← Quay lại trang sách

Chương 8

TÔI MÙ TỊT VỀ điều mà thường thường madame Rosa có thể mộng mị. Tôi thấy mơ về đằng sau thì không để làm gì mà ở tuổi Madame thì không còn mơ về đằng trước được nữa. Có lẽ Madame mơ về thời trẻ, thời Madame còn xinh xẻo và chưa có sức khỏe để lo lắng. Tôi không rõ bố mẹ Madame làm gì nhưng họ ở Ba Lan. Madame bắt đầu vận động tại đó, rồi tại Paris phố Fourcy, phố Blondel, phố Thiên Nga, rồi mỗi nơi đá một tí, sau Madame sang cả Maroc và Algérie. Madame nói tiếng Ả-rập như cháo chảy và không kỳ thị. Madame còn từng làm cho quân Lê dương ở Sidi Bel Abbès nhưng tình hình xấu đi khi Madema quay lại Pháp, vì Madame muốn nếm náp mùi vị tình yêu và gã đó đã cuỗm sạch tiền tiết kiệm của Madame và tố lên cảnh sát cái gốc gác Do Thái của Madame. Madame luôn dừng lại khi kể đến chuyện này và nói: “Qua rồi, cái thời ấy”, Madame mỉm cười và đó là một khoảnh khắc dễ chịu với Madame.

Khi từ Đức trở về, Madame còn theo nghề thêm vài năm nhưng từ hồi năm mươi tuổi trở đi, Madame bắt đầu đẫy đà và trông không còn bắt mắt nữa. Madame biết phụ nữ tự thân vận động muốn giữ con gặp đủ sự khó khăn bởi luật pháp cấm đoán với những lý do luân lý và Madame nảy ra ý mở một nhà trọ không gia đình cho những đứa trẻ sinh ra ngang trái. Trong cách nói của mình chúng tôi gọi nó là nhà chứa. Bằng cách đó Madame may sao đã nuôi được một ông cẩm con gái đĩ che chắn cho Madame, nhưng giờ Madame đã sáu mươi lăm tuổi, lường trước đi là vừa. Thứ làm Madame sợ nhất là bệnh ung thư, nó không chừa ai cả. Tôi thấy rõ Madame yếu đi và đôi khi chúng tôi nhìn nhau trong im lặng và cùng nhau hoảng sợ vì chúng tôi chỉ có mỗi mình nhau trên đời. Bởi thế cho nên thứ cần có trong tình trạng của Madame là một con sư tử nhởn nhơ trong nhà. Thôi đành, tôi tự bố trí, mở mắt thao láo trong bóng đêm, để sư tử đến nằm xuống bên cạnh và liếm mặt mà không hé với ai một lời. Khi madame Rosa hốt hoảng thức giấc, bước vào và bật đèn sáng lựng, Madame thấy chúng tôi nằm ngủ ngon lành. Nhưng Madame ngó xuống tận gầm giường và thật buồn cười khi nghĩ rằng sư tử là thứ duy nhất trên đời không xảy đến với Madame, vì lẽ có thể nói ở Paris không có sư tử, thú hoang thì chỉ gặp trong thiên nhiên thôi.

Đó chính là lúc lần đầu tiên tôi hiểu ra rằng Madame bị lẩm cẩm. Madame đã chịu bao nỗi bất hạnh và giờ đã đến lúc trả giá, vì người ta phải trả giá cho tất cả mọi thứ trên đời. Madame còn lôi tôi đến tận bác sĩ Katz và mách bác là tôi để thú hoang tự do lượn lờ trong nhà và chắc chắn đó là một dấu hiệu. Tôi thừa hiểu giữa madame và bác sĩ Katz có điều gì đó không được nói đụng đến trước mặt tôi, nhưng tôi chịu không biết nó có thể là cái gì và vì sao Madame lại sợ.

- Bác sĩ, nó sẽ gây bạo lực, tôi chắc chắn đấy.

- Đừng huyên thuyên, bà Rosa.Bà không việc gì phải sợ. Momo bé bỏng của chúng ta là một đứa hiền lành. Đấy không phải là một căn bệnh và xin hãy tin ở một bác sĩ lâu năm, những thứ khó chữa nhất không phải là bệnh tật.

- Thế sao lúc nào trong đầu nó cũng có mấy thằng sư tử vậy?

- Trước tiên, đó không phải một thằng mà là một con sư tử.

Bác sĩ Katz mỉm cười và đưa tôi một viên kẹo vị bạc hà.

- Đó là một con sư tử. Và chúng làm gì, các con sư tử? Chúng che chở cho nhóc con của chúng…

Madame thở dài.

- Bác sĩ, ông biết rõ vì sao tôi sợ mà.

Bác sĩ Katz nổi giận bừng bừng.

- Bà im đi, bà Rosa. Bà thật mông muội. Bà không hiểu gì về những điều này và có Thượng Đế mới biết bà tưởng tượng ra những gì. Đó là những điều mê tín thời nảo thời nào. Tôi đã bảo bà bao lần rồi còn gì và tôi xin bà hãy thôi đi.

Bác còn muốn thêm cái gì đó nhưng bác nhìn tôi rồi đứng dậy và dẫn tôi ra khỏi phòng. Tôi phải dán tai vào cửa để hóng hớt.

- Bác sĩ, tôi sợ nó bị di truyền lắm.

- Đủ rồi đấy bà Rosa. Trước tiên, bà còn không biết bố nó là ai, người phụ nữ tội nghiệp ấy làm cái nghề ấy cơ mà. Và dẫu thế nào đi nữa, tôi đã giải thích với bà là nó không có nghĩa gì rồi. Có đến cả nghìn lý do khác nhau liên quan. Nhưng rõ ràng nó là một đứa trẻ rất nhạy cảm và cần tình thương.

- Dẫu sao tôi cũng không thể tối tối đến liếm mặt nó được đâu bác sĩ. Nó moi đâu ra những ý nghĩ đó nhỉ? Và sao ở trường họ lại không muốn giữ nó?

- Tại giấy khai sinh bà làm cho nó không dính dáng gì đến tuổi của nó cả. Bà mết thằng bé này quá.

- Tôi chỉ sợ người ta lấy mất nó. Ông để ý mà xem, người ta có chứng tỏ được gì cho nó đâu. Tôi ghi nó lên một mẩu giấy hoặc nhớ thầm nó trong đầu, vì bọn họ toàn sợ bị lộ. Gái đĩ hủ bại không được giáo dục con mình vì bị truất quyền phụ huynh. Với bài đấy, người ta có thể giữ họ và mặc cả hàng năm trời, họ thà chịu tất còn hơn là mất con. Có những kẻ dẫn gái là mô ca chính hãng vì không ai còn muốn làm việc của mình nữa.

- Bà là một phụ nữ tử tế, bà Rosa ạ. Tôi sẽ kê thuốc an thần cho bà.

Tôi chả thu thêm được gì. Mà chỉ càng chắc chắn rằng bà Do Thái có điều giấu giếm nhưng tôi cũng không nằng nặc muốn biết. Biết càng nhiều càng không hay ho gì. Bạn tôi anh Le Mahoute cũng con gái đĩ bảo ở chỗ chúng tôi úp mở là chuyện thường tình với luật số đông. Anh bảo một phụ nữ làm mọi việc chỉn chu lỡ sinh con ngoài kế hoạch và quyết định giữ nó lại thì luôn có cơ bị chính quyền điều tra và không gì có thể tệ hơn, nó sẽ không dung thứ. Người mẹ toàn phải giơ đầu chịu báng trong những hoàn cảnh như chúng tôi, vì người bố được luật số đông bảo vệ.

Madame Rosa cất dưới đáy vali một mẩu giấy ghi rõ tôi là Mohammed cùng với ba cân khoai tây, nửa cân cà rốt, một lạng bơ, một con cá, ba trăm quan, cần nuôi dưỡng trong môi trường Hồi giáo. Cũng có thấy ghi một ngày nhưng đó chỉ là ngày Madame nhận tôi về chứ nó không đả động gì đến ngày tôi ra đời.

Tôi là kẻ phải trong những đứa trẻ khác, nhất là phải chùi đít bọn nó, madame Rosa vì trọng lượng của mình cúi xuống rất khó nhọc. Eo Madame thẳng đuỗn còn mông toàn tưng thẳng lên vai mà không cần lấy đà. Madame đi lại thì như là chuyển nhà vậy.

Cứ chiều thứ Bảy Madame lại đánh chiếc váy màu xanh da trời, chiếc áo lông cáo và đeo một đôi hoa tai, tôi son đỏ hơn cả bình thường và ra ngồi ở một quán cà phê Pháp, quán Mái Vòm khu Montparnasse, và chén một cái bánh gatô.

Tôi chưa chùi đít đứa nào hơn bốn tuổi cả, vì còn thể diện của mình, mà nhiều đứa thì cố rặn cho ra. Nhưng biết thừa là lũ ngốc đó, tôi dạy chúng nghịch kiểu này, ý tôi là dạy chúng chùi lẫn cho nhau, tôi giải thích với chúng là làm thế thì thú hơn là để đèn nhà ai rạng nhà nấy. Cách đó hiệu quả hết ý, madame Rosa chúc mừng tôi và bảo tôi đã bắt đầu biết tự thân vận động. Tôi không chời bời gì với những đứa kia, chúng nhỏ quá so với tôi, trừ mỗi khi đọ chim, và madame Rosa nổi một trận kinh thiên động địa, Madame dị ứng với chim cò vì tất cả những thứ đã từng trông thấy trong đời. Ban đêm Madame vẫn cứ sợ sư tử và chuyện đó dầu gì cũng thật khó tin khi ta nghĩ đến tất cả những nỗi sợ có nguồn cơnchính đáng khác.

Madame Rosa có rắc rối với trái tim và tại cái cầu thang mà chính tôi phải lo việc chợ búa. Với Madame mấy tầng gác là thứ tệ hại nhất. Madame thở càng ngày càng khò khè và tôi bị hen suyễn thay cho Madame, bác sĩ Katz bảo không gì dễ lây bằng tâm lý. Đó là một thứ người ta vẫn chưa hiểu tường tận. Sáng sáng tôi sướng rơn thấy madame Rosa tỉnh dậy vì tôi bị những cơn hoảng loạn về đêm, tôi sợ xanh mật là Madame bỏ lại tôi một mình.

NGƯỜI BẠN THÂN NHẤT CỦA TÔI hồi đó là một cái ô tên Arthur, được tôi phục sức cho từ đầu đến chân. Tôi quấn vải vụn quanh cán ô thành một cái đầu, rồi vẽ cho nó một khuôn mặt dễ thương tươi tắn có đôi mắt tròn vo bằng son của madame Rosa. Tôi làm thế không hẳn để có người thương kẻ nhớ, mà để diễn trò hề vì tôi không có tiền tiêu vặt và dăm bữa nửa tháng tôi lại đến những nơi có, là các khu Pháp. Tôi vận một chiếc áo khoác rộng thùng thình dài trùm gót, đội một cái mũ quả dưa, mặt mũi bôi màu lem luốc, ô Arthur cặp kè bên cạnh, hai chúng tôi trông đến ngộ. Tôi làm trò trên vỉa hè và mỗi ngày bỏ túi tới hai mươi quan, nhưng phải mắt trước mắt sau vì cảnh sát luôn để ý đến trẻ vị thành niên chơi rong. Arthur ăn mặc như người cụt một chân với một chiếc giày thể thao màu trắng và xanh, một cái quần, một áo vest kẻ ca rô vắt vẻo trên một cái mắc áo mà tôi dùng dây buộc vào và còn khâu cho nó một chiếc mũ tròn. Tôi hỏi mượn ông N’Da Amédée quần áo cho ô của tôi và các bạn có biết ông đã làm gì không?

Ông dẫn tôi đến cửa hàng Áo Vàng trên đại lộ Belleville, chỗ xịn nhất ấy, và để tôi chọn thỏa thích. Tôi không biết có phải ai ở châu Phi cũng như ông không nhưng nếu phải thì chắc họ chẳng thiếu thốn thứ gì.

Khi diễn sô của mình trên vỉa hè, tôi nhún nhảy, múa may cùng Arthur, và kiếm bộn. Có những người phẫn nộ nói không được phép đối xử như vậy với một đứa trẻ. Tôi không biết ai đối xử với mình, nhưng cũng có những người mủi lòng. Cũng thật lạ, vì tôi làm vậy chỉ để nghịch chơi.

Đôi lúc Arthur bị gãy. Tôi dùng đinh gá một chiếc mắc áo vào và nhờ thế nó có một đôi vai, trong khi vẫn còn một ống quần rỗng như một chiếc ô bình thường. Ông Hamil không vừa ý, bảo Arthur giống một vật hộ mệnh và như thế là trái với tôn giáo của chúng tôi. Tôi không mộ đạo nhưng quả tình khi có một vật hơi kỳ kỳ và trông vô dạng vô hình, bạn hy vọng nó làm được điều gì đó. Tôi ghì chặt Arthur khi đi ngủ và sáng dậy ngó xem madame Rosa có còn thở hay không.

Tôi chưa vào nhà thờ bao giờ vì nó đi ngược lại tôn giáo thật của tôi và dính líu đến nó là thứ không đời nào tôi muốn. Nhưng tôi biết những người theo đạo Thiên chúa đã trả giá cắt cổ để có một ông Christ, còn chỗ chúng tôi để tránh phỉ báng Thượng đế thì cấm tiệt dùng mặt người, điều này có thể hiểu được vì con người có gì đâu mà cao ngạo. Vậy là tôi xóa nét mặt Arthur, chỉ để lại một khối tròn màu xanh lét mang vẻ hốt hoảng và tôi lại hòa hợp với đức tin của mình. Một lần, khi bị cảnh sát bám đít vì can tội gây tụ tập khi diễn trò, tôi đánh rơi Arthur và nó vung vãi tứ tung, mũ, mắc áo, áo khoác, giày, đủ thứ. Tôi kịp nhặt hết nhưng nó tồng ngồng như nhộng. Và rồi đến lạ, madame Rosa bình thường chẳng nói chẳng rằng khi Arthur được ăn được mặc và đi ngủ cùng tôi, còn khi nó bị lột trần và tôi muốn cho nó đắp chung chăn với mình thì Madame lại mắng, bảo sao lại có thể có ý nghĩ đi ngủ cùng ô trên giường được. Các bạn thử tìm xem có hiểu được không.

Tôi thắt lưng buộc bụng được chút đỉnh và đã ra chợ giời tân trang lại cho Arthur, ở đó có những thứ không tệ chút nào.

Nhưng thần may mắn bắt đầu rời bỏ chúng tôi.

Cho đến lúc đó các tờ ngân phiếu của tôi vẫn bập bõm đi về, có những tháng bị nhảy cóc nhưng dẫu sao chúng cũng về. Rồi bỗng nhiên chúng im bặt. Hai tháng, ba tháng, không thấy gì hết. Bốn tháng. Tôi nói với madame Rosa và tôi suy nghĩ lung đến độ ngay giọng tôi cũng run cả lên:

- Madame Rosa, bà đừng sợ. Bà cứ tin ở cháu. Cháu sẽ không đá bà chỉ vì bà không nhận được tiền nữa đâu.

Rồi tôi túm lấy Arthur, đi ra ngồi ngoài vỉa hè để không khóc trước mặt mọi người.

Phải nói là chúng tôi cùng quẫn. Madame Rosa chả mấy mà hết hạn tuổi và Madame tự biết điều đó. Cầu thang cùng bảy tầng lầu trở thành kẻ thù số một của Madame. Rồi một ngày nó sẽ giết chết Madame, Madame đinh ninh thế. Còn tôi thì tôi biết chẳng cần phải giết Madame, cứ nhìn Madame là rõ. Không còn phân biệt được đâu là ti là bụng là mông, hệt như một cái thùng tô nô vậy. Càng ngày chúng tôi càng ít có trẻ con đến trọ, vì các bà kia không còn tin vào madame Rosa nữa, trước thể trạng của Madame. Họ thấy rõ mồn một là Madame không còn khả năng chăm nom ai và thà trả cao để sang nhà bà Sophie hay mẹ Aïcha phố Alger còn hơn. Họ kiếm bộn nên đấy chỉ là chuyện vặt. Các bà điếm mà madame Rosa quen thì đã biệt tích trong cuộc chuyển giao thế hệ. Vì Madame sống nhờ tiếng lành đồn xa và vì người ta không còn rủ nhau đến Madame nữa nên tăm tiếng của Madame phai nhạt dần. Khi còn phăm phăm đi lại được, Madame đến tận nơi họ làm việc hoặc la cà ở các quán cà phê khu Pigalle và Les Halles nơi họ vận động và tự thêm mắm thêm muối bằng cách ngợi ca sự tiếp đón, bếp núc, đủ thứ. Giờ thì Madame không làm thế được nữa. Bạn bè Madame bóng chim tăm cá hết cả và Madame chẳng còn mối nào. Mà lại có thuốc ngừa thai hợp pháp để bảo vệ trẻ em, nên phải mót con lắm mới tòi ra. Khi có một đứa, người ta không thanh minh được nữa mà biết mình đã làm gì nó.

Tôi đã lên mười hoặc tầm đó và là đứa phải đỡ đần cho madame Rosa. Tôi cũng phải suy tính cho tương lai của mình, bởi nếu còn trơ lại mình tôi thì sẽ là An sinh Xã hội thẳng tiến khỏi tranh luận lôi thôi. Vì thế đêm về tôi cứ thao thức và nằm canh chừng xem madame Rosa có chết mất không.

Tôi tìm cách tự thân vận động. Tôi lượt là đầu tóc, xức nước hoa của madame Rosa vào sau tai giống Madame và buổi chiều cùng Arthur ra phố Pigalle, hay phố Blanche, phố này cũng tạm được. Ở đó có các bà vận động thông tầm và thể nào cũng có một hai bà đến hỏi han tôi và nói:

- Ồ, cậu người nộm xinh quá. Mẹ cháu làm ở đây à?

- Không, cháu vẫn chưa có ai.

Các bà mời tôi một cốc bạc hà ở quán cà phê phố Macé. Nhưng tôi phải canh chừng vì cảnh sát săn lùng các mô ca và các bà cũng phải cảnh giác, các bà không được quyền đeo bám. Muôn thuở vẫn là những câu hỏi ấy.

- Cháu mấy tuổi rồi, cậu bé xinh xắn?

- Mười ạ.

- Cháu có mẹ không?

Tôi đáp rằng không và thấy thương madame Rosa, nhưng các bạn bảo làm sao được. Đặc biệt có một bà rất âu yếm với tôi và thỉnh thoảng bỏ vào túi tôi một tờ tiền, khi bà đi ngang qua. Bà mặc một chiếc váy ngắn và đi giày cổ cao lút tầm, bà trẻ hơn madame Rosa. Bà có đôi mắt rất trìu mến và một lần bà ngó ngược nhìn xuôi, nắm lấy tay tôi và chúng tôi đến cái quán cà phê bây giờ không còn nữa vì người ta đã cho nó ăn bom, quán Panier.

- Cháu không được lảng vảng ở vỉa hè, nó không phải là chỗ của trẻ con.

Bà sửa sang tóc tôi. Nhưng tôi biết kỳ thực là để vuốt tóc tôi.

- Tên cháu là gì?

- Momo.

- Thế bố mẹ cháu đâu hả Momo?

- Cháu không có ai cả, bà tưởng gì chứ. Cháu rảnh rang mà.

- Nhưng tóm lại phải có ai đó cai quản cháu chứ?

Tôi hút cốc nước cam, vì phải suy xét đã.

- Ta có thể nói chuyện với họ, ta muốn chăm sóc cháu. Ta sẽ để cháu ở một căn hộ nhỏ, cháu sẽ là một ông hoàng con và sẽ không thiếu thứ gì.

- Phải xem thế nào đã ạ.

Tôi hút cạn cốc nước cam và tụt khỏi ghế.

- Này, cháu cầm lấy mà mua kẹo, cháu bé bỏng yêu quý.

Bà bỏ một tờ tiền vào túi tôi. Một trăm quan. Nói danh dự đấy.

Tôi còn quay lại đó đôi ba lần và lần nào bà cũng cười hết cỡ với tôi, nhưng từ xa, rầu rĩ, vì tôi không thuộc về bà.

Đen một nỗi, bà thu ngân quán Panier là bạn madame Rosa khi hai người còn cùng nhau vận động. Bà ta báo cho bà già biết và tôi được hưởng ngay một màn ghen tuông ngút trời! Tôi chưa thấy madame Do Thái bị đảo lộn như the bao giờ, Madame khóc nức lên. “Bà có nuôi dạy để cháu làm thế đâu”, Madame nhắc đi nhắc lại cả chục bận và rền rĩ. Tôi phải thề với Madame là sẽ không bén mảng đến đó nữa và sẽ không bao giờ làm kẻ dẫn gái. Madame bảo tất cả bọn họ đều là mô ca và Madame thà chết đi còn hơn. Nhưng tôi làm được gì khác với cái thân mười tuổi như mình bây giờ.

Với tôi điều luôn có vẻ dị thường là nước mắt đã được lập trình. Tức là ta được lên chương trình trước để khóc lóc. Phải nhớ điều này. Không có nhà kiến thiết nào biết tự tôn trọng mình lại làm thế.

Ngân phiếu vẫn không về và madame Rosa bắt đầu tấn công sổ tiết kiệm. Madame vun vén được một ít dối già nhưng cũng biết mình chẳng còn được bao lăm. Madame chưa bị ung thư nhưng những gì sót lại thì bủng đi chóng vánh. Madame còn lần đầu tiên rủ rỉ với tôi về mẹ và cha tôi vì hình như có tận hai người. Họ đến gửi tôi vào một buổi tối trời, mẹ khóc rức lên rồi bỏ chạy. Madame Rosa bế lấy tôi, Mohammed, Hồi giáo và hứa là tôi sẽ được nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa. Còn sau đó, sau đó… Madame thở dài, đó là tất cả những gì Madame biết, nhưng Madame nói mà không nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi không biết Madame giấu tôi điều gì nhưng trong đêm nó làm tôi sợ. Tôi chưa bao giờ moi thêm được gì từ Madame, ngay cả khi ngân phiếu thôi không về nữa và Madame chẳng còn căn cớ nào phải tử tế với tôi. Tất cả những gì tôi biết là chắc chắn tôi có một ông bố một bà mẹ, bởi về mặt này tự nhiên bất chấp hết. Nhưng họ chưa một lần trở lại, madame Rosa lấy vẻ hối lỗi và im bặt. Tôi sẽ nói ngay vói các bạn là tôi không bao giờ gặp lại mẹ, tôi không muốn gây cho các bạn những cơn xúc động giả tạo. Một lần, khi tôi nài nỉ, madame Rosa đã phịa ra một lời nói dối thảm hại đến mức nó tạo ra một khoái thú đích thực.

- Bà thấy cô ta có một định kiến tiểu tư sản, mẹ cháu ấy, vì xuất thân từ một gia đình ra trò. Cô ta không muốn cháu biết nghề nghiệp của cô ta. Vậy nên cô ta đã ra đi trong thổn thức, trái tim tan vỡ và không bao giờ trở lại, vì định kiến sẽ làm cháu bị tổn thương vì sốc, như y học bảo vậy.

Rồi chính madame Rosa cũng bắt đầu nỉ non, chẳng còn ai như Madame để thích những câu chuyện đẹp đẽ nữa. Tôi nghĩ bác sĩ Katz có lý khi nghe tôi kể chuyện này. Bác bảo các bà điếm, đấy là một cái nhìn tinh thần, ông Hamil cũng vậy, ông đã đọc Victor Hugo và cổ thụ hơn bất cứ ai ở tuổi ông, khi ông vừa cười vừa giảng giải với tôi rằng không có gì là trắng hẳn hay đen hẳn, mà màu trắng thường là màu đen giấu mình và màu đen có khi là màu trắng lộ diện. Ông còn vừa nhìn ông Driss mang trà bạc hà đến cho ông vừa chêm vào: “Hãy tin vào cái kinh nghiệm già của ta.” Ông Hamil là một người vĩ đại, nhưng hoàn cảnh đã không cho phép ông trở thành như vậy.