← Quay lại trang sách

Chương 27 MỎ VÀNG- -

La Isabela được thành lập ngày 2 tháng 1 năm 1494. Ngày 6 tháng Giêng, bữa tiệc lễ kết thúc mùa Giáng Sinh, đã chứng kiến lễ Mi-sa lần đầu tiên tại Thế Giới Mới. Cha Boil - một người thuộc tỉnh Catalan ở Đông bắc Tây Ban Nha, thuộc dòng tu thánh Bénédic, đại sứ của Đức Giáo hoàng - đã làm lễ. Cùng dự lễ là những cha thuộc dòng tu Francesco Juan de la Duela và Juan de Tisin, cha thuộc dòng tu khổ hạnh Roman Pane, bốn thầy tu thế tục, và năm thầy tu hành khất thuộc dòng tu Francesco từ tu viện Montserrat ở Catalogna. Lễ Mi-sa được tiến hành tại một nhà thờ nhỏ lập tạm, trang hoàng bằng những bức trướng màu đỏ sẫm sặc sỡ do Hoàng hậu Isabela người Công giáo đã lấy từ nhà thờ nhỏ của Hoàng gia ban cho để dùng trong nghi lễ.

Ngày 2 tháng 2 nhà thờ đã làm xong, nhà thờ gồm có nơi ở của các cha xứ và nơi thờ cúng, có tường bằng đá bao quanh để đề phòng những cuộc tấn công của người bản xứ. Những ngôi nhà công cộng khác cũng làm bằng đá; chỉ có những nơi ở riêng tư là bằng gỗ và rơm rạ. Ngày 24 tháng 4 năm 1494, theo các tài liệu, La Isabela đã có những công chứng viên, một thị trưởng và những ủy viên Hội đồng thành phố và những người giám sát việc cung cấp nước. Đó là chính quyền đô thị tự trị đầu tiên ở châu Mỹ.

Ngày 10 tháng 3 năm 1496, khi Colombo lên đường về Tây Ban Nha, kết thúc cuộc hành trình phát kiến thứ hai, ông đã cử hai người anh của ông là Bartolomeo làm toàn quyền và Diego làm phố toàn quyền. Việc trao quyền đã diễn ra tại La Isabela, gồm cả lễ phong chức thị trưởng cho Francisco Roldán. Những mối bất hòa giữa Roldán và Bartolomeo và sau này giữa Roldán và viên Đô đốc đã góp phần làm suy tàn La Isbela. Trong những năm cuối của thế kỷ XV thành phổ mới Santo Domingo trên bờ biển phía Nam đảo Hispaniola bắt đầu có tầm quan trọng ngày càng lớn. Nhưng những cuộc đấu tranh huynh đệ tương tàn cũng như sự cạnh tranh của Santo Domingo đều không giải thích được một cách đầy đủ sự suy sụp nhanh chóng của La Isabela. Năm 1499 thành phố đã hấp hối. Một năm sau những ngôi nhà đá, những chứng kiến buồn tẻ của một thời đã qua, đều im tiếng. La Isabela đã biến đi, không có vinh dự được chứng kiến sự kiện to lớn nào, dù nhân tạo hay tự nhiên.

Thành phố đầu tiên do Colombo xây dựng, một đô thị tự trị đầu tiên của Tây Ban Nha, góc rễ đầu tiên của thế giới châu Mỹ La tinh - rất nhiều cái đầu tiên cho La Isabela. Và còn một cái đầu tiên nữa - đó là chết đầu tiên, trong khoảng sáu năm. Thành phố đó không tái sinh. Tin cho rằng nơi này có ma đã lan truyền sớm và nhanh đến nỗi Las Casàs kể lại đã nghe thấy chuyện đó mấy năm sau: những người định cư ở đất mới đã chết tại đó lại đi bộ, lang thang khắp khu nhà đổ nát, chào một cách nghi thức những người liều đi vào những phố đã bị bỏ hoang, và sau đó tan biến thành bột khi có người ôm ghì họ, bắt tay họ, hay sờ vào họ bằng bất cứ cách nào.

Những chuyện nói rằng nơi này có ma không phải là yếu tố duy nhất ngăn cản sự tái sinh của La Isabela. Bờ biển phía Bắc đảo Hispániola chịu những cuộc lùng sục lặp đi lặp lại của bọn cướp và những ảnh hưởng của những cuộc chiến tranh giữa các cường quốc châu Âu nhiều hơn vùng bờ biển nhía Nam.

Ngày nay Isabela không phải là một đô thị, cũng không phải là một huyện và thậm chí một "làng" cũng không. Chỉ có những ngôi nhà nhỏ trên đồi, sáu trăm người bản xứ sống ở đó làm nghề đánh cá, nông nghiệp và kiếm một ít tiền từ những khách du lịch thỉnh thoảng đến đó thăm nguồn gốc của đế quốc Mỹ La tinh, một đế quốc đã suy tàn về chính trị nhưng về văn hóa thì rất sinh động và tốt đẹp.

La Isabela không hồi sinh, đầu tiên vì nó không có một hải cảng. Điều gì đã làm cho Colombo không chọn một hải cảng tốt? Ông không sinh ra để thành lập các thành phố mà là một nhà đi biển xuất sắc, ông là người xét đoán giỏi nhất về những hải cảng. Chỉ có một lý do: kinh nghiệm thử thách mà tôi đã nói đến rất dài dòng. Nỗi khổ tâm phải đi chỉ có ba mươi dặm trong hai mươi nhăm ngày đã buộc Colombo phải lựa chọn tồi. Việc lựa chọn đó không tốt, không phải vì đồi La Isbela không gợi cảm mà vì Vịnh không thích hợp cho một hải cảng và cũng không được kín gió.

Lễ Mi-sa kết thúc mùa Giáng sinh chưa kết thúc thì viên Đô đốc đã ra lệnh cho Alonso de Hojeda và Ginés de Gorvalán đi vào phía trong đảo để tìm mỏ vàng. Sau khi vượt qua "Dãy núi phía Bắc", họ đi xuống Vega Real, một cánh đồng rộng với "một dòng nước lớn, rộng hơn và lớn hơn dòng nước ở Siviglia", như Michele da Cunéo miêu tả dòng sông Rio Yaque del Norte. Năm trước Colombo đã đặt tên dòng sông này là Rio de Oro vì đã thu lượm được nhiều bột vàng ở đó. Nhiều con suối xuất phát từ những ngọn núi bên trái đảo Cibao chảy vào sông Rio Yaque. Như Pietro Martire viết: "Trong cát của những con sông này, những người Anh-diêng đi cùng với những người Tây Ban Nha đã thu lượm vàng bằng cách thọc tay tới một độ sâu khoảng một thước Anh và múc cát lên. Từ đáy lỗ họ xúc cát bằng tay trái và nhặt vàng bằng tay phải và, dễ dàng như vậy, họ để những cục vàng vào tay chúng tôi. Nhiều người nói họ đã trông thấy nhiều cục vàng to bằng hạt đậu. Chính tôi sau này đã trông thấy một cục vàng giống như một hòn đá trên sông nặng chín ao-xơ; chính Hojeda đã tìm thấy cục vàng đó.

Michele da Cuneo bảo đảm với chúng tôi rằng trong số những mẩu vàng tặng cho viên Đô đốc có ba miếng đáng giá 8,15, và 22 cástellanos (khoảng 165, 300 và 450 đô la Mỹ, theo giá đô la năm 1987). Ước tính của Cuneo về vấn đề vàng, hoặc tiền bạc, giống như những ước tính của mọi người Liguria, không nói quá mà thận trọng.

Như vậy là có vàng! Có những mỏ vàng! Như Cuneo đã viết: "Viên Đô đốc và tất cả chúng tôi, không quan tâm gì đến hương liệu nữa mà chỉ quan tâm đến sự may mắn tìm thấy vàng. Chúng tôi tổ chức ăn mừng thịnh soạn". Colombo lấy lại lòng tin và quyết định cử mười hai trong số mười bảy tàu trở về Tây Ban Nha. Nếu Colombo có thể gửi nhiều thùng vàng thay vì những mẫu vàng thì tốt hơn, nhưng những mẫu vàng vẫn chứng tỏ không phải ông đã bị lôi cuốn vì giàu trí tưởng tượng trong bản tường thuật cuộc hành trình thứ nhất. Cùng với những mẫu vàng, ông cũng cử Gorvalán, một trong những người chỉ huy cuộc thám hiểm trở về Tây Ban Nha. Cùng với người kia, Hojeda, Colombo đã đến Cibao để đích thân xác minh sự tồn tại của các mỏ vàng.

Đó là một cuộc khảo sát quan trọng, cuộc đi bộ đầu tiên vào trong đất liền, cuộc khảo sát đó được coi như là mô hình những người Tây Ban Nha chinh phục châu Mỹ thế kỷ thứ XVI, từ Balboa đến Cortés, Pizarro, Orellana và nhiều người khác cho đến khi người ta biết tất cả những con đường có thể qua lại được trong bán cầu từ 40° đến 50° Nam. Từ khi bắt đầu cuộc phát kiến lần thứ nhất đây là lần đầu tiên Colombo đã đi nhiều dặm cách xa biển và cũng là lần ông đi xa như vậy vào đất liền. Nơi ông đến mà tôi sắp nói, cách La Isabela gần bốn mươi dặm theo đường chim bay.

Năm trăm người đi khảo sát, chia theo hàng ngũ "như vẫn thường diễn ra khi họ đi ra chiến trận, kèn thổi lên và cờ mở ra". Họ mang súng hỏa mai, và khi đi vào làng, hoặc rời khởi các làng, họ thổi kèn và bắn những loạt đạn để những người Anh-diêng có thể thấy được "sức mạnh của những người Công giáo". Tuy nhiên, có vẻ người Anh-diêng ngạc nhiên hơn về những con ngựa. Ngoài bộ binh ra, Colombo đã mang theo kỵ binh và những thiết bị để xây dựng một pháo đài nhầm bảo vệ an ninh cho tỉnh Cibao, và giữ cho người Tây Ban Nha được an toàn không bị xúc phạm, hoặc tổn thương nào sau khi thu lượm vàng. Kinh nghiệm đáng buồn ở La Navidad đã dạy viên Đô đốc phải đề phòng trước.

Colombo ra đi ngày 12 tháng 3 năm 1494, lội qua Bajabonico, con sông cung cấp nước cho La Isabela. Rồi ông đi ngược dòng đến bên bờ trái một chi lưu của sông Bajabonico. Con đường hiện nay từ biển đi đến địa phương dễ chịu ở Los Hidalgos phần lớn theo cùng một con đường. Sát phía Nam Los Hidalgos con đường lên cao tới 1.640 thước Anh ở đèo, về phía Tây là một ngọn núi 2.700 thước Anh, ở phía Đông-nam nổi lên dãy CordiIlera, Settentrionale mà những ngọn hiểm trở và sắc cạnh, lởm chởm của nó tới 4.100 thước Anh. Ngày nay đèo có một đường rải nhựa tốt. Có lẽ hồi đó chỉ là một con đường mòn khiêm nhường mà người Anh-diêng đã đi qua và liên tục bị cản trở bởi cây cỏ xanh tươi bao phủ, mọc ra sau mỗi trận mưa.

Bên kia đèo một toàn cảnh thần thoại mở ra trước những người Tây Ban Nha.

Như vậy ngày nay, bất cứ thời gian nào trong năm, nhưng nhất là trong tháng 3 và tháng 4, mưa làm cho mọi nơi của vùng nông thôn xanh tốt, và không khí dịu dàng tươi mát. Đó là cảnh Vega Real, cánh đồng lộng lẫy. Colombo đã đặt tên như vậy và có lý do, tên ấy đã sống qua nhiều thế kỷ vì trong số vô vàn kỳ quan của vùng biển Ca-ri-bê người ta hiếm thấy một đồng bằng rộng, phong phú, và trong xanh vây quanh bởi những ngọn núi xanh tươi đẹp đẽ. Đây là miêu tả của Lás Casas; ông đã trông thấy cánh đồng ấy mấy thập kỷ sau Colombo: "Đồng bằng tám mươi dặm, và từ trên ngọn núi nơi Colombo và những người của ông đứng, ta có thể thấy từ cạnh này sang cạnh kia hai mươi, hoặc ba mươi dặm. Ở đây tươi xanh và thoáng đãng, có nhiều màu chói lọi đẹp đến nỗi, người ta nghĩ ngay rằng mình đang đi vào một góc của thiên đường".

Đội quân bắt đầu đi xuống "với sự thích thú vui vẻ” vì sau khi xem toàn cảnh có một không hai của Vega Real, họ đi qua những cánh rừng làm cho người ta say mê. Ngày nay những cánh rừng vẫn còn quyến rũ và phát triển, mặc dù những cây bản xử đã được thay thế bằng những cây nhập khẩu từ vùng nhiệt đới châu Á và châu Phi, trước hết là dừa, nhưng cũng có những cây bưởi, cây chuối, cây hạt tiêu, nhục đậu khấu và nhiều cây khác. Niềm vui đã chiếm lĩnh tâm hồn đội quân năm trăm người của Colombo, cũng làm siêu lòng người du khách ngày nay tới những vùng huy hoàng này của nước Cộng hòa Dominique.

Michele da Cunao, Don Fernando và Lás Casas không đồng ý sự tiến triển của các sự kiện sau khi đoàn khảo sát rời Vega Reál. Tuy nhiên họ đồng ý với nhau về nơi sắp tới có sự kiện, một vùng ngày nay gọi là Fortaleza, ở phía Tây nam thành phố Janico, trên một đường dốc chia lưu vực sông Rio Bao với lưu vực sông Rio Jánico.

Từ Jánico người ta có thể đi một phần đường bằng xe, rồi phải đi bộ hoặc cưỡi la. Như Don Fernando đã chỉ rõ, những vùng rộng lớn vẫn không có cây, nhưng dọc theo những bờ sông Jánico và sông Bao là rừng rậm. Sông Bao mang một khối nước lớn ngay trong mùa khô. Con sông này chảy xiết và có những ngọn núi có cây cối tươi tốt bao quanh. Đây là một phong cảnh náo động và thể nào cũng gây ấn tượng cho những người Tây Ban Nha, nhất là những người chưa đi lên bờ đảo Guadeloupe. Rừng ở vùng núi trung tâm sẫm hơn rừng ở dãy núi Settentrional và cũng làm say mê lòng người.

Tuy nhiên, không có gì lôi cuốn bằng vàng. Colombo đã thu thập mười kilogram vàng từ những người Anh-diêng và nhận thấy rằng đảo Cibao không giống quần đảo Bahamas, bờ biển đảo Hispaniola và cũng không giống Ghi-nê tại những nơi này người ta dùng vàng để buôn bán như ở Genova. Ở đây người ta tìm thấy vàng ở trạng thái tự nhiên; ở đây có các mỏ vàng. Người ta vẫn còn tìm thấy vàng ở đó, không phải ở đảo Cibao mà gần đấy. Năm 1983 nước cộng hòa Dominique báo cáo đã sản xuất số một lượng vàng quan trọng: 11.240 kilôgam

Đây là phát kiến vĩ đại thứ hai Colombo đã mong ước từ ngày 12 tháng 10 năm 1442, khi ông trông thấy một người Taino đeo vòng vàng ở mũi. Bây giờ ông rất phấn khởi và tin tưởng. Ông bố trí sơ đồ một pháo đài, chỉ huy việc khởi công xây dựng và quyết định để lại một đội kỵ binh cỡi ngựa làm cho những người Anh-diêng sợ và năm mươi người dưới quyền chỉ huy của Mosén Pedro Margarite (hay Margarit). Sau khi đào những hào và xây dựng hàng rào, họ bố trí lục lượng đồn trú ở pháo đài, làm nơi ẩn náu an toàn và trung tâm khai thác mỏ.

Colombo nhận ra rằng Cibao không phải là Cipango (Nhật Bản). Nhưng bây giờ Cipango làm cho ông ít quan tâm hơn. Cuộc du hành thứ hai đã làm ông rất yên lòng: tại những vùng đất mới có nhiều cây trước đây chưa biết, nhiều hương liệu, những khu rừng tuyệt diệu, những cánh đồng phì nhiêu hơn bất cứ cánh đồng nào ở châu Âu, mưa nhiều và nhiều sông, những biển làm say mê lòng người ở cả bên trong lẫn bên ngoài những vách san hô, nhiều thực phẩm biển phong phú, ngon và lạ. Nói tóm lại những vùng đất mới có tất cả lòng hào phóng của Chúa, trong đó có vàng đủ làm giàu nhà vua Tây Ban Nha và toàn bộ nước Tây Ban Nha. Còn lại gì để phát kiến nữa. Ấn Độ, mục tiêu của kế hoạch lớn. Tuy nhiên tới Ấn Độ đòi hỏi tìm ra đất liền. Đảo Cibao không phải là Nhật Bản, nhưng điều đó không còn làm cho Colombo lo lắng. Vấn đề là tìm ra lục địa Trung Hoa, để cuối cùng tới Ấn Độ.