← Quay lại trang sách

Chương II

Thérèse vốn ưa mùi da ẩm mốc của những chiếc xe cổ lỗ. Nàng bỏ quên gói thuốc, nhưng tự an ủi: mình không thích hút trong bóng tối. Ngọn đèn lồng soi rõ bờ dốc, rặng dương xỉ đìu hiu và những góc thông to tướng. Mấy đống sỏi làm bóng cỗ xe trở nên đi động. Thỉnh thoảng, một chiếc xe bò lọc cọc đi qua, mấy con la tự động nép sang phải, trong khi người đánh xe ngủ gà ngủ gật, chẳng buồn nhúc nhích. Thérèse tưởng như mình chẳng bao giờ đến Argelouse, bởi nàng đang ao ước con đường này hãy thành vô tận, không phải còn một giờ ngồi xe về tận ga Nízan và chuyến xe lửa cứ ngừng mãi ở mỗi ga xép. Cả từ Saint Clair nữa, nơi nàng sẽ xuống, cho đến Argelouse, còn phải vượt mươi cây số bằng xe bò có mui (đấy, con đường chẳng một chiếc ô tô nào đám chạy ban đêm).

Ðịnh mệnh, còn có thể hiện ra ở bất cứ chặng đường nào, để giải thoát cho nàng. Trước ngày có phán quyết, Thérèse không sao xua đuổi khỏi tâm trí nỗi ám ảnh huyền hoặc: một trận động đất sẽ xảy ra, nếu họ vẫn buộc tội nàng. Nàng giở nón ra, mái đầu nhỏ nhắn, rũ rượi tựa trên ghế da thoảng mùi mốc, mặc nó bồng bềnh và xác thân dằn xốc. Cho đến đêm này, nàng đã sống như kẻ bị truy nã; giờ tai nạn qua khỏi, nàng cảm thấy mỏi mòn. Má hóp sâu, môi héo hắt, với vầng trán rộng kiêu kỳ, tạo thành bộ mặt kẻ bị kết án – đúng thế, dù rằng người ta đã công nhận nàng vô tội - kết án lưu đày vào cõi trăm năm cô đơn. Vẻ quyến rũ khó lòng cưỡng nổi của nàng trước kia, như ấp ủ một nỗi niềm u ẩn, một vết thương đau thầm kín, nàng chắc tất cả đều biết vậy, nếu họ không cố tình tự lừa dối.

Ngồi sâu trong chiếc xe lắc lư, trên con đường xuyên qua bóng tối dày đặc của rừng thông, người thiếu phụ trẻ, chẳng cần phải đóng kịch nữa, đưa tay dịu dàng mơn trớn gương mặt ủ ê của mình. Bernard, kẻ đã ngụy chứng để cứu nàng, sẽ nói những lời đầu tiên ra sao? Có thể anh ấy sẽ chẳng hỏi gì đêm nay... còn ngày mai? Thérèse nhắm nghiền mắt lại, đoạn mở hé ra, và thấy đầu ngựa đang lê từng bước khó nhọc, nàng cố nhận ra con dốc. A! Đừng nghĩ gì trước cả. Có lẽ mọi sự sẽ đơn giản hơn là mình tưởng. Ðừng nghĩ ngợi gì hết. Ngủ đi.

Sao hàng không còn ngồi trong xe nữa nhỉ? Còn cái người bệ vệ sau tấm thảm xanh kia, ồ! viện dự thẩm... lại vẫn ông ta! Ông ta thừa biết nội vụ đã được dàn xếp rồi mà. Đầu ông ta nghiêng từ trái sang phải: có sự kiện mới, không thể ký lệnh miễn tố. Một sự kiện mới ư? Thérèse quay đi, để địch thủ khỏi nhìn thấy gương mặt thất sắc của mình.

- Hãy cố nhớ lại xem, thưa bà. Chỗ túi trong của chiếc áo choàng cũ kỹ này. Chiếc áo mà bà chỉ dùng tới vào tháng Mười, trong mùa săn chim Cu, bà có để quên cái gì, có giấu giếm cái gì không?

Không thể chối cãi, nàng nghẹn thở.

Dán mắt vào con mồi của mình, viên thẩm phán đặt lên bàn một gói nhỏ có đóng khằng đỏ - Thérèse có thể đọc vanh vách cái công thức ghi trên bao bì và người kia sẵng giọng:

- Chloroforme[2]: 30 gam, Aconitine[3] viên nhỏ số 20, Digitaline[4]: 20 gam.

Viên thẩm phán cười phá lên... Thắng rít kèn kẹt dưới bánh xe. Thérèse choàng thức; ngực căng phồng, đầy ắp sương mù (chắc là xe đang xuống con suối trắng). Thuở mới lớn, nàng cũng mơ như thế, khi một nhầm lẫn buộc nàng phải thi lại bằng Trung học. Ðêm nay, khi sực tỉnh, nàng cũng thấy lâng lâng nhẹ nhõm như hồi ấy: tuy có hơi bồn chồn bởi chưa chính thức có lệnh miễn tố. “Nhưng con thừa biết, còn phải tống đạt trước cho luật sư đã”.

Tự do... còn mơ ước gì hơn. Trở lại cuộc sống bình thường bên cạnh Bernard, đối với nàng chỉ là trò đùa. Bộc bạch hết với anh ấy, đừng để vương vấn thoáng nghi ngờ nào: đó là lối thoát. Tất thảy những gì khuất lấp, phải được phơi bày ra ánh sáng và ngay trong đêm nay. Giải pháp ấy khiến Thérèse rào rạt niềm vui. Trước khi về tới Argelouse, nàng còn chán thì giờ để “dọn mình xưng tội”, theo cách mà Anne de la Trave, cô bạn gái sùng đạo, vẫn lập luận, mỗi thứ bảy, trong những kỳ hè vui vẻ. Anne bé bỏng, hồn nhiên, em giữ vai trò nào trong chuyện này? Những đứa trẻ trong trắng nhất đâu biết hàng ngày, hàng đêm chúng can dự những gì. Và điều gì nảy mầm độc, dưới gót chân thơ dại của chúng.

Tất nhiên, cô bé ấy có lý, khi nó nhắc nhở Thérèse, cô nữ sinh trung học hay lý sự và ưa cợt đùa: “Chị không thể tưởng tượng nổi đâu, mình cảm thấy như được giải thoát, sau mỗi lần thú tội và được tha thứ. Khi thanh thản, không còn vướng mắc, ta lại có thể bắt đầu cuộc sống với những lầm lỡ mới. Chỉ cần quyết định nói hết là Thérèse đã cảm thấy nhẹ lòng: “ Bernard biết cả rồi, mình phải nói...”

Nàng sẽ nói gì với anh ấy? Thú nhận từ đầu? Liệu lời nói có đủ diễn tả một chuỗi dài lẫn lộn những ước muốn, những ý định, những hành vi không thể biết trước? Những kẻ ý thức rõ tội lỗi của mình, họ xử sự ra sao nhỉ?... “Tôi lại không biết rõ tội lỗi của tôi. Tôi đâu muốn làm cái điều mà người ta gán cho tôi. Tôi không biết tôi muốn gì. Tôi chưa bao giờ hiểu thấu sức mạnh điên cuồng, không thể kềm chế trong tôi, sẽ đưa tôi tới đâu: những gì nó hủy hoại dọc đường đi của nó, chính tôi đây cũng khiếp hãi...”

Một ngọn đèn dầu bốc khói mù mịt, soi sáng bức tường vôi xù xì của nhà ga Nizan và chiếc xe bò đậu gần đó. (Bóng tối hãy nhanh chóng vây bủa chung quanh). Từ một con tàu ngừng bến, vẳng lại những tiếng bò rống; dê kêu buồn bã. Gardère cầm lấy túi xách của Thérèse và một lần nữa, lại nhìn nàng chằm chằm. Chắc mụ vợ lão ta đã căn dặn: “Ông cố mà nhìn cho kỹ, xem người ngợm bà ấy thế nào, đầu óc bà ấy ra sao nhé...” Về người xà ích của ông Larroque, tự dưng Thérèse nhớ lại nụ cười như phân trần với mọi người: “Chẳng hiểu bà ấy xấu hay đẹp, chỉ biết bà ấy quyến rũ vô cùng...” Ngại phải băng qua phòng đợi, nơi có hai chị tá điền ngồi đan, đầu luôn ngúc ngắc với cái thúng đặt trên gối, nàng nhờ lão ta đến phòng vé giữ chỗ.

Khi lão mang vé lại, nàng bảo lão giữ luôn tiền lẽ. Lão đưa tay chạm khẽ vành mũ cát-kết ra dấu cảm ơn, đoạn túm lấy dây cương, quay lại, nhìn chòng chọc vào mặt ái nữ của chủ mình lần cuối.

Các toa tàu chưa được nối lại. Mới đây, mỗi lần bãi trường hay nhập học, Thérèse Larroque và Anne de la Trave rất thích dừng lại ga Nizan. Hai cô vào quán ăn trứng chiên với dăm-bông, rồi quàng tay nhau, tung tăng trên con đường mà đêm nay đã trở nên u tối, kỳ quặc dưới mắt nàng, nhưng vào những năm tháng tuyệt vời đó, Thérèse thấy nó luôn tràn ngập ánh trăng. Bấy giờ, họ cười đùa nhìn đôi bóng mình chụm lại. Cố nhiên, họ ríu rít với nhau về mấy cô giáo, và đám bạn bè - đứa bênh vực tu viện, đứa bảo vệ trường trung học: “Anne...”Trong đêm tối, Thérèse gọi to cái tên đó. Trước tiên phải nói với Bernard về cô ấy... Bernard, con người rất mực đứng đắn; anh xếp hạng mọi tình cảm để tách biệt chúng ra, đâu biết rằng giữa chúng; có những nẻo quanh đường tắt, đan quyện nhau như tấm lưới. Làm sao đưa anh vào những vùng mông lung, vô định, mà Thérèse đã trải qua, đã sầu khổ? Tuy nhiên, cần phải thế. Lát nữa đây, khi bước vào phòng, không thể làm gì khác hơn, là đến ngồi bên mép giường, lần lượt kể cho Bernard nghe hết đoạn này qua đoạn khác, cho đến khi anh bảo Thérèse ngừng lại: “Bây giờ anh đã hiểu, em hãy đứng lên. Anh đã tha thứ cho em”

Nàng lần mò băng qua vườn nhà ông sếp ga, hoa cúc ở đâu chẳng thấy, thoảng hương ngào ngạt. Không có ai trên toa hạng nhất, vả lại ngọn đèn hiu hắt không đủ sáng để soi rõ mặt nàng. Không thể đọc sách được, nhưng quyển truyện nào chẳng trở nên nhạt nhẽo đối với Thérèse, so với cuộc đời kinh khiếp của nàng? Có thể nàng sẽ chết vì xấu hổ, vì âu lo, vì ăn năn, hay mệt mỏi - nhưng nàng sẽ không chết vì phiền muộn.

Nàng ngồi nép vào một góc, nhắm mắt lại. Lẽ nào một người đàn bà thông minh như nàng, lại không thể khiến người ta hiểu ra tấn bí kịch này?

Vâng, khi nàng thú tội xong, Bernard sẽ đỡ nàng đứng lên: “Em yên tâm, Thérèse, đừng băn khoăn gì nữa. Trong ngôi nhà ở Argelouse này, chúng ta sẽ sống bên nhau cho đến chết, chẳng bao giờ để việc đã qua ngăn cách chúng ta nữa. Anh khát lắm, em hãy đích thân xuống bếp, vắt cho anh ly cam. Anh sẽ uống liền một hơi, dù nó có vẩn đục. Dù mùi vị nó gợi anh nhớ đến cốc chocolat ngày nọ, cũng mặc! Em còn nhớ không, hỡi em yêu dấu, những lần nôn mửa ấy? Bàn tay thân thiết của em nâng đầu anh dậy, em không rời mắt khỏi cái chất nước màu lục nhạt: những cơn ngất của anh không hề làm em hoảng sợ. Thế mà, em lại tái nhợt mặt mũi, cả đêm anh nhận thấy đôi chân mình bất động, không còn cảm giác. Em run lập cập, em có nhớ không? Và cái lão bác sĩ Pedamay u mê, lại hoảng kinh vì nhiệt độ anh xuống quá thấp và mạch của anh nhảy loạn xạ…”

“A! Thérèse nghĩ, anh ấy không hiểu, phải kể lại hết từ đầu...” Hành động của chúng ta bắt đầu từ đâu? Ðịnh mệnh mình, khi ta muốn tách riêng nó ra cũng giống như những cây kia, không thể nào nhổ bật lên với cả gốc lẫn rễ. Thérèse sẽ quay ngược về thời thơ ấu chăng? Nhưng thời thơ ấu tự nó đã là một kết thúc, một chung cục.

Tuổi ẩu thơ của Thérèse: từ tuyết giá đến nguồn con sông nhơ bẩn nhất. Ở trường trung học, nàng sống hờ hững và như lánh xa những bi kịch vụn vặt, từng làm nát lòng những cô bạn. Các cô giáo thường đem nàng ra làm gương trước bọn họ:

- Thérèse không đòi hỏi phần thưởng nào khác hơn là niềm vui được thể hiện nơi em, một điển hình của tình người cao cả. Lương tri của em thôi cũng đủ soi sáng cho em. Niềm tự hào được đứng vào lớp người ưu tú, gìn giữ và nâng đỡ em nhiều hơn là nỗi lo sợ bị trừng phạt...

Một cô giáo đã phát biểu như thể.

Thérèse tự hỏi: “Mình có hạnh phúc thế không? Mình có trong trắng thế không? Những gì xảy ra trước cuộc hôn nhân đều mang vẻ thanh khiết, trong ký ức mình, cố nhiên là trái ngược, với sự hoen ố không thể tầy xóa của đêm tân hôn. Ngôi trường trung học, cái thuở xa xăm khi chưa làm vợ và làm mẹ, hiện ra như một thiên đàng. Bấy giờ, tôi đâu có biết. Làm sao tôi có thể hiểu được, trong những năm tháng trước khi vào đời, tôi đã thực sự sống cuộc đời mình. Trong sạch ư? Tôi đã rất trong sạch: một thiên thần ư? Vâng! Nhưng là một thiên thần tràn đầy dục vọng. Dù các cô giáo của tôi có nói gì đi nữa, tôi vẫn đau khổ, và làm người khác đau khổ. Tôi thích thú trước nỗi khổ tôi gây ra hay do các bạn đem tới – đó là niềm đau đơn thuần, chẳng hối hận nào xoa dịu nổi: đau thương và hoan lạc đều từ những thú vui ngây dại nhất mà ra.”

Niềm an ủi của Thérèse là, đừng cảm thấy mình không xứng đáng với Anne, khi gặp lại cô ấy, dưới những gốc sồi ở Argelouse vào mùa hạ. Sao cho nàng có thể nói với cô bé, được nuôi dạy trong tu viện Thánh Tâm: “Ðể được trinh khiết như em, chị không cần đến những thứ huy chương, cũng như bao điều lặp đi lặp lại đến nhàm tai kia...” Lại nữa, phải chăng sự trinh khiết của Anne de la Trave là do khờ dại. Các sơ trong tu viện Thánh Tâm giăng trăm nghìn bức màn che giấu sự thật, trước mắt các cô bé ngây thơ. Thérèse khinh thường họ đã lầm lẫn đức hạnh với sự khờ dại. “Em yêu quý ạ, em chưa biết đời là gì, nàng lẩm bẩm nhắc lại nhiều lần, vào Những mùa hè xa xưa ở Argelouse. Ôi! Những mùa hè tươi đẹp ấy... Trên chuyến xe lửa cuối cùng đã lăn bánh, Thérèse tự nhủ phải nghĩ về họ, nếu nàng muốn nhìn cho rõ. Thật khó mà tin là chính trong buổi bình minh rạng rỡ của đời ta, bao cơn giông ác liệt đã chực chờ. Buổi sáng trời xanh: là điềm chẳng lành của xế trưa và chiều tối. Nó dự báo những vườn hoa xơ xác, những cành cây gãy đổ và bùn nhơ lầy lội. Thérèse không nghĩ ngợi, chẳng suy tính vào bất cứ lúc nào trong đời không một chỗ ngoặt bất ngờ: nàng xuống dốc mà không nhận ra, thoạt tiên rất chậm, rồi càng về sau càng nhanh hơn. Người đàn bà vô hạnh đêm nay, chính là cô thiếu nữ vui tươi hớn hở suốt những mùa hè qua ở Argelouse, nơi giờ đây nàng trở về, một cách lén lút và phải nhờ bóng đêm che chở.

Mệt mỏi biết chừng nào. Phơi trần bí ẩn của một việc đã qua, liệu có ích gì? Người thiếu phụ trẻ, qua khung cửa kính chẳng nhìn thấy gì, ngoài ánh phản chiếu gương mặt sầu thảm của mình. Ðoàn tàu chậm lại, đầu máy rít một hơi dài, từ từ tiến vào sân ga. Một cánh tay đung đưa ngọn đèn lồng, nhiều tiếng gọi quê mùa, tiếng kêu eng éc của những chú heo con vừa đỗ bến. Ðã tới Uzeste rồi. Thêm một ga xép nữa là đến Saint Clair, từ đây phải vượt chặng cuối cùng bằng xe bò về Argelouse. Thời gian để Thérèse chuẩn bị đối phó chẳng còn bao lâu nữa!

Chú thích:

[2] Thuốc mê.

[3] Thạch tín

[4] Nhựa rễ cây phu tử, là một chất độc rất mạnh.