩ đại này - đã không thể thực hiện được nếu hàng chục, hoặc hàng trăm nghìn quân của ông không chở những số lượng lớn khoai thay cho bột tốn kém hơn, dễ hư hỏng hơn và khó xử lý hơn nhiều.
Người châu Âu mất ít thời gian học cách sử dụng thuốc lá hơn là dùng khoai tây: mất gần hai thế kỷ để dùng khoai, mất khoảng bảy mươi năm để dùng thuốc lá. Khi đổ bộ lên San Salvador, thuốc lá được lập tức phát hiện. Ngày 15 tháng 10, trên đảo Fernandina, Colombo viết trong Nhật ký "một số lá khô mà dân ở đây đánh giá cao, vì trước đó họ đã tặng cho tôi trên đảo San Salvador". Ngày 6 tháng 11 ông cử hai người Tây Ban Nha đi khảo sát đảo Cuba, họ đã kể việc "gặp nhiều người đàn ông đàn bà đang đi về làng, tay cầm một que củi đang cháy và những lá cỏ để uống cái khói theo phong tục của họ". Tôi đã dùng nguyên văn cách nói của tiếng Castiglia "uống cái khói", vì đây là lần đầu tiên người châu Âu nói đến việc hút thuốc. Trong thực tế Tomar Sus Sahumerios có nghĩa là hít khói vào. Trên đảo San Salvador và đảo Long, lần đầu tiên những người châu Âu biết lá thuốc lá và trên đảo Cuba, hai thủy thủ Tây Ban Nha trông thấy việc sử dụng thuốc lá kỳ lạ lần đầu tiên.
Don Ferdinando tường thuật không thay đổi gì những điều được kể lại đơn giản trong Nhật ký. Qua báo cáo chính xác hơn của Las Casas, chúng ta biết rằng thực tế Xì-gà hồi đó giống như hiện nay, thật là đáng ngạc nhiên. Cần nói thêm rằng danh từ tabaco trong tiếng Arawak có nghĩa là "cigar", chứ không phải như ngày nay có nghĩa là cây mà người ta thu lượm lá. Hai thủy thủ Tây Ban Nha, như Las Casas, đã nói một cách chi tiết sự xuất hiện của Cigar, lưu ý rằng đàn ông và đàn bà cầm "một thanh củi cháy trong tay,... và những cỏ khô", đặt trong một lá khô, giống như những pháo nhỏ của những con trai Castiglia làm cho lễ Pentecoste (lễ Công Giáo). Họ đốt một đầu và hút khói từ đầu kia; bị say, họ vẫn không cảm thấy mệt.
Trong số những phát hiện nói đến từ trước đến nay, thuốc lá có ảnh hưởng lớn trong việc làm thay đổi thói quen của đàn ông và đàn bà của Thế Giới Cũ, lớn hơn cả khoai, ngô, cà chua, đậu và hạt tiêu. Tất cả những thứ đó đã làm thay đổi cách ăn uống của người châu Âu và châu Á. Đó là một ảnh hưởng còn lớn hơn nhiều phát kiến khác, quan trọng hơn về phương diện khoa học.
Tôi đã nêu cà chua và đậu; người ta có thể thêm ca-cao vào bản liệt kê những sản phẩm đã cách mạng hóa ngành nông nghiệp, cách ăn uống và nền kinh tế của toàn thế giới. Nhưng Colombo đã không biết ba cây này, hoặc ít nhất ông không nói ró rằng ông quen với những cây ấy, trừ việc đề cập đến hột ca-cao những người Anh-diêng dùng làm tiền trên một chiếc thuyền ở ngoài khơi Honduras trong chuyến du hành lần thứ tư. Sau ngày tôi sẽ nói về vấn đề đó.
Cuối cùng là cây bông, không phải là một trong những phát hiện của Colombo, nhưng những loại và tiểu loại bông thấy ở Thế Giới Mới thì chưa ai biết ở Thế Giới Cũ. Cùng với cây nhũ hương, bông là một trong vài thứ mà cả hai bên thế giới đều biết trong cuộc gặp gỡ. Nếu Colombo đã sai lầm trong việc tiên đoán những lợi ích kinh tế lớn lao từ cây nhũ hương, ông đã không sai lầm về bông. Ông ta đã báo cáo về bông sau lần đổ bộ đầu tiên lên đảo San Salvador. Colombo đã ghi trong Nhật ký ngày 13 tháng 10 "bông mọc trên đảo này" và ông thêm rằng ông đã trông thấy những người bản xứ bán mười sáu cuộn sợi bông nặng hai mươi nhăm đến ba mươi cân Anh để lấy mấy xu. Ông lập tức cấm việc buôn bán này và không cho phép ai làm như thế, "để dành hoàn toàn bông cho Vua và Hoàng hậu nếu chúng ta thấy khối lượng lớn bông."
Ngày 6 tháng 11 trên đảo Cuba viên Đô đốc nói rằng những người Tây Ban Nha "đã trông thấy bông thô đã xe và dệt, và họ ước lượng rằng một nhà thu hoạch được hơn năm trăm Arrobas (2) và mỗi năm người ta có thể thu hoạch bốn nghìn tạ". Viên Đô đốc nói thêm, ông tin rằng dân bản xứ không trồng bông và bông sinh sản quanh năm; bông hoàn toàn đẹp và có quả nang rất to. Một loại bông khác, loại của Thế Giới Cũ, xù xì hơn, có lá thường chia thành ba thùy, thay vì năm thùy, những cánh hoa trắng không có chấm.
Bông của Thế Giới Cũ có những cành hoa vàng có một chấm đỏ. Colombo không tường thuật tất cả những điểm khác nhau này, nhưng ông nhận ra rằng bông của đảo Cuba "có một quả nang rất to và rất đẹp", như vậy ông ta phải biết bông của Thế Giới Cũ, có lẽ từ miền Andalusia, nơi mà trong thế kỷ thứ IX những người Moor đã đưa bông vào, tuy với một quy mô nhỏ. Hai chi tiết của Colombo như mọi lần cho thấy khả năng quan sát nhạy bén của ông về thiên nhiên, không những chỉ về biển cả, khả năng của ông về biển cả thì phi thường rồi, mà cả trong vương quốc các cây cỏ, đúng là bông ở Trung Mỹ xù xì hơn, quả nang to hơn, với đầu quả nổi nhọn hơn.
Colombo đã nhìn thấy trước rằng có thể sản xuất một lượng lớn bông tại Cuba, như Las Casas đã báo cáo, và người ta có thể bán nhiều bông ấy. Sự phát triển của ngành công nghiệp bông ở châu Mỹ đã hoàn toàn đáp ứng trực giác của Nhà Phát Kiến. Tuy nhiên trong khi ngô, khoai, thuốc lá, cà chua, đậu, hạt tiêu, ca-cao và những cây khác đã gây ra một cuộc cách mạng trong phong tục của toàn thế giới, đơn thuần vì việc du nhập chúng, cuộc cách mạng kinh tế khởi đầu bằng bông chỉ bắt đầu với bốn phát minh cơ khi lớn trong thế kỷ thứ XVIII.
Bắt đầu năm 1 738 Wyatt, Hargreaves Arkwright, và Crompton đã phát minh và hoàn thiện những thiết bị khác nhau và cuối cùng đã dẫn đến một máy quay sợi nổi tiếng vào năm 1779, một con suốt cơ khi cuối cùng đã cho phép một người đàn ông và bốn người con trai làm công việc của sáu trăm phụ nữ. Năm 1785 James Watt đã phát minh ra máy hơi nước, giải phóng nền công nghiệp khỏi phụ thuộc vào súc vật và sức nước. Cùng năm 1785, Edmund Cartwright đã phát minh khung cửi máy, khung cửi này dệt một ngày bằng nghìn người dệt tay. Cuối cùng năm 1792 Eli Whitney thuộc Massachusets đã được cấp giấy chứng nhận quyền phát minh về máy cán bông, máy này đơn giản hóa việc tách hạt ra khỏi bông.
Người ta có thể nhận thấy ý nghĩa của những sự kiện này bằng cách xem xét hai con số. Vào giữa thế kỷ thứ XVIII, nước Anh đã nhập khẩu một ít tấn bông từ Mỹ; trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ XIX, nước Anh nhập khẩu 385.000 tấn. Việc trồng bông, với nhiều loại khác nhau và những loại có thể thích ứng được, đã lan tràn ra tất cả những vùng nhiệt đới và ôn đới trên thế giới. Sự phát triển xoáy trôn ốc của công nghệ, với việc tạo ra và sự lan tràn ngày càng tăng của sợi tổng hợp, đã không chặn đứng, hoặc thậm chí làm chậm được, sự phát triển của bông. Gần đây việc sử dụng bông làm cây mang dầu đã làm cho cây bông còn lan rộng thêm nữa, hầu như khắp mọi nơi người ta trồng bông, vì hai mục đích, hoặc để lấy sợi, hoặc để lấy hạt có dầu.
Những "sợi chỉ của quỷ" dùng đến 10 triệu người ở châu Mỹ, 12 triệu người ở Khối Thịnh vượng chung của Anh và có lẽ 100 triệu người trên toàn thế giới. Vàng trắng đã có vị trí, cùng với vàng màu vàng và vàng màu đen (dâu). Trong ba loại này Colombo không nghĩ đến, thậm chí cũng không tưởng tượng được, sự tồn tại của vàng đen. Ông lập tức thấy tầm quan trọng của vàng trắng và tiên đoán sự phát triển của nó tại những vùng đất mới của cuộc phát kiến vĩ đại. Còn vàng màu vàng ông tiếp tục cuộc lùng kiếm say mê.
Chú thích:
(1) Xảm: Dùng những thứ có nhựa để trít kín các kẽ hở ở đáy tàu thuyền.
(2) Arroba là một đơn vị trọng lượng của Tây Ban Nha, tương đương 11,502 kg (T.G)