← Quay lại trang sách

Chương 29 CHIẾN TRANH VÀ NÔ DỊCH-

Không những làm quen với khí hậu là việc khó khăn, phát triển quan hệ giữa người da trắng và người Anh-diêng, lúc đầu rất tình cảm nay biến thành chua chát và cay đắng. Như vậy đến cuối tháng 9-1494, tình trạng thuộc địa rất nghiêm trọng

Trước khi rời đi Cuba và Giamaica, với cương vị là Tổng trấn, Colombo đã ra lệnh xây một con kênh từ Bajabonico đến trung tâm thành phố để cung cấp thêm nước và sức đẩy cho một máy xay. Mọi người đều phải làm việc, nhưng như đã nhận xét theo Las Casas, những người quý tộc "cảm thấy lao động chân tay là bất hạnh, cũng như chết hoặc tồi tệ hơn, nhất là họ không được ăn uống tốt". Những người định cư khác có thể muốn làm việc nhưng họ không thể làm việc vì khí hậu và dinh dưỡng tồi tệ, La Casas cũng tường thuật lại: "Như vậy Colombo phải dùng bạo lục để thực hiện ý muốn của mình". Oviedo còn nói tỉ mỉ hơn: "Colombo đã treo cổ một số người, đánh những người khác và trở nên nghiêm khắc và khắt khe hơn bình thường". Cha Boil, giáo chức đại diện phận Tòa thánh đã tố cáo Colombo quá nghiêm khắc. Như vậy bắt đầu một cuộc đấu bi hài giữa quyền lực tinh thần của Cha Boil và quyền lực trần tục của Colombo. Cha Boil cấm vị Tổng trấn tham gia những buổi lễ và hoãn những buổi lễ ban phuớc. Viên Tổng trấn đáp lại bằng cách cắt suất ăn của vị tu sĩ, suất ăn đã định khẩu phần một cách chặt chẽ. Đói đã buộc cha Boil phải đầu hàng.

Những hành động như thế không khuyến khích việc tôn trọng chính quyền và cũng không thúc đẩy sự phát triển khuôn phép của thuộc địa. Những sai lầm khác của Colombo cũng không giúp ích gì. Ông là một nhà hàng hải vĩ đại, không phải là một nhà chính trị. Ông đã sai lầm khi trao quyền hành cao nhất cho Don Diego không có khả năng khi ông vắng mặt lâu dài; một sai lầm khác là để cho Margarite chịu trách nhiệm thăm dò Vega Real. Khi cử đoàn tiến hành cuộc thăm dò đó, Colombo có ảo tưởng giải quyết mấy vấn đề cùng một lúc: hoàn thành việc khảo sát đảo, giữ cho mấy trăm người có việc làm, tránh căng thẳng về đồ tiếp tế tại La Isabela, và làm cho mọi người quen với thức ăn của người bản xứ. Thay vào đó, những người của Margarite đi lướt qua Vega Real, sống xa cách người bản xứ, gây ra mọi sự xúc phạm có thể tưởng tượng được.

Trước khi viên Đô đốc trở lại, Margarite và Cha Boil đã quyết định về Tây Ban Nha bằng những chiếc thuyền đã chở Bartolomeo là anh của Colombo và những người định cư mới đến. Họ định nói với Vua và Hoàng hậu rằng người Genova đáng nguyền rùa ấy đã lừa họ bằng những lời hứa hẹn sẽ có vàng, ngọc trai, hương liệu; vậy mà tất cả những cái họ thấy là nạn đói, bệnh tật, đau khổ và sự căm thù của người Anh-diêng. Khi viên Đô đốc trở lại sau khi khảo sát Cuba và Giamaica, những tội ác mà những người định cư tại La Naviđad đã phạm được lập lại trên một quy mô lớn hơn nhiều tại La Isabela. Những người Tây Ban Nha đã đi từng nhóm hai ba người trên đảo Vega Real và những ngọn đồi lân cận, hiếp phụ nữ, bắt một số và buộc những người đàn ông phải lao động nô lệ.

Tuy nhiên, viên Đô đốc thấy thoải mái khi gặp lại Bartolomeo, người đã đi nước Anh khi thấy Tây Ban Nha có vẻ không bảo trợ dự án lớn. Bartolomeo đã trải qua nhiều nghề làm cướp biển, ở lại Luân Đôn một thời gian dài làm nghề vẽ bản đồ, đi khắp nước Pháp - cho đến khi ông nghe tin về cuộc phát kiến vĩ đại, ông trở về triều đình Tây Ban Nha. Vua và Hoàng hậu Công giáo đón tiếp ông một cách thuận lợi, cho ông tước vị Don và cho ông chỉ huy ba chiếc thuyền chờ đồ tiếp tế đến Hispaniola.

Sự có mặt của Bartolomeo tại Thế Giới Mới là một may mắn bất ngờ. Tính tình ông không giống tính tình Diego. Colombo có ý thức gia đình rất lớn, suốt cuộc đời mình, Colombo giao những nhiệm vụ tế nhị nhất cho những người bà con. Ông đã làm như thế với Diego de Arana và Don Diego. Bây giờ ông lập tức cho Bartolomeo danh tước adelantado. Đó là sự sai lầm và lạm dụng về mặt quyền hạn. Vua và Hoàng hậu phật ý, vì chỉ có Vua và Hoàng hậu, chứ không phải Tổng trấn có quyền ban những tước vị cao như thế. Nhưng đó cũng là sự xét đoán sai lầm vì nó xúc phạm tính tự hào của Tây Ban Nha. Những nhà quý tộc Tây Ban Nha có thể chấp nhận người nước ngoài thực hiện phát kiến vì ông có may mắn tìm ra những vùng đất mới cho nhà vua Tây Ban Nha. Nhưng tại sao Bartomomec một người Genova khác lại có quyền hành cao hơn những đại diện chân chính của quốc gia Tây Ban Nha?

Sự bất mãn trong số những người định cư tăng thêm, tình hình không tốt lên mà trở nên tồi tệ hơn. Như thường vẫn xẩy ra, khi các vấn đề khó khăn phát triển đến lúc có vẽ không thể giải quyết được nữa thì những người cầm quyền dùng chiến tranh để giải quyết. Đó là trường hợp trên đảo Hispaniola vào cuối năm 1494 và đầu năm 1495. Tháng 3-1495 chiến tranh công khai đã nổ ra giữa những người Anh-diêng và những người Tây Ban Nha, Colombo không chủ tâm chọn chiến tranh; ông chỉ đơn thuần không biết sử dụng quyền lực chính trị. Trên tàu, ông đã giữ quyền thuyền trưởng, thi hành quyền đó một cách khéo léo, mạnh dạn và với trí tưởng tượng nhanh nhất. Nhưng quyền lực chính trị và quyền lực trên biển thì khác nhau hoàn toàn và Colombo không quen hoạt động chính trị. Do đó cần bác bỏ thuyết cho rằng ông muốn chiến tranh, ông cố tình chọn phương tiện tồi tệ nhất với hy vọng giải quyết mọi vấn đề bằng bạo lực. Trong thực tế, một cuộc chiến tranh du kích đã diễn ra trước khi viên Đô đốc trở về sau cuộc khảo sát hàng hải dài ngày của ông. Ông bị hoàn cảnh lôi cuốn vào chiến tranh: những sai lầm của ông và của những người giúp việc ông và nỗi lo sợ người Anh-diêng sẽ lợi dụng sự yếu kém của người Tây Ban Nha.

Đầu tháng Giêng 1494, trong khi soạn bản ghi nhớ để Antonio de Torres mang về cho Vua và Hoàng hậu, Colombo đã nhận xét rằng người Anh-diêng "chất phác và không có ác ý", nhưng ông lấy làm ngạc nhiên họ đã thay đổi và phá hủy mọi thứ, mạng nguời và đồ tiếp tế. Colombo viết tiếp: "Một người Anh-diêng có thể dễ dàng đốt những ngôi nhà, vì người Tây Ban Nha luôn luôn đi lại ngày đêm, vì như vậy chúng tôi phải gác khu vực xung quanh, bởi lẽ thành phố để ngỏ và không có phòng vệ". Vua và Hoàng hậu ghi chú ngoài lề "tốt", tức là, ông đặt những trạm gác là tốt. Cũng có ghi tên Caonabo, "rất xấu và rất mạnh dạn". Colombo giải thích rằng vì sợ người này, ông đã không thể liều đi sâu vào đất liền để góp nhặt thêm vàng. Bên cạnh đoạn này Vua và Hoàng hậu lại ghi "tốt".

Những trang đầu tiên của bản ghi nhớ Colombo gửi Torres cầm về, đề ngày 30 tháng 1-1495, cho biết rằng sợ hãi đã siết chặt người Tây Ban Nha và chính bản thân Colombo. Nổi sợ hãi đó là chính đáng, xét về số người bị ốm. Vì hiếm thực phẩm, nhất là thịt tươi, nhiều người ốm không thể khỏi, và nếu bệnh cứ tiếp tục không ngăn chặn được, người Anh-diêng có thể lợi dụng cơ hội tấn công La Isabela.

Nếu bản ghi nhớ phản ánh tâm trạng của Colombo trước khi ra đi khảo sát Cuba và Giamaica, chúng ta có thể tưởng tượng bảy tháng sau sẽ như thế nào khi không có biện pháp gì để giảm bớt nỗi sợ hãi, trong khi nguy cơ và hiểm nghèo tăng thêm. Trong thời gian Colombo đi vắng, người Anh-diêng đã có nhiều dấu hiệu cho thấy họ có thể trả đũa, họ biết họ có thể chiến đấu chống lại sự xúc phạm của những người định cư.

Không nên quên một động cơ khác nữa về hành động của Colombo hướng tới chiến tranh: sự mặc cảm mình là người nước ngoài, ông biết rằng bất cứ điều gì ông làm để bảo vệ người Anh-diêng và trừng phạt người Tây Ban Nha đều bị những người này giải thích bằng những từ ngữ mang tính chất dân tộc. Nghĩ rằng ông không bảo đảm lợi ích và những quyền cho những người dân của đất nước mà ông đã chấp nhận là Tổ quốc mình, thì họ sẽ phê phán ông và báo cáo với Vua và Hoàng hậu.

Dù nguyên nhân gì đi nữa, ông đã không trừng phạt những người quý tộc và những người định cư bất lương, ông đã đổ lỗi tất cả cho người Anh-diêng, chấp nhận chính sách khắc nghiệt của Cha Boil mà ông đã bác bỏ trước đó sáu tháng. Kết quả là người Tây Ban Nha đã bắt một nghìn năm trăm đàn ông, đàn bà và trẻ em Anh-diêng, dồn họ đến La Isabela. Đó thực sự là một trại tập trung những người buộc phải làm nô lệ. Colombo đã nghĩ đến chế độ nô lệ vào lúc ông phát hiện ra người Caribi ở quần đảo Tiểu Antilles. Những người Caribi là kẻ thù bất cộng đái thiên của người Taino, còn người Taino thì tỏ ra ngoan ngoãn, biết nghe lời và trung thành. Đối với Colombo nô lệ hóa người Caribi, những kẻ ăn thịt người, dữ tợn và không có chút lòng thương là việc có vẽ chính đáng và nên làm về chính trị. Ông đã gợi ý việc đó với Vua Ferdinand và Hoàng hậu Isabela trong giác thư gửi Antonio de Torres cầm về. Vua và Hoàng hậu đã ghi chú chấp nhận bên cạnh những đoạn khác của bức thư và biểu thị bằng lời lẽ rõ ràng việc cấm buôn bán nô lệ như đã được đề nghị, Vua và Hoàng hậu viết: "Dự án này phải để sang một bên.

Trả lời của Vua và Hoàng hậu đến Hispaniola nhanh chóng vào mùa thu 1494. Antonio de Torres đã mang bốn chiếc thuyền chở đầy thức ăn và dụng cụ và một bức thư của Vua và Hoàng hậu đề ngày 16 tháng 8. Sau khi tham khảo ý kiến với các cố vấn về giác thư của Colombo gửi hồi tháng 2 trước đó, Ferdinando và Isabela đã chấp nhận hầu hết những đề nghị và hành động của ông. Vua và Hoàng hậu muốn được báo cáo rõ ràng hơn về khí hậu của những vùng đất mới, vì điều đó là quan trọng nhất đối với những người di cư tương lai. Những cuộc thương lượng với Bồ Đào Nha thuận lợi đến nỗi Vua và Hoàng hậu đề nghị bắt đầu tổ chức hàng tháng chuyến tàu chở thư và hành khách trên tuyến đường cố định giữa Tây Ban Nha và Hispaniola. Vua và Hoàng hậu nói thêm rằng sẽ xác định một tuyến đường giới tuyến mới dứt khoát với Bồ Đào Nha càng sớm càng tốt, và vì vậy, họ mời Colombo về nước để tham khảo ý kiến. Tuy nhiên "nếu việc ông trở về sẽ gây khó khăn, hoặc phương hại đến công việc trước mắt của ông thì ông hãy chọn người anh của ông, hay một người thông thạo nào khác; hãy chỉ thị cho người đó bằng miệng, hoặc bằng giấy, về suy nghĩ của ông đối với vấn đề này, và cử người đó trở về bằng chiếc tàu đầu tiên có thể dành ra được.

Như vậy là Colombo có cơ hội thoát khỏi những vấn đề khó khăn của ông. Ông có thể giải thích bức thư là một mệnh lệnh trở về Tây Ban Nha; ông để Bartolomeo ở lại chỉ huy, và sẽ đích thân bác bỏ những lời vu cáo của Margarite và Cha Boil; hai người này sắp tới sẽ về đến triều đình. Nhưng ông đã bác bỏ giải pháp dễ dàng ấy; thay vào đó, ông quyết định ở lại để gánh vác những vấn đề nặng nề và nghiêm trọng đầu tiên về thuộc địa của lịch sử cận đại. Ông sẽ không trở về Tây Ban Nha. Nhưng ông có thể gửi thư cho Vua và Hoàng hậu bằng những chiếc tàu của Torres? Tháng ba ông đã gửi một bức thư hứa những mẫu vàng khổng lồ, những cây mới và những con vật thông thường có nhiều màu sắc. Còn có rất nhiều vẹt nhưng Colombo đã không thể tiếp tục gửi chúng về Tây Ban Nha. Colombo cũng không thể gửi vàng vì những mẫu vàng đã đến nơi rồi, còn tại San Tomaso thì chưa thu thập đủ để gửi. Mọi người Tây Ban Nha đều có nơi giấu riêng, trong quần áo hay chôn dưới đất, nhưng chưa thu được một thùng nào cho nhà Vua. Những nhà buôn Tây Ban Nha không đánh giá cao bất cứ một hương liệu hay tinh dầu nhiệt đới nào gửi về trước đó. Hàng bông sợi dễ bán nhưng mang lại ít lãi. Colombo phải gửi một cái gì về châu Âu để trang trải những chi phí và phản bác lại những gợi ý đê tiện rằng không nên quan tâm chút nào nữa đến những đảo vùng Indie. Hàng hóa duy nhất còn lại là nô lệ, nên Colombo gom nhặt một chuyến tàu nô lệ.

Như vậy, sau nhiều lần khẳng định rằng những người Taino tính tình rộng lượng, dễ bảo, không có gì để tự vệ và muốn trở thành những người đầy tớ tốt và những tín đồ Công giáo ngoan đạo, bây giờ Colombo đã quyết định gửi họ đến thị trưởng nô lệ ở Seviglia. Tôi đã nói 1500 người Anh-diêng đã bị bắt và giữ lại ở La Isabela. Trong số này năm trăm "đàn ông và đàn bà tốt nhất" đã bị đưa lên hầm chứa hàng của bốn chiếc tàu. Sau đó những công dân La Isabela tha hồ chọn bao nhiêu người cũng được. Còn lại khoảng bốn trăm người, nhiều người là phụ nữ có con còn bú. Michele da Cuneo kể lại rằng những người này "được phép tùy ý đi đâu thì đi". Những phụ nữ lại sợ "chúng ta bắt lại, họ bỏ con lại để có thể trốn đi không bị vướng víu, họ chạy như điên. Họ tuyệt vọng đến nỗi họ đi bảy tám ngày đường từ La Isabela, vượt qua nhiều núi cao, sông lớn".

Bốn chiếc tàu, dưới sự chỉ huy của Antonio de Torres, đã ra đi ngày 24 tháng 2 năm 1495. Trên tàu là Michele da Cuneo và Diego Colombo; Diego đại diện cho viên Đô đốc sẽ bảo vệ những quyết định của ông tại triều đình và chống lại những lời vu khống của cha Boil và Margarite. Michele da Cuneo kể lại: "Khi chúng tôi đến hải phận Tây Ban Nha, khoảng hai trăm người Anh-diêng đã chết, tôi cho rằng vì không khí lạnh hơn điều kiện quen thuộc của họ. Họ bị ném xuống biển. Chẳng bao lâu sau khi chúng tôi đến Cadice, tại đây chúng tôi đưa nô lệ lên bờ, tất cả đều ít nhiều bị ốm. Họ không quen lao động nặng, khổ sở vì thời tiết lạnh rét và chết sớm". Don Juan de Foneca đưa những người còn sống sót ra bán ở Seviglia. Bernádez nói rằng "họ trần trụi như lúc mới sinh và trơ như dã thú. Họ không đắt khách vì tất cả họ đều chết vì đất nước này không hợp với họ".

Những nô lệ xuống tàu ngày 17 tháng 2. Bốn mươi ngày sau, ngày 27 tháng 3, xảy ra trận chiến Iớn đầu tiên giữa người châu Âu và những người thổ dân châu Mỹ, hai bên đã dàn trận trước, nhưng trước hết chúng ta phải tìm hiểu xem điều gì đã dẫn đến đánh nhau. Khác với Guacanagari, Caonabó khỏe mạnh, dũng cảm và hiếu chiến. Ông thống trị những vùng núi từ trung tâm đảo xuống tận bờ biển phía Nam. Mặc dù hiếu chiến, Caonabó đã tiếp hai giáo sĩ dòng Francesco, Giovanni Borgognone và Juan de Tisin; hai người này đã truyền đạo và rửa tội cho một số người bản xứ. Khi Margarite và những người của ông sử dụng bạo lực và cướp bóc thẳng thừng, Caonabó trục xuất những người truyền giáo và yêu cầu những tù trưởng khác liên kết với ông. Ba tù truởng đã làm như vậy, nhưng Guacanagari đã từ chối, kể cả khi bị đe dọa; do đó Caonabó xâm chiếm lãnh thổ của Guacanagari, phá hủy nhiều làng và giết dân chúng. Guacanagari phải chạy trốn để thoát thân.

Một tùy thuộc của tù trưởng Guarionex, cai trị vùng đất xung quanh La Isabela, đã bao vây và giết mười người Tây Ban Nha đóng ở gần Rio Yaque và đốt một lán lớn dùng làm bệnh viện. Bốn mươi lính Tây Ban Nha ốm bị chết trong đám cháy. Caonabó đã tập hợp binh sĩ đóng gần Pháo đài Tomaso, hy vọng tấn công bắt ngờ trại lính và lập lại thảm họa La Navidad. Nhưng Alonso de Hojeda, rõ ràng là một quần nhân xuất sắc, đã giữ năm mươi người trong pháo đài và thận trọng theo dõi những người gác của ông, những người này luôn luôn giữ vị trí và đêm nào cũng cử người tuần hành trong rừng. Nhận thấy không thể trèo vào pháo đài, vì có hào sâu và con sông bao quanh, Caonabó tìm cách làm cho những người Tây Ban Nha bị chết đói. Ông chiếm những khu rừng xung quanh khống chế những con đường mòn, và đặt nhiều lính gác tại những nơi người Tây Ban Nha phải đi để tìm thức ăn. Hojeda không nản chí. Ông cắt bớt khẩu phần; thỉnh thoảng tiến công lùng sục bất ngờ, giết những người Anh-diêng. Cuộc bao vây kéo dài một tháng tròn. Lực lượng Anh diêng bị hao mòn trong chiến tranh, bị vất vả phải ngủ ở ngoài trời và ốm đau, Caonabó cuối cùng rút lui, quay sang chú ý đến La Isabela.

Trước khi tấn công, ông xuyên rừng đi xung quanh tường thành ban đêm, tìm những điểm yếu nhất. Thậm chí ông còn táo tợn đi vào La Isabela giữa ban ngày, giả thân thiện với người Tây Ban Nha. Thấy rằng La Isabela không có binh lính và hầu hết những người định cư đều ốm, tinh thần của họ sa sút vì bất đồng, ông quyết định cố gắng phá hủy khu định cư. Nhưng Guacanagari đã cứu Colombo và những người Tây Ban Nha lần thứ hai. Guacanagari đến, Colombo đang nằm trên giường vì bị viêm khớp, và tiết lộ âm mưu của những tù trưởng khác. Colombo tự hào đã bảo vệ Guacanagari khi những người của ông muốn lên án Guacanagari là một tên phản bội, Colombo chuẩn bị đối phó với tình huống khẩn cấp. Ông cử một lực lượng nhỏ đánh những bộ lạc đang bao vây một pháo đài ở vùng sâu, đánh bại họ, đuổi họ trở lại vùng đất của họ và khuất phục họ. Nhưng

Caonabó, kẻ thù hiếu chiến và nguy hiểm nhất của Colombo vẫn còn. Để cho Caonabó hồi phục sau khi bị Hojeda buộc phải rút lui thì cũng như để cho ông một trận địa để thực hiện những cuộc trả đũa mới và tuyệt vọng.

Sự táo bạo và lòng dũng cảm khác thường của Hojeda đã giải quyết vấn đề. Hojeda đề nghị bắt Caonabó tại nơi ẩn náu an toàn của y và tình nguyện đưa Caonabó trở về La Isabela. Colombo cho phép ông làm thử và Hojeda ra đi với chín kỵ sĩ Tây Ban Nha dũng cảm nhất và những món quà lòe loẹt để dử Caonabó. Sau khi đi hơn sáu mươi dặm, Hojeda tới làng của Caonabó. Trông thấy một toán nhỏ người Tây Ban Nha, Caonabó không nghi ngờ gì và đã tiếp Hojeda một cách lịch thiệp. Caonabó đã khâm phục lòng dũng cảm đặc biệt của Hojeda. Caonabó nhận những quà biếu và hỏi lý do cuộc đến thăm. Hojeda trả lời, mời Caonabó tới La Isabela, để có thể đích thân đề ra một hòa ước với Colombo, lại hứa sẽ thuyết phục lấy chuông nhà thờ cho Caonabó. Trước đó, khi Caonabó thăm dò La Isabela, ông đã rất ngạc nhiên rằng tiếng chuông báo hiệu thời gian cầu nguyện đã gọi tất cả những người Tây Ban Nha đến nhà thờ, ông tin tiếng chuông đã có sức làm cho họ nghe lời. Sau đó, Caonabó đã nhiều lần bày tỏ lòng mong muốn được mang chuông vào trong núi, và nói rằng ông sẽ cho hầu hết mọi thứ để lấy chuông. Hojeda biết ý muốn đó của Caonabó. Caonabó không thể cưỡng lại lời hứa cho chuông nhà thờ và đồng ý đi đến La Isabela, nhưng không đi một mình. Ông đi cùng một đám đông người Anh diêng trang bị cung tên.

Sau khi đi bộ nhiều ngày, nhóm người dừng lại ở gần Rio Yaque, tại đây Hojeda thi hành kế hoạch táo bạo của mình. Kéo Caonabó đến bên cạnh như để nói với ông một điều bí mật, Hojeda lấy hai đôi xiềng từ trong một bao tải và chỉ đôi xiềng đó cho Caonabó. Caonabó thán phục sự sáng loáng của đôi xiềng đó và hỏi những xiềng ấy để làm gì. Hojeda trả lời những xiềng ấy là những đồ trang sức Vua và Hoàng hậu Tây Ban Nha đeo vào tay và bàn chân trong những dịp lễ chính thức và đề nghị Caonabó cũng đeo những vòng tay đó, ngồi trên lưng ngựa để ra mắt nhân dân ông. Nghĩ rằng nhân dân ông sẽ ngạc nhiên và ông sẽ lừng danh vì cưỡi được một con vật hung dữ (người Anh diêng cho ngựa là hung dữ). Caonabó đã đồng ý. Những người Anh diêng chạy vòng quanh ngạc nhiên khi trông thấy chủ soái của họ trang điểm bằng những vòng sáng lớn như vậy, nhưng họ đứng sững lại vì sợ tiếng hí và chân dậm xuống đất của con ngựa. Hojeda cho con ngựa quay những vòng rộng hơn, tạo ra một khoảng trống khi binh lính Anh diêng dần dần lùi về phía sau vì sợ hãi và ngạc nhiên. Khi đến gần rừng, ông bất ngờ thúc ngựa về phía những người Anh-diêng, làm vỡ vòng tròn của họ. Hojeda cho ngựa thong thả chạy nước kiệu nửa vòng rồi phi nước đại khi có cây cối che phủ. Những kỵ sĩ của ông cũng chạy hết tốc độ theo ông và buộc Caonabó bằng những thừng chắc và dày. Rồi họ khởi hành nhanh về đến La Isabela.

Việc bắt Caonabó đã khơi lên sự ngạc nhiên và sợ hãi nhưng không chấm dứt được chiến sự. Người anh em của Caonabó và hai tù trưởng khác chuẩn bị trả thù. Họ tiến nhanh đến La Isabela với một số đông người. Các nhà sử học đương thời rõ ràng đã nói quá lên là có đến 100.000 binh sĩ, nhưng thực ra chỉ có mấy nghìn. Ngày 24 tháng 3-1495 Colombo rời La Isabela với người anh em Bartomomeo, hai trăm bộ binh, hai mươi kỵ sĩ, trang bị bằng nỏ, súng hỏa mai, giáo và kiếm. Cùng đi với họ là năm trăm binh lính Anh diêng do Guacanagari chỉ huy. Hai đội quân gặp nhau tại Vega Real. Bartolomeo, người được Colombo cửvlàm chỉ huy, chia người Tây Ban Nha làm hai đội,

một đội bố trí ở ngoài trời và một đội ở trong rừng, và ra lệnh cho họ tấn công bất ngờ vào kẻ thù. Còn phía người Anh diêng thì đằng sau có núi bảo vệ, họ đã tiến thành năm nhóm và chuẩn bị tấn công khi có tiếng súng nổ từ phía rừng. Nhiều người Anh-diêng bị bắn ngã, sự hỗn loạn và hoảng hốt lan tràn khắp nơi. Kỵ binh, dưới sự chỉ huy của Hojeda, tấn công vào trung tâm làm địch tan tác, gây nên cảnh tàn sát khủng khiếp bằng những thanh kiếm. Người Anh diêng bị đẩy vào cảnh hổn loạn và chạy trốn, La Casas kể lại rằng lúc này người Tây Ban Nha đã dùng những vũ khí gây khiếp sợ khác của họ sau những con ngựa là hai mươi con chó săn. Những con chó này được thả ra và tấn công những người Anh diêng, theo mệnh lệnh Tómalo: ("cắn chúng đi"). Trong một giờ, những con chó đã đuổi theo cắn chết một trăm người Anh diêng. Vì người Anh diêng có thói quen hoàn toàn trần truồng nên cũng dễ tưởng tượng những con chó săn hung ác đã làm gì. Người ta thúc đẩy chó cắn những cơ thể trần truồng có da mềm hơn nhiều so với những con lợn rừng mà chúng đã quen... Chiến thuật này, bắt đầu ở đây và được áp dụng vì tính ác độc, đã lan khắp những đảo giữa Bắc và Nam Mỹ này và chỉ chấm dứt khi không còn đất và người để khuất phục và phá hủy nữa ở bộ phận này của thế giới.

Đó là sự sáng tạo thứ nhất trong nhiều sáng tạo "man rợ được phát minh, áp dụng và mở rộng để hủy diệt toàn bộ nhân dân Anh-diêng".

Từ cuộc gặp gỡ đầy tình cảm trước đó hai năm ở San Salvador đến nay thật là một sự thay đổi to lớn. Trận chiến ở Vega Real đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong số phận thảm khốc của người Taino ở Haïti. Các tù trưởng quy phục nhanh chóng và không điều kiện. Để củng cố thắng lợi, Colombo đã thực hiện một cuộc diễu hành chiến thắng qua bên trong đảo, tại đây ông đã chỉ huy việc xây dựng ba pháo đài mới. Hojeda bảo đảm đường thông tin liên lạc bằng kỵ binh. Don Fernando viết: "Miền này từ đó trở nên yên tĩnh đến mức một người Công giáo có thể đi một mình đến bất cứ chỗ nào mà không sợ bị quấy rầy. Chính những người Anh diêng dẫn ông ta đi bất cứ nơi nào ông ta muốn, cõng ông ta trên vai như những con ngựa chở hành lý". Toàn bộ hòn đảo đã được bình định, nhưng với biết bao tổn thất!

Tại đây lại thêm một lạm dụng nữa ngoài việc buôn bán nô lệ gửi về Tây Ban Nha: chế độ cống nạp. Mọi người Anh diêng mười bốn tuổi, hoặc trên tuổi đó, ba tháng một lần phải cung cấp đủ bụi vàng để đổ đầy một cái chuông con buộc ở cổ con diều hâu. Ở đâu không có vàng thì có thể thay bằng hai mươi nhăm cân Anh bông đã xe hoặc dệt. Khi nộp cống vật mỗi người Anh diêng nhận một huy hiệu bằng đồng, hay đồng thau có in dấu đeo quanh cổ để chứng tỏ đã hoàn thành nghĩa vụ.

Guarionex là tù trưởng duy nhất có thể đáp ứng kỳ cống nạp đầu tiên, có lẽ ông đã lấy của bầy tôi số lượng vàng nhỏ nhoi chưa bị cướp bóc. Những chuổi hạt vàng đeo cổ đã gây ấn tượng lớn đối với Colombo thực tế là công việc của nhiều thế hệ. Khi chế độ cống nạp bắt đầu, người Tây Ban Nha đã chiếm hết, hoặc gần hết vàng của người Anh diêng. Người Anh diêng chỉ có thể lấy được thêm vàng bằng cách đãi cát và đá dăm ở lòng sông, hoặc bằng cách làm nặng nhọc và phức tạp hơn, nhổ hết cây cỏ và đào cho tới khi thấy vàng trong đất phù sa. Phương pháp thứ hai không thực tế với những công cụ của người Anh diêng. Ta phải thấy rằng để xới đất giồng, ngô và yuca họ chỉ có cái coa, một cái gậy bằng gỗ rắn có một đầu tôi lửa cho cứng. Phương pháp thứ nhất đãi cát, mất nhiều thời gian và đòi hỏi sự kiên trì khác thường. Thành quả đạt được thường khiêm tốn và không đoán trước được, Thỉnh thoảng một người tìm thấy một cục vàng lớn, nhưng thường những người Anh-diêng không thể sản xuất đủ số lượng cần thiết. Vì những lý do này, khi tới kỳ cống nạp đầu tiên, Guarionex đã đề nghị sự thay đổi này với Colombo: ông sẽ cung cấp đủ yuca để nuôi toàn thể nhân dân Tây Ban Nha, theo ông dân Tây Ban Nha cần thức ăn nhiều hơn khoáng sản. Viên Đô đốc không chấp nhận điều đó. Ông giảm lượng cống nạp xuống một nửa nhưng ngay cả số lượng đó cũng còn nhiều quá.

Một sai lầm có tính quyết định khác nữa về chính trị, không kể sai lầm đạo đức xuất phát từ chế độ cống nạp. Người Anh diêng bỏ làng mạc trốn vào núi hàng loạt. Người Tây Ban Nha săn đuổi họ xuống bằng chó, trong khi sự thiếu thốn và bệnh tật đã giết một số lớn những người đã tìm cách trốn được. Hàng trăm người nghèo khổ cực đã tự tử, tự đầu độc họ bằng sắn. Chiến tranh, nô lệ, diệt chủng - một chuỗi những thảm kịch xảy ra trong một khoảng thời gian mấy năm. Ước tính có khoảng 350.000 người Taino sống trên đảo Hispaniola khi người Tây Ban Nha đến. Năm 1508 có 60.000 người và năm 1548, Oviedo ước tính rằng chỉ còn không quá 500 người, còn sống sót trên toàn đảo.

Khi nhấn mạnh những sai lầm và tội ác trong những giai đoạn đầu tiên của công cuộc thực dân hóa, như ở đây, chúng ta không được quên bối cảnh trong đó những sai lầm và tội ác đã xảy ra. Colombo và Bartolomeo phải chịu trách nhiệm cá nhân về những tội ác đó. Ngay cả mặt ghê tởm nhất của cuộc gặp gỡ, việc gửi nô lệ đến Seviglia, ta phải xem xét thời gian khi việc này xảy ra, dù ngày nay việc này có tỏ ra đáng kinh tởm thế nào chăng nữa. Nói thế không phải đi biện hộ cho Colombo, vì ông chỉ thuần túy tuân theo những phong tục của thời đại đó. Bình luận về thái độ của Hồng y giáo chủ Federico Borromeo đối với việc truy tố và lên án phù thủy, Alessandro Manzoni đã nhận xét: Người muốn bảo vệ ông ta trong vấn đề này viện một lý do rất phổ biến, "đó là những sai lầm của thời đại chứ không phải của ông ta". Sau khi tìm hiểu thực tế. Lý do bào chữa này xem ra cũng có giá trị, có lẽ có nhiều giá trị. Nhưng nếu áp dụng một cách mù quáng, nó không có nghĩa gì, mà trong thực tế thường xảy ra như vậy.

Một lý do bào chữa như thế không có nghĩa gì trong trường hợp của Colombo. Thật vậy, không những ông mà những người thành Genova, người Bồ Đào Nha, người Firenze, những người trước ông và những người đương thời với ông đã buôn, hoặc đang buôn nô lệ. Tuy nhiên, thái độ của ông không giống thái độ của những người ấy vì mối quan hệ phát triển với những người Anh-diêng trong suốt chuyến đi thứ nhất và cho đến thời điểm đó của chuyến đi thứ hai nữa. Chúng ta cũng không nên quên rằng ngày 14 tháng 10-1492, viết về những ý nghĩ đầu tiên của ông về những dân tộc mới, trong Nhật ký Colombo thêm điều này: Nếu Bệ hạ ra lệnh đưa hết họ đến Castiglia, hoặc giữ họ trên hòn đảo của họ, việc đó có thể làm dễ dàng.

Cáptive có nghĩa là nô lệ, dùng từ đó chỉ là một từ nói xa xôi. Viên Đô đốc đối xử một cách cao thượng trong chuyến đi đầu tiên, đối xử tốt với những người Anh- diêng, không xúc phạm, trừng phạt những sai trái của thủy thủ và biểu thị một sự chiếu cố nào đó. Dứt khoát ông coi họ thấp hơn - ý nghĩ về bình đẳng không phù hợp với ông - nhưng thấp hơn với ý nghĩa là trẻ em thấp hơn người lớn. Ông coi họ ngây thơ và vô tội và đã đối xử với họ theo như thế; ông tiếp tục làm như vậy trong phần đầu cuộc hành trình thứ hai. Thái độ của ông đối với những người ăn thịt người rất khác. Khi Colombo lần đầu tiên nghĩ về việc bắt nô lệ tại những vùng đất mới, ông nghĩ đến những người Caribi man rợ và dữ tợn, những người ăn thịt người, kẻ thù truyền kiếp của những người Taino thân thiện. Ông cảm thấy họ xứng đáng sự trừng phạt khắc nghiệt nhất, như vậy chế độ nô lệ là thích hợp.

Tuy nhiên bây giờ, tại La Isabela, ông bất ngờ quyết định gửi nô lệ đến chợ tại Seviglia, ông đã chọn những người đàn ông, đàn bà và trẻ em Taino. Không dễ xét đoán quyết định này, hoặc xác định Colombo đã đi đến quyết định đó như thế nào. Có thể Colombo đã nghĩ rằng những người Taino không có quyền được tôn trọng như mọi con người xứng đáng được tôn trọng vì nó không được có một linh hồn bất tử như những người châu Âu, như có người sau này cố chứng minh? Những gì viên Đô đốc đã viết và đang viết về vấn đề này trong Nhật ký và giác thư chỉ rõ rằng ông không có những quan điểm đó, như vậy những câu trả lời như thế không thể giải thích một việc đáng khinh bỉ.

Có thể có một giải thích khác nữa, cho đến lúc đó quan hệ giữa những người Anh - diêng và những người Công giáo là nhân đạo, thân thiện và hòa bình. Nhưng từ khi ông trở lại La Isabela thì có chiến tranh. Trong thế kỷ thứ XV chế độ nô lệ là một kết quả truyền thống, không thể tránh khỏi của mọi cuộc chiến tranh diễn ra bên ngoài thế giới Công giáo. Tiêu chuẩn đó, có hiệu lực trong quan hệ giữa những người Công giáo và những người Hồi giáo, Colombo đã áp dụng nó trong quan hệ giữa những người Tây Ban Nha theo Công giáo và những người Taino không theo Công giáo khi chiến tranh diễn ra giữa họ.

Những xem xét như thế, giải thích nhưng không giải tội. Trong thế kỷ trước, một số nhà sử học Pháp và Genova nghiêm túc đề nghị phong thánh cho Colombo; điều đó quả lạ lùng và quả thật vô lý. Một số người có đi xa hơn gợi ý rằng Colombo kết hôn với Beatrice de Arana và do đó Fernando là con hợp pháp. Tuy nhiên dù cuộc đời riêng của Colombo không có lỗi lầm gì, một người chịu trách nhiệm đối với một số tội ác tại La Isabela năm 1494 không thể đòi tước thánh. Tính chất của Colombo phức tạp. Những sự kiện trong chuyến đi thứ nhất và thứ hai đã phơi bày những mâu thuẫn của ông, cho thấy ông là một con người cởi mở đối với tình yêu Công giáo, đồng thời có ý đồ vun vén của cải và quyền lực cho bản thân, cho Vua và Hoàng hận của ông. Nếu những mâu thuẫn có tính nhân bản này cho phép chúng ta vẫn cảm tình với Colombo vì lòng tin tôn giáo sâu sắc của ông, những quyết định chính trị khó khăn, những xúc cảm mạnh mẽ và những nhiệt tình thần bí, đó là những mâu thuẫn không để cho Colombo có địa vị của một vị thánh hay một chính khách; tuy ông là một thủy thủ có một không hai.