← Quay lại trang sách

Chương 4

VỀ NHÀ CHÚNG TÔI THẤY CÓ ÔNG N’Da Amédée, người dẫn gái mà ta còn gọi là mô ca. Nếu quen với khu này, các bạn biết nó lúc nào cũng đầy ự người bản ứ tất tật đều từ Phi kéo đến, đúng như tên của khu phố*. Họ ở trong những khu gọi là nhà ổ chuột, không có các sản phẩm thiết yếu, như vệ sinh và hệ thống sưởi ấm của thành phố Paris vì thành phố không về tận nơi đây. Nhiều khu đen có tới một trăm hai mươi người chia nhau tám người một phòng, có độc một buồng vệ sinh dưới nhà, vậy nên họ phát tán tứ tung vì đó là thứ người ta không hãm lại được. Trước tôi, có các khu dành cho người nghèo nhưng nước Pháp đã cho đập sạch bách để khỏi ai trông thấy. Madame Rosa kể ở Aubervilliers có một khu người ta xả hơi làm ngạt những người Sénégal sống tại đó bằng cách bỏ những chảo than vào một phòng đóng cửa sổ kín mít và hôm sau thì họ chết ráo cả. Họ bị ngạt vì hơi độc từ chảo bốc ra trong khi đang say giấc mơ của người công bằng. Tôi hay đến phố Bisson chơi với họ và lúc nào cũng được đón tiếp đến nơi đến chốn. Họ phần lớn là người đạo Hồi như tôi nhưng đó không phải là lý do. Tôi nghĩ họ vui lòng được thấy một thằng bé chín tuổi chưa có ẩn ý gì trong đầu. Người già đầu óc lúc nào cũng ẩn ý này ẩn ý nọ. Chẳng hạn như không phải người da đen ai cũng như ai.

Bà Sambor, chị nuôi của họ, khác hẳn ông Dia, khi ta đã quen với bóng tối. Ông Dia thì không ngộ tí nào. Mắt ông như là để nạt nộ. Ông đọc suốt ngày. Ông có một cái dao cạo dài khiếp không chịu gập lại khi ta ấn vào một thứ gì đó. Ông dùng nó để cạo râu nhưng đừng coi thường nhé. Trong khu có cả thảy năm mươi người và họ tuân lệnh ông răm rắp. Khi không đọc sách ông quay ra tập tành trên nền nhà để làm người khỏe nhất. Ông rất to con mà vẫn không thấy đủ. Tôi không hiểu tại sao hộ pháp thế rồi mà ông còn nỗ lực mức ấy để khỏe hơn nữa. Tôi không hỏi dò gì ông nhưng tôi nghĩ ông cảm thấy không đủ vạm vỡ để làm tất cả những gì mình muốn. Tôi cũng thế, đôi lúc tôi những muốn nổ tung lên cho rồi vì quá muốn trở nên mạnh mẽ. Có những lúc tôi mơ làm cảnh sát và có thể chấp bay hết. Tôi lượn lờ quanh sở cảnh sát phố Deudon suốt nhưng không hy vọng gì, tôi biết rõ điều đó là không tưởng vì tôi mới chín tuổi, tôi vẫn còn thiếu thâm niên. Tôi ước ao làm cảnh sát vì họ có sức mạnh trị an. Tôi đinh ninh thế đã là mạnh nhấtvà không biết còn có cảnh sát trưởng nữa, cứ tưởng đến đấy là kịch kim. Mãi sau tôi mới phát hiện ra còn có những vị trí oách hơn nhiều, nhưng tôi chưa bao giờ lên đến chức Chánh thanh tra cảnh sát, nó vượt quá sức tưởng tượng của tôi. Hồi ấy tôi khoảng chín mười tuổi và vô cùng sợ còn lại trơ trọi trên cõi đời. Madame Rosa leo bảy tầng càng khó nhọc rồi ngồi nghỉ càng lâu bao nhiêu, tôi càng thấy mình thảm hại hơn và càng sợ sệt hơn bấy nhiêu.

Rồi cái ngày sinh của tôi, nó cũng làm tôi thấp thỏm không yên, nhất là khi người ta đuổi học tôi và nói tôi quá bé so với tuổi. Nhưng dầu gì, điều đó không hệ trọng, tờ giấy chứng nhận tôi được đẻ ra là hợp lệ và là đồ rởm. Như tôi đã nói rồi đấy, madame Rosa có ối tờ như thế ở nhà, thậm chí Madam còn chứng minh không phải người Do Thái từ nhiều đời nay nếu chẳng may cảnh sát đến lục lạo tầm nã nữa là. Madame che chắn đủ mọi bề kể từ ngày bị cảnh sát Pháp không đâu vớ được và giao cho người Đức rồi bị đưa đến một cái Vélodrrome toàn người Do thái. Sau đó, người ta Madame đến một khu Do Thái ở Đức, chỗ người ta thiêu sống họ. Lúc nào Madame cũng nơm nớp, nhưng không giống mọi người, nỗi nơm nớp của Madame còn nơm nớp hơn nhiều.

Một đêm, nghe Madame thét lên trong mơ, tôi giật mình tỉnh giấc và thấy Madame bật dậy. Nhà Madame có hai phòng và Madame giữ một phòng cho riêng mình trừ khi có lúc nhúc trẻ con, khi đó thì Moïse và tôi tót sang ngủ với Madame. Đêm ấy Madame ngủ một mình, Moïse không có nhà, một nhà Do Thái hiếm muộn để mắt đến nó đã đón nó về để thử xem có nhận nó làm con nuôi được không. Nó toàn mệt lử đử khi về đến nhà, vì đã vắt sức ra lấy lòng họ. Họ có một cửa hàng bán đồ khô kasber ở phố Tienné.

Tiếng madame Rosa hét khiến tôi thức giấc. Madame bật đèn, tôi hé một mắt ra nhìn. Madame đầu rung bần bật còn mắt láo liên như nhìn thấy thứ gì. Rồi Madame ra khỏi giường, khoác chiếc áo choàng tắm lên người và lấy một chiếc chìa khóa giấu dưới tủ quần áo ra. Khi Madame cúi xuống, đít Madame còn núng nính hơn cả mọi khi.

Madame ra cầu thang và lò dò bước xuống. Tôi bám theo, vì Madame bấn loạn đến nỗi tôi không dám ở lại một mình.

Madame Rosa xuống cầu thang dưới ánh điện lúc sáng lúc tối, công tắc điện tự động nhà chúng tôi để ngắn ngủn vì lý do kinh tế, lão quản lý khu nhà đúng là đồ khốn. Có một lúc, bóng tối vừa ụp xuống là là tôi bật đèn lên ngay như một thằng chập cheng và thế là dưới tôi một tầng madame Rosa kêu toáng lên vì tưởng là có ai đó. Madame ngó trên liếc dưới rồi lại dò dẫm xuống cầu thang, tôi làm theo nhưng không mó vào công tắc nữa, như thế chúng tôi chỉ tổ khiến cho nhau tá hỏa. Còn ít hơn cả mọi bận tôi chịu không hiểu cái quái gì đang xảy ra và điều đó càng làm tôi sợ hơn. Đầu gối tôi run lẩy bẩy và thật kinh hãi làm sao khi thấy madame Do Thái dùng chiến thuật chiến binh da đỏ Sioux để xuống cầu thang, như thể quanh Madame đầy rẫy kẻ thù hay còn khủng khiếp hơn thế.

Xuống tới tầng dưới cùng, madame Rosa không ra phố mà rẽ trái về phía cầu thang dẫn xuống tầng hầm, nơi không có tí ánh sáng nào và ngay mùa hè giữa ban ngày ban mặt cũng tối như hũ nút. Madame vẫn cấm chúng tôi bén mảng đến đấy vì đó là chỗ người ta chẹn cổ trẻ con. Khi thấy Madame đi lối này, tôi nghĩ thôi thế là xong đời cái giậu mồng tơi Madame biến thành khỉ mất tiêu rồi và đã toan chạy đi gọi bác sĩ Katz dậy. Nhưng lúc đó tôi thót tim đến nỗi thấy thà đứng yên đó không cựa quậy còn hơn, tôi đinh ninh nếu mình động đậy cái đó sẽ gầm lên và sẽ từ bốn phương tám hướng đâm bổ vào tôi, các con quái vật sẽ tự dưng chui ra hết chứ không náu núp như chúng vẫn làm từ khi tôi được sinh ra trên cõi đời này nữa.

Đúng lúc đó tôi thấy có ánh sáng lấp lóe. Nó từ tầng hầm hắt ra và giúp tôi trấn tĩnh lại. Quái vật không mấy khi thắp sáng và bóng tối vẫn luôn là thứ làm chúng thấy thư thái nhất.

Tôi xuống cái cầu thang khẳm mùi nước đái và còn nặng hơn cả thế vì ở khu da đen bên cạnh chỉ có độc một cái cầu tiêu và cứ có chỗ là họ tương ra. Tầng hầm được ngăn thành nhiều buồng và một buồng có cửa đang mở. Đó là buồng mà madame Rosa đã vào và là chỗ phát ra ánh sáng. Tôi ghé mắt nhìn.

Giữa buồng có một cái ghế bành lún xẹp, cáu bẩn và cập kênh và madame Rosa chễm chệ trên đó. Mấy bức tường chỉ là những phiến đá thò thụt như răng chín sáu ba không và làm vẻ cợt nhả. Trên chiếc tủ com mốt có một cái giá nến Do Thái với một ngọn nến đang cháy. Tôi ngạc nhiên thấy một chiếc giường đáng lẳng đi lại xếp đủ cả đệm chăn ga gối. Lại còn cả mấy bịch khoai tây, một cái bếp điện, mấy bình nước và mấy hộp các tông chứa đầy cá xác đin. Tôi sửng sốt đến độ không còn thấy run nữa, nhưng tôi bị hở mông nên bắt đầu thấy lạnh.

Madame Rosa ngồi trên chiếc ghế tơi tóp đó một lúc, tí tởn cười. Giờ thì Madame mang vẻ tinh quái, thậm chí đắc thắng. Như thể Madame vừa làm điều gì đó hết mực láu lỉnh và mạnh mẽ. Sau đó Madame đứng dậy. Có một cái chổi dựng trong góc và Madame bắt đầu quét tầng hầm. Đáng lẽ Madame không nên làm thế, nó khiến bụi bay tứ tung mù mịt mà bụi đối với bệnh hen suyễn của Madame thì không gì hại bằng. Ngay tức thì Madame khó thở và phế quản Madame bắt đầu khò khè, nhưng Madame vẫn quét tiếp và không có ai để bảo Madame ngừng lại trừ tôi ra, mọi người ai cũng mặc xác. Đương nhiên, người ta trả tiền để Madame coi sóc tôi và điểm chung duy nhất giữa chúng tôi là cảnh thân cô thế cô, nhưng không gì có hại cho bệnh hen suyễn của Madame bằng bụi. Sau đó, Madame đặt chổi xuống và cố thổi tắt nến nhưng tầm vóc thế mà Madame vẫn không đủ hơi. Madame nhấm nước bọt vào tay rồi tắt nến theo kiểu này. Tôi lập tức chuồn lẹ, tôi biết Madame đã xong việc và sắp sửa trở lên.

Ừ thì tôi chẳng hiểu gì sất, nhưng cũng chỉ là thêm mỗi điều nữa mà thôi. Tôi chịu không hiểu nổi vì sao Madame đang đêm lại hăm hở vượt bảy tầng lầu và bụi bặm xuống ngồi ở tầng hầm của mình với vẻ tinh quái.

Khi leo lên đến nơi, Madame đã hết sợ, cả tôi cũng vậy, do lây lan. Chúng tôi thiếp đi bên cạnh giấc ngủ của người công bằng. Tôi suy nghĩ rất hung về điều này và tôi nghĩ ông Hamil đã nhầm to. Tôi cho rằng chính những kẻ bất công mới ngủ ngon nhất vì bọn họ sống chết mặc bay, trong khi những người công bằng mắt cứ chong chong và động tí là sôi máu. Nếu không họ đã chẳng làm người công bằng. Ông Hamil có những câu cửa miệng như “ấy, cứ tin vào cái kinh nghiệm già của ta” hay “như ta có vinh hạnh nói thế với cậu” và hàng đống câu khác mà tôi rất khoái, chúng nhắc tôi nhớ về ông. Đó người tốt nhất trần đời. Ông dạy tôi viết “ngôn ngữ của ông bà tổ tông” tôi, ông toàn dùng từ “tổ tông” vì bố mẹ tôi ông còn không muốn nhắc tới. Ông cho tôi đọc kinh Coran vì madame Rosa bảo nó rất tốt cho người Ả-rập. Khi tôi hỏi sao Madame biết tôi tên Mohammed và là tín đồ Hồi giáo ngoan đạo mà tôi thì cầu bất cầu bơ và không có giấy tờ gì chứng minh mình tồn tại, Madame bối rối bảo ngày tôi đủ lông đủ cánh sẽ giải thích ngọn ngành, chứ Madame không muốn tôi bị một đòn chí tử khi còn mẫn cảm. Madame luôn bảo điều đầu tiên phải nương cho trẻ con chính là sự mẫn cảm. Thực tình, mẹ tôi có tự thân vận động thì cũng chẳng bận gì đến tôi và nếu biết mẹ thì tôi cũng vẫn sẽ yêu quý mẹ, chăm sóc mẹ và làm mô ca chu đáo cho mẹ như ông N’Da Amédée, tôi bảo các bạn thế đấy. Tôi rất vui vì có madame Rosa nhưng nếu kiếm được cho mình một người tốt hơn và thêm vào thì, mẹ kiếp, tôi sẽ không nguây nguẩy nói không đâu. Tôi vẫn có thể trông nom madame Rosa dù có phải chăm lo cho một mẹ thứ thiệt. Ông N’Da chẳng bảo trợ nhiều bà một lúc đấy thôi.

Madame Rosa biết tôi tên Mohammed và là ngươi đạo Hồi, thế có nghĩa là tôi có gốc gác hẳn hoi và không đến nỗi không ra gì. Tôi muốn biết mẹ ở đâu và cớ sao không ngó ngàng đến tôi. Madame Rosa liền bật khóc, bảo tôi thật thiếu lòng biết ơn, tôi không có tình cảm gì với Madame và muốn có người khác. Tôi đành bỏ cuộc, ừ thì tôi vẫn biết khi một phụ nữ phải tự thân vận động, việc bà ta có con không hãm lại được vì lý do vệ sinh luôn là điều bí ẩn, làm thành cái mà tiếng Pháp gọi là con gái đĩ, nhưng việc madame Rosa chắc như đinh đóng cột rằng tôi tên Mohammed và là người Hồi giáo xịn thì thật khôi hài. Madame chả đến nỗi phịa ra thế để làm tôi vui lòng. Có lần tôi nói chuyện này với ông Hamil khi ông kể tôi nghe về cuộc đời Sidi Abderrahmân, ông thánh bảo trợ thành Alger.

Ông Hamil đến với chúng tôi từ Alger, nơi ba mươi năm trước ông đi qua trên đường hành hương về thánh địa La Mecque. Sidi Abderrahmân thành Alger là ông thánh ông hâm mộ nhất bởi máu chảy ruột mềm, như ông bảo vậy. Nhưng ông còn có một tấm thảm có hình một đồng bào khác của ông, Sidi Ouali Dada, người quanh năm ngồi trên chiếc thảm cầu nguyện của mình do một đàn cá kéo đi. Chuyện này có vẻ thiếu nghiêm túc thế nào, đàn cá kéo thảm trong không trung, nhưng đấy là tại tôn giáo muốn thế.

- Ông Hamil ơi, sao không có gì chứng minh cháu là cháu mà cháu lại có tên Mohammed và là người Hồi giáo được nhỉ?

Ông Hamil luôn giơ cao một bàn tay khi muốn nói ý Chúa đã quyết. 

- Madame Rosa nhận cháu về từ khi cháu còn đỏ hỏn và không làm giấy khai sinh. Từ bấy đến giờ, bà ấy đón đưa hàng chục trẻ con, bé Mohammed ạ. Bà ấy có bí mật nghề nghiệp, vì nhiều phụ nữa yêu cầu giữ mồm giữ miệng. Bà ấy đã ghi cháu tên Mohammed, tức người đạo Hồi, rồi kẻ sinh thành ra cháu bặt vô âm tín. Dấu ấn duy nhất của hắn là cháu, bé Mohammed ạ. Và cháu là một cậu bé xinh xắn. Hãy cứ nghĩ cha cháu đã hy sinh trong cuộc chiến tranh Algérie, một điều đẹp đẽ và cao cả. Hắn là người anh hùng của nền độc lập.

- Ông Hamil ơi, cháu thà có bố còn hơn là không có một người anh hùng. Đáng lý ông ấy phải là một mô ca tốt và chăm lo cho mẹ cháu.

- Cháu không được nói thế, bé Mohammed, phải nghĩ đến cả người Nam Tư và người đảo Corse nữa chứ, cái gì cũng đổ cả lên lưng chúng ta thì đâu có được. Nuôi một đứa bé ở khu này thật khó làm sao.

Nhưng tôi có cảm giác ông Hamil biết cái gì đó mà không nói với tôi. Ông là người tử tế và nếu cả đời không phải rong ruổi bán thảm thì hẳn ông đã là một người ra dáng lắm, có khi còn ngồi lên tấm thảm bay cho cá kéo đi giống thánh Sidi Ouali Dada của người Maghreb không chừng.

- Thế sao người ta đuổi học cháu hả ông? Madame Rosa bảo tại cháu bé hơn so với tuổi, rồi lại bảo tại cháu quá lớn so với tuổi, rồi lại tại cháu không có số tuổi đáng lý phải có, bà còn lôi cháu đến bác sĩ Katz, bác sĩ bảo bà là có thể cháu khác người, y như một đại thi hào ấy.

Ông Hamil có vẻ buồn thiu. Tại mắt ông làm ra thế. Người ta lúc nào cũng buồn nhất ở cặp mắt.

- Cháu là một đứa bé rất nhạy cảm, Mohammed ạ. Điều đó làm cháu hơi khác những người khác…

Ông nhoẻn cười.

- Sự nhạy cảm, bây giờ nó không phải là thứ làm chết người.

Chúng tôi toàn nói tiếng Ả-rập, chuyển sang tiếng Pháp nó không còn hay được bằng như thế.

- Có phải bố cháu là một đầu gấu hách xì dầu làm ai cũng khiếp đảm đến mức không dám nhắc đến không hả ông Hamil?

- Không, không, thật sự không phải thế, Mohammed ạ. Ta chưa thấy ai nói thế bao giờ.

- Vậy ông đã nghe thấy gì hả ông Hamil?

Ông cụp mắt, thở đánh thượt.

- Không có gì.

- Không gì cả ạ?

- Tuyệt không.

Lúc nào cũng điều bất di bất dịch ấy, với tôi. Chẳng có gì.

Bài học kết thúc và ông Hamil bắt đầu kể tôi nghe về Nice, chuyện làm tôi mê nhất. Khi ông nói về những chú hề nhảy múa ngoài phố và những gã khổng lồ tưng bừng nghễu nghện trên xe tăng, tôi như đang ở nhà mình. Tôi cũng yêu những cánh rừng mimosa mà họ có ở đấy rồi những hàng cọ và những chú chim trắng muốt đập đập cánh như đang vỗ tay vì quá chừng hạnh phúc. Một hôm, tôi đã thuyết phục được Moïse và một thằng có tên khác cuốc bộ đến Nice sống trong rừng mimosa bằng đồ săn bắn được, chúng tôi khởi hành vào buổi sáng và đi tới tận quảng trường Pigalle nhưng đến đấy thì chúng tôi hoảng lên vì xa nhà quá và quay trở lại. Madame Rosa đã tưởng mình phát rồ, nhưng lúc nào Madame chả diễn đạt theo cách đó.