Thành Phố Dưới Băng
Ngày 10 Tháng Tư, 2001
Thành phố Blienos Aires, Argentina
Những chiếc limousine tạo thành một hình vòng cung dài trên con đường hình tròn trong sân Tòa Đại sứ Anh tại Buenos Aires. Quí bà trong bộ dạ phục khiêu vũ và quí ông trong áo đuôi tôm ra khỏi những chiếc xe màu đen dài ngoẵng và đi qua những cánh cửa bằng đồng cao để vào tiền sảnh. Tại đây, họ được ông Đại sứ Anh tại Argentina-Charles Lexington - và bà vợ Martha - một phụ nữ cao lớn trầm lặng - đón tiếp. Đây là một sự kiện trọng đại trong năm, là lễ kỷ niệm ngày Thái tử Charles đăng quang vì được Nữ hoàng Elizabeth nhường ngai vàng cho.
Giới thượng lưu của Argentina đều được mời và tất cả đều chấp nhận lời mời. Tổng thống, những lãnh tụ quốc hội, thị trưởng thành phố, những nhà tài chánh, những kỹ nghệ gia và những người nổi tiếng được kính trọng nhất đều tới tham dự. Họ vào phòng khiêu vũ, nơi có ban nhạc hòa tấu trong bộ lễ phục thế kỷ mười tám và bữa tiệc buffet xa hoa được những chuyên viên giỏi nhất đến từ Anh chuẩn bị cho sự kiện này.
Khi Karl Wolf và nhóm tùy tùng thường lệ là các cô em gái choán hết lối đi và vào căn phòng rộng thênh thang, họ không thể tránh khỏi mọi cặp mắt đổ dồn về phía họ của những người có mặt. Những gã cận vệ của Karl áp sát bọn họ trong mọi lúc. Vẫn giữ tập tục gia đình, tất cả những người phụ nữ lộng lẫy này đều mặc những bộ lễ phục được thiết kế giống hệt nhau, chỉ khác màu sắc. Sau khi được ông Đại sứ Anh chào đón, họ đi vào phòng khiêu vũ, vẻ rực rỡ của họ làm mọi phụ nữ có mặt đều ghen tị.
Karl được Geli, Maria và Luci, cùng chồng của họ hộ tống, ngoài ra còn có Elsie vừa từ Mỹ trở về. Trong lúc các cô em gái và chồng họ bắt đầu khiêu vũ theo điệu nhạc Cole Porter dồn dập, Karl đưa Elsie vào phòng đãi tiệc buffet. Họ dừng lại nửa chừng để nhận một cốc sâm banh từ những người hầu. Họ chọn những thức ăn ngoại quốc xa lạ rồi đi vào thư viện. Tại đây, họ tìm thấy một bàn trống với hai ghế bên cạnh một kệ sách cao từ sàn đến trần nhà.
Elsie vừa đưa cái nĩa với thứ phó mát hảo hạng lên miệng thì bàn tay cô ta bất chợt dừng lại nửa chừng, và trên nét mặt hiện ra vẻ không tin. Karl thấy rõ sự thay đổi đột ngột đó từ cô em họ, nhưng anh ta không quay đầu nhìn lui, thay vì vậy, anh ta bình thản chờ đợi một lời giải thích. Và lời giải thích đã đến với sự xuất hiện của một người đàn ông cao lớn, trông có vẻ thô bạo với một phụ nữ đáng yêu bên cạnh anh ta với mái tóc màu đỏ chảy xuống tới thắt lưng như một dòng thác. Người đàn ông mặc chiếc áo đuôi tôm màu mận chín. Người phụ nữ mặc một áo khoác bằng nhung màu đen bên ngoài một bộ áo váy dài tới mắt cá bằng lụa đen rất hợp với cái áo khoác. Một vòng đeo cổ bằng phalê trang điểm cho cái cổ thanh tú của cô.
Họ đến gần hai anh em Wolf và dừng lại. “Thật tuyệt diệu được gặp lại cô, Elsie”, Pitt nói với giọng thân thiện. Trước khi cô ta kịp trả lời, anh đã quay sang Karl. “Và ông là gã Karl Wolf bỉ ổi nhất tôi từng nghe nói rất nhiều phải không?” Anh dừng lại và quay sang Pat. “Tôi có thể giới thiệu Tiến sĩ O'Connell chứ?”
Wolf trừng mắt nhìn Pitt như một người thợ kim hoàn quan sát một viên kim cương trước khi nâng cái chày lên gõ vào cái nêm để chẻ viên đá quí. Dù anh ta chẳng có vẻ gì nhận ra Pat, nhưng Pat vẫn cảm nhận được cơn ớn lạnh đang chạy dọc sống lưng cô. Gã tỉ phú quá đẹp trai, nhưng ánh mắt vô cùng lạnh lẽo và đầy đe dọa. Có cái gì đó rất khô cứng trong con người anh ta gợi cho người khác cảm giác anh ta là một kẻ man rợ. Nếu anh ta có biết cô là ai, anh ta cũng không để lộ một dấu hiệu nhận biết khi nghe tên cô. Anh ta cũng chẳng bận tâm đến phép xã giao lịch sự là đứng lên khỏi cái ghế để chào một phụ nữ.
“Dù chúng ta chưa bao giờ được gặp nhau”, Pitt nói tiếp, vẫn tỏ ra thân thiện, tôi vẫn cảm thấy như thể tôi biết ông”.
“Tôi không biết ông là ai”, Wolf nói với một thứ tiếng Anh hoàn hảo, nhưng vẫn không giấu được âm sắc của các chủng tộc Đức.
“Tên tôi là Dirk Pitt”.
Trong một thoáng, có cái gì đó thật khó hiểu trong đôi mắt Wolf, rồi gương mặt anh ta dần dần lộ ra vẻ thù địch thực sự. “Ông là Dirk Pitt?”. Anh ta lạnh lùng hỏi.
“Không ai khác”, rồi anh mỉm cười với Elsie. “Cô có vẻ ngạc nhiên khi gặp tôi. Cô đã rời Washington thật đột ngột trước khi chúng ta có dịp trò chuyện lại một lần nữa”.
“Ông từ đâu đến?” Cô ta cáu kỉnh hỏi.
“Từ chiếc tàu Ulrich Wolf’, Pitt lịch sự trả lời. “Sau khi đánh một vòng quanh chiếc tàu đó, Pat và tôi thấy chúng tôi có mặt tại Buenos Aires và nghĩ là chúng tôi nên chào từ giã cô”.
Nếu cặp mắt cô ta là những tia laser thì chắc chắn Pitt đã bị đốt chín. “Rất tiếc chúng tôi đã không giết được các người”.
“Các vị cũng đã nỗ lực ghê gớm đấy chứ, chỉ có điều là chẳng ra gì”, Pitt thản nhiên đáp trả. “Tôi không khuyên các vị cố lặp lại chuyện đó, nhất là ngay trong Tòa Đại sứ Anh, trước tất cả những người danh giá này”.
“Lúc các người ra ngoài phố, ông Pitt, các người sẽ thuộc về đất nước của tôi, không phải của các người. Sẽ chẳng có cơ hội để các người tự bảo vệ đâu”.
“Đó là một ý nghĩ chẳng lành mạnh chút nào, Karl. Chắc ông không biết Hải quân Hoa Kỳ đã hộ tống chúng tôi tới đây đêm nay dưới sự bảo vệ của ngài Đại sứ Mỹ Jonh Horn”.
Một trong những gã cận vệ của Wolf đến gần họ như muốn tấn công Pitt, nhưng Giordino bất chợt xuất hiện từ phía sau rồi đứng chận trước mặt gã cận vệ, khóa hết mọi động tác của hắn. Tên cận vệ cân nặng hơn Giordino ít nhất cũng đến năm mươi cân Anh và cao hơn đến mười inch, nhìn xuống với vẻ sinh sự và nói, “Cái gì khiến mày nghĩ mày bảnh đến thế, thằng lùn?”
Giordino ngoác miệng cười khinh bỉ. “Mày có ngán không, khi tao bảo tao đã từng bẻ gãy cổ khoảng nửa tá những tên sâu mọt như mày?”
“Cậu ta không lừa phỉnh đâu”, Pitt nói.
Phản ứng của tên cận vệ thật thú vị. Hắn không biết phải nổi khùng hay thận trọng. Wolf đưa một bàn tay lên xua gã cận vệ. “Tôi có lời khen tất cả bọn ông đã thoát khỏi chiếc tàu Ulrich Wolf. Lực lượng an ninh của tôi tỏ ra quá yếu kém”.
“Không phải đâu”. Pitt trả lời, vẫn tỏ ra thân thiện. “Họ thật sự rất giỏi. Chúng tôi chỉ may mắn thôi”.
“Từ báo cáo nhận được, may mắn chẳng nhiều đâu đối với một hành động như thế”. Anh ta rời khỏi ghế ngồi và đứng đối diện với Pitt. Anh ta cao hơn hai inch và thích thú nhìn xuống cái gai của Tập đoàn Vận Hội đang đứng đó. Cặp mắt màu xanh xám của anh ta lấp lánh, nhưng hai ánh mắt dễ dàng bắt gặp ánh mắt đáp trả của Pitt đang tỏ ra thích thú hơn khi dò xét đối phương.
“Ông đã phạm một sai lầm đáng tiếc khi đối đầu với tôi, ông Pitt. Chắc chắn tới giờ phút này ông phải biết rõ là tôi đã được cống hiến cho việc sử dụng mọi phương tiện dưới sự chỉ huy của tôi để làm cho thế giới này trở nên thuần khiết và không hư hỏng như nó đã từng như thế từ chín ngàn năm trước”.
“Nhưng ông đã theo một đường lối lạ lùng để đạt mục đích đó”.
“Tại sao ông đến đây đêm nay?”
Pitt không nhân nhượng. “Tôi đã phải chịu quá nhiều chuyện phiền phức do gia đình ông gây ra, và tôi quyết định đến gặp gã đàn ông đang bày ra những mưu đồ nhằm làm chủ thế giới”.
“Và bây giờ ông đã gặp tôi?”
“Với tôi, có vẻ như ông đã lo lắng đến một sự kiện có thể chẳng bao giờ xảy ra. Làm sao ông có thể tin chắc một sao chổi chị em với sao chổi đã quét sạch người Amenes sẽ quay lại vào tháng sau và đâm vào Trái Đất chứ? Làm sao ông biết nó sẽ không trượt qua, khi nó làm điều đó?”
Wofl nhìn Pitt với ánh mắt dò hỏi rồi cười ma mãnh. Rõ ràng một kẻ giàu có và đầy quyền lực như anh ta được sinh ra là để người khác phải nể sợ, và anh ta không bao giờ hạ mình trước kẻ khác.
“Thảm họa sắp xảy ra sẽ là câu kết luận đã định sẵn. Thế giới theo cách hiểu của mọi sinh vật, sẽ không tồn tại lâu nữa. Trừ gia đình tôi, mọi người có mặt trong căn phòng này, kể cả ông, chắc chắn sẽ bị hủy diệt”. Anh ta cúi về phía trước với một nụ cười độc ác. “Nhưng tôi sợ, ông Pitt, rằng điều đó sẽ xảy ra sớm hơn ông nghĩ. Thời biểu đã định rồi, ông biết đấy. Giờ phút cuối cùng của Trái Đất... chính xác sẽ bắt đầu đúng bốn ngày và mười giờ nữa, kể từ lúc này”.
Pitt cố che giấu cú sốc. Không đầy năm ngày. Sao có thể chứ?
Pat không buồn che giấu sự thất vọng của cô. “Sao ông có thể làm chuyện này? ông đã gây bao nhiêu phiền phức để giữ bí mật chuyện đó mà?” Cô có vẻ bị xúc động mãnh liệt. “Tại sao ông không thông báo cho cả thế giới biết để mọi người có thể chuẩn bị cho bất cứ chuyện gì xảy ra? Ông và các cô em quí giá của ông không có lương tâm hay sao? Các người không có lòng trắc ẩn à? Cái chết của hàng tỉ đứa trẻ không dày vò các người sao. Các người đúng là những tên điên. Các người cũng xấu xa như tổ tiên các người đã từng tàn sát hàng triệu...”
Elsie bật đứng lên. “Sao cô dám xúc phạm anh tôi?” Cô ta gầm lên.
Pitt quàng cánh tay lên quanh hông Pat, “Đừng phí hơi cho những tên đốn mạt này”, anh nói, gương mặt đỏ bừng vì giận. Cuộc chạm trán trở nên căng thẳng. Nhưng anh không thể ngăn mình nói ra một nhận định. Anh nhìn Elsie và nói một cách thích thú với một nụ cười lạnh lùng. “Cô biết không, Elsie, tôi sẽ cá chuyện làm tình với cô và các chị em cô cũng chẳng khác gì làm tình với những pho tượng bằng băng”.
Elsie bước tới để tát Pitt, nhưng Pat cũng bước tới và giữ chặt cánh ta cô ta. Elsie giật tay ra và lùi lại, thực sự sốc vì có một kẻ không phải thành viên trong gia đình lại đối xử thô bạo với cô ta. Mất một lúc, cả hai người, Pitt và Wolf, nghĩ hai người đàn bà sẽ đi tới chỗ đánh nhau, nhưng Pat chỉ mỉm cười trịch thượng, rồi quay sang Pitt và Giordino. “Chán chết đi được. Tại sao không có người nào trong quí ông mời tôi khiêu vũ nhỉ?”
Pitt quyết định phải khôn ngoan hơn bằng cách tiếp tục moi thêm thông tin từ bọn Wolf trong lúc chúng lưu ý tới anh. Anh gật đầu cho Giordino. “Cậu mời cô ấy trước đi”.
“Rất vui lòng”, Giordino năm bàn tay Pat và đưa cô ra sàn nhảy, ở đây, ban nhạc đang chơi bản “Đêm và Ngày”.
Pitt nói với Karl Wolf, “Ông thật thông minh làm cho thời biểu xảy ra sớm hơn. Tại sao ông làm điều đó?”
“À, ông Pitt”, Wolf nói. “Tôi phải giữ kín vài bí mật của mình chứ”.
Pitt cố tìm cách khác. “Tôi thành thật khen ngợi ông về những chiếc tàu của ông. Đó là những tác phẩm bậc thầy về kiến trúc và xây dựng trong ngành hàng hải. Chỉ có thành phố biển Freedom được Norman Nixon xây dựng mới phần nào có thể so sánh với sự lộng lẫy của chúng”.
“Đúng thế”, Wolf tỏ ra thích thú. “Tôi phải thừa nhận rằng có nhiều phẩm chất của chiếc tàu Ulrich Wolf đã được mô phỏng từ công trình của Norman Nixon”.
“Ông thực sự nghĩ những chiếc tàu đồ sộ đó sẽ có thể ra biển nhờ những đợt sóng thủy triều khổng lồ?”
“Những kỹ sư của tôi đã cam đoan với tôi những tính toán của họ hoàn toàn chính xác”.
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ nhầm?”
Biểu cảm trên mặt Wolf cho thấy chưa bao giờ anh ta nghĩ tới điều đó. “Thảm họa sẽ phải xảy ra, chính xác như tôi nói nó phải như vậy, và những chiếc tàu của tôi sẽ an toàn”.
“Tôi không tin là tôi muốn bị trôi giạt sau khi Trái Đất bị phá hủy và hầu hết nhân loại và thú vật bị tuyệt chủng”.
“Đó là điểm khác nhau giữa ông và tôi, ông Pitt. Ông xem chuyện đó là kết thúc. Tôi xem nó như một khởi đầu đầy dũng cảm. Nào, chúc ngủ ngon. Chỗ tôi còn nhiều việc phải làm”. Và anh ta đỡ cô em họ lên, và ra ngoài.
Pitt chỉ muốn tin Wolf là một gã điên, nhưng tham vọng của anh ta hoàn toàn tương đồng và vượt xa sự cuồng tín đơn thuần. Pitt vẫn đứng đó với cảm giác nặng nề. Một người đàn ông thông minh như thế sẽ không xây dựng một đế quốc trị giá nhiều tỉ đô la để ném vào một dự án không thực tế. Phải có một lý do chính đáng nào đó được che giấu, một lý do rất khủng khiếp nếu bị lộ ra. Nhưng đó là cái gì? Theo thời gian biểu riêng của Wolf thì lúc này Pitt chỉ còn bốn ngày và mười giờ để tìm ra câu trả lời. Và tại sao Wolf lại báo trước hạn định cuối cùng? Có vẻ như anh ta bất chấp chuyện Pitt biết điều đó. Phải chăng anh ta chỉ đơn giản nghĩ chuyện đó không thành vấn đề nữa, và bất kỳ người nào cũng không thể làm gì khác? Hoặc còn một lý do khác nào đó trong cái đầu lươn lẹo của anh ta?
Pitt quay người bước đi. Anh đến quầy rượu và yêu cầu một ly anego, một trăm phần trăm chất rượu làm từ cây tequila mọc trên đá của Mexico. Ông Đại sứ Horn bước đến và đứng bên anh. Ông ta là một người nhỏ con, tóc màu sáng, có ánh mắt của một con diều hâu đang đảo quanh một khu rừng để khoe khoang uy lực của mình hơn là tìm một bữa ăn.
“Cậu với Karl Wolf đạt được những gì rồi?” ông ta hỏi.
“Không tốt lắm”, Pitt trả lời. “Trong đầu hắn nuôi ý nghĩ hắn đang thực hiện công việc của Chúa, còn tôi thì chưa bao giờ học được thói quỵ lụy”.
“Hắn là một người kỳ lạ. Những người tôi quen biết không ai có thể gần gũi hắn. Và rõ ràng không có chỉ dẫn nào cho thấy tại sao hắn tin câu chuyện điên rồ về sự chấm dứt của thế giới. Tôi nói chuyện này với các đồng sự của tôi ở đây và tại Washington, và họ bảo hoàn toàn chẳng có bằng chứng nào về một sự cố như vậy sẽ xảy ra, ít nhất cho tới lúc này”.
“Ông biết rõ hắn chứ?”
“Không nhiều lắm. Chỉ từ những gì tôi đọc được trong các phúc trình về an ninh. Ông nội hắn là một lãnh tụ cao cấp trong Đệ Tam Quốc xã đã trốn khỏi nước Đức khi chiến tranh kết thúc. Ông ta tới đây với gia đình và một nhóm những bạn bè nối khố trong Đệ Tam Quốc xã, mang theo những nhà khoa học và các kỹ sư hàng đầu. Chẳng bao lâu sau khi tới Argentina, họ thành lập một tập đoàn tài chánh khổng lồ trong thời gian không đầy hai năm, mua và điều hành những nông trại và đồn điền rộng nhất, những ngân hàng và đoàn thể trong đất nước này. Một khi quyền lực cơ bản của họ đã vững chắc, họ mở chi nhánh rộng khắp thế giới về tất cả mọi ngành, từ hóa học đến điện tử. Người ta chỉ có thể suy đoán nguồn gốc tiền bạc của họ đến từ đâu. Theo dư luận, đó là những số vàng trong những kho tàng Đức và những tài sản lấy cắp của người Do Thái bị giết trong những trại tập trung. Dù có nguồn gốc là gì, thì những của cải đó vẫn là một con số khổng lồ xuất hiện trong một thời gian ngắn”.
“Ông có thể cho tôi biết về gia đình đó không?”.
Ông Horn dừng lại để yêu cầu một ly martini từ người pha rượu. “Hầu hết là từ dư luận. Những bạn bè người Argentina của tôi bắt đầu hạ thấp giọng khi có thành viên nào của gia tộc Wolf xuất hiện lúc họ đang bàn tán về gia tộc này. Người ta thuật lại rằng Tiến sĩ Josef Mengele, “Tử thần” tại Auschwitz, có liên quan với dòng họ Wolf cho tới khi ông ta mất mấy năm trước đây. Tôi thừa nhận những câu chuyện như thế có vẻ lạ lùng. Nhưng họ đồn Mengele vẫn tiếp tục làm những thí nghiệm về gen của ông ta, đã làm việc với thế hệ thứ nhất của dòng họ Wolf trong việc sản xuất những hậu duệ có đầu óc thông minh xuất chúng và một cơ thể mang đặc tính của một lực sĩ điền kinh. Những đứa trẻ này sau đó lại sản xuất một thế hệ mới, thậm chí còn hoàn chỉnh hơn mà ông đã thấy trong thế hệ thứ ba của gia tộc Wolf, như Karl và những cô em gái của hắn. Tất cả giống nhau một cách kỳ lạ, anh em ruột cũng như anh em họ. Họ đồn rằng những hậu duệ này là do Mengele đã lấy tinh dịch của Hitler-được mang lậu ra khỏi Berlin trong những giờ cuối cùng của cuộc chiến- để thụ tinh những phụ nữ trong dòng tộc Wolf’.
“Ông tin tất cả những chuyện đó?” Pitt hỏi.
“Thực tình tôi không muốn tin”, ông Horn nói sau khi hớp một ngụm martini. “Tình báo Anh im lặng trong câu chuyện này. Nhưng viên sĩ quan tình báo trong đại sứ quán của tôi Major Steve Miller, đã dùng một máy vi tính so sánh những tấm ảnh của Hitler với những tấm ảnh của dòng họ Wolf. Thật ghê tởm, đúng như tin đồn, trừ màu tóc và màu mắt, những khuôn mặt giống nhau một cách kỳ lạ về cấu trúc”.
Pitt đứng thẳng lên và đưa bàn tay ra. “Thưa Đại sứ, tôi không thể nói hết lòng chân thành biết ơn lời mời và sự bảo vệ của ông dành cho tôi. Đến Buenos Aires đúng là một hành động liều lĩnh, và ông phải mất nhiều thì giờ giúp tôi gặp Karl Wolf”.
Ông Horn siết chặt bàn tay Pitt. “Chúng ta may mắn vì gia đình Wolf đã tới dự lễ hội. Nhưng tôi phải nói với ông rằng sự thú vị đích thực của tôi chính là được thấy ai đó đã tống cổ gã kiêu hãnh ra khỏi nơi này. Vì là một nhà ngoại giao, nên tôi không thể đích thân làm điều đó”.
“Hắn tuyên bố một cách xác định thời điểm xảy ra tai họa, chỉ còn bốn ngày nữa. Tôi nghĩ bọn chúng sẽ chuẩn bị việc lên những chiếc tàu khổng lồ đó rất chóng thôi”.
“Thật ư? Thật buồn cười”, ông Horn nói. “Một nguồn tin có thẩm quyền cho tôi biết Karl đã ấn định thời biểu thực hiện một chuyến kiểm tra những cơ xưởng khai thác kim loại của hắn tại Nam Cực vào ngày mốt”.
Đôi mắt Pitt nhíu lại. “Hắn lại rút ngắn thời gian”.
“Dự án của hắn luôn luôn có điều gì đó được giấu kín. Theo chỗ tôi biết, CIA chưa bao giờ cài được người vào nội bộ của hắn”.
Pitt mỉm cười. “Chắc chắn là ông luôn cập nhật những vấn đề tình báo, thưa Đại sứ”.
Ông Horn nhún vai. “Phải trả tiền để người ta đặt mấy ngón tay vào cái bánh chứ”.
Pitt lắc chất tequila trong cái ly của anh, và thứ chất lỏng quay tròn cùng những viên đá, với vẻ nghĩ ngợi. Có cái gì quan trọng tại Nam Cực đến nỗi khiến bọn Wolf phải lặn lội tới đó, anh tự hỏi. Với anh, đáng lẽ gã lãnh tụ mới của Đệ Tứ Đế chế phải bay tới hạm đội của y để chuẩn bị cho sự cố trọng đại thay vì mò tới vùng địa cực. Để tới đó và trở về, ít nhất y phải mất hai ngày. Điều đó không thích hợp.
Hôm sau, hai mươi bảy trong số hai trăm thành viên của triều đại Wolf, những kẻ thống trị chủ chốt của Tập đoàn Vận Hội và viên kiến trúc sư trưởng của Đệ Tứ Đế quốc gặp nhau tại trụ sở của tập đoàn. Họ tập trung tại phòng họp rộng lớn với những bức tường dán gỗ sồi và cái bàn họp dài bốn chục bộ cũng bằng gỗ sồi được chạm trổ cầu kỳ. Một bức tranh sơn dầu lớn vẽ chiếc tàu Ulrich Wolf treo phía trên bệ một lò sưởi nằm ở cuối phòng. Vị tộc trưởng của dòng họ đứng thẳng một cách cứng nhắc trong bộ đồng phục đen của SS, cằm nhô ra, đôi mắt màu đen đang nhìn về phía chân trời nằm ngoài bức tranh.
Mười hai phụ nữ và mười lăm đàn ông kiên nhẫn chờ đợi trong lúc được phục vụ thứ rượu đã ủ từ năm mươi năm trong những cái ly thủy tinh. Đúng mười giờ, Karl Wolf từ dãy phòng dành cho vị chủ tịch bước vào và ngồi vào cái ghế dành cho anh ta tại đầu bàn. Mất một lúc, anh ta nhìn qua những gương mặt của các em trai và em gái, và anh chị em họ đang ngồi chờ đợi quanh cái bàn. Bố anh ta, ông Max Wolf, ngồi bên tay trái con trai. Bruno Wolf bên phải. Đôi môi Karl phảng phất một nụ cười nhẹ, và anh ta đang trong trạng thái vui vẻ.
“Trước khi chúng ta bắt đầu lần họp cuối cùng trong văn phòng của Tập đoàn Vận Hội tại thành phố Buenos Aires thân yêu của chúng ta, tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ của tôi về cách thức các anh chị em và những người thân yêu của mình đã hoàn thành mĩ mãn trong một thời gian rất ngắn. Mọi thành viên trong tộc Wolf đã hoạt động vượt cả sự mong đợi và tất cả chúng ta nên hãnh diện vì không một ai trễ kì hạn”.
“Hoan hô, hoan hô”, Bruno reo lớn. Lời ca tụng thốt ra cùng lúc một tràng vỗ tay vang dội khắp phòng họp.
“Nếu không có sự lãnh đạo của con trai ta”, Max Wolf tuyên bố, “cuộc thập tự chinh vĩ đại được các ông nội các con nghĩ ra sẽ không bao giờ hoàn thành trọn vẹn. Ta hãnh diện vì sự đóng góp to lớn của các con cho trật tự của thế giới mới sắp đến và làm phấn chấn gia tộc chúng ta với dòng máu của Fuhrer chảy trong huyết quản các con, hiện đang bắt đầu làm cho Đệ Tứ Quốc xã trở thành sự thật”.
Lại một tràng pháo tay ầm ĩ. Đối với một người lạ thì, trừ Max Wolf, tất cả những thành viên khác trong phòng đều có vẻ như được sinh sản bằng phương pháp vô tính. Cũng những gương mặt như thế, cũng một cách cấu trúc cơ thể giống nhau, mắt và tóc... Và căn phòng họp như trở thành một căn phòng của những gương soi.
Karl liếc mắt về phía Bruno, “Những người không có mặt ở đây hôm nay đều đang có phận sự trên tàu Ulrich Wolf phải không?”
Bruno gật đầu. “Mọi thành viên gia đình đều đã sẵn sàng tại nơi ở của họ”.
“Còn những chuyên viên và thiết bị?”
Wilhelm Wolf đưa tay lên, rồi báo cáo, “Những kiện lương thực đã được đóng gói và nhập kho trên cả bốn chiếc tàu. Tất cả chuyên viên cũng đã lên tàu và được kiểm soát. Mọi loại thiết bị và mọi hệ thống điện tử đã được kiểm tra nhiều lần, chúng đều hoạt động hoàn hảo. Không thứ gì bị bỏ sót hoặc không được xem xét kỹ. Mọi tình huống bất ngờ đều được để mắt tới và được luân phiên kiểm tra. Những chiếc tàu đều hoàn toàn sẵn sàng. Trước sự tấn công của những đợt sóng thủy triều thậm chí dữ dội nhất đã được những máy vi tính của chúng ta dự báo. Tất cả những gì còn lại là mọi người có mặt ở đây - những người lên tàu cuối cùng - sẽ bay tới chiếc Ulrich Wolf và chờ đợi phục sinh”.
Karl mỉm cười, “Các anh chị em sẽ đi trước mà không có tôi. Tôi sẽ theo sau. Có lời chỉ trích tôi đã lơ là công việc chuẩn bị cuối cùng tại khu khai mỏ của chúng ta trong vịnh Okuma”.
“Anh không được đến trễ đấy”, Elsie nói và mỉm cười. “Nếu không, bọn em sẽ dong buồm không có anh”.
Karl phì cười, “Đừng lo, em gái yêu mến. Anh không có ý định trễ tàu đâu”.
Rosa đưa bàn tay lên. “Liệu mụ khoa học gia người Mỹ đó đã giải mã những chữ khắc của người Amenes trước khi thoát khỏi chiếc tàu không?”
Karl lắc đầu, “Thật không may, bất kỳ thông tin nào mụ ta khám phá được đều bị mụ ta mang theo”.
“Người của ta không thể lấy lại sao?” Bruno hỏi.
“Tôi e rằng không. Mụ được tòa đại sứ Mỹ bảo vệ chặt chẽ. Cho tới lúc chúng ta nghĩ ra một kế hoạch để tóm mụ một lần nữa thì quá trễ. Thời hạn chót chẳng còn bao lâu nữa”.
Albert Wolf, nhà cổ tự học của gia tộc, cũng là một chuyên gia về những môi trường cổ và hậu quả của chúng trên các loài thảo mộc thời nguyên thủy, đưa tay để phát biểu, “Sẽ lợi vô cùng khi hiểu được những ghi chép do những người đã sống sót sau thảm họa đã qua để lại, nhưng tôi tin những máy vi tính của chúng ta sẽ cung cấp cho chúng ta một bức tranh hoàn toàn chính xác về những gì chúng ta chờ đợi”.
“Một khi những chiếc tàu đã ra khơi”, Elsie nói, “việc đầu tiên chúng ta cần làm ngay là phải giữ cho các chủng thảo mộc không bị ô uế bởi tro, những loại khí từ núi lửa và khói”.
“Cô có thể an tâm về chuyện này, cô em họ thân mến”, Bernd Wolf, chuyên gia xây dựng của gia tộc, nói, “bên trong chiếc tàu được thiết kế để trở nên hoàn toàn kín hơi chỉ trong vài giây. Sau đó, bộ phận lọc không khí sẽ hoạt động. Mọi hệ thống đã được kiểm nghiệm chính xác và chứng tỏ hiệu quả một trăm phần trăm. Chúng ta đã tạo được một bầu khí quyển tinh khiết, có thể thở được trong một thời gian dài”.
“Chúng ta đã quyết định sẽ đổ bộ tại miền nào trên Trái Đất sau khi mọi sự đã an toàn để chúng ta làm điều đó?” Maria Wolf hỏi.
“Chúng ta vẫn đang trong quá trình góp nhặt những dữ liệu và tính toán phương hướng”, Albert trả lời. “Chúng ta phải biết chính xác thảm họa xảy ra như thế nào và những đợt sóng thần sẽ làm thay đổi các bờ biển trên Trái Đất ra sao. Hầu như chắc chắn đó là một vấn đề phân tích tình thế sau khi chấm dứt những biến động”.
Karl nhìn những kẻ ruột thịt của mình. “Tất cả sẽ tùy thuộc vào sự biến đổi địa hình như thế nào. Châu Âu có thể bị ngập lụt kéo dài tới rặng núi Urals của Nga. Nước có thể tràn khắp sa mạc Sahara. Băng sẽ phủ kín Canada và Hoa Kỳ. Ưu tiên số một của chúng ta là sống sót sau sự tàn phá và kiên nhẫn chờ đợi trước khi quyết định sẽ xây dựng một thành phố tổng hành dinh cho thế giới mới của chúng ta”.
“Chúng ta sẽ có nhiều vị trí được xem xét”, Wilhelm nói. “Điều phải xem xét đầu tiên là một hải cảng, như San Francisco chẳng hạn, ở đó chúng ta có thể neo tàu, tốt hơn nữa nếu đó là một vùng các bình nguyên gần nhau và tiếp nối nhau, để trồng trọt mùa màng và lập vườn cây ăn quả, và là một vùng trung tâm để việc vận chuyển được dễ dàng và truyền bá quyền lợi chúng ta ra khắp thế giới mới. Tất cả sẽ tùy thuộc phạm vi thảm họa”.
“Chúng ta có ý kiến gì về thời gian sẽ lưu lại trên tàu lâu trước khi có thể mạo hiểm lên bờ không?” Gerda Wolf hỏi. Cô ta là chuyên gia về giáo dục và là người được chọn để quản lý hệ thống trường học trên hạm đội.
Albert nhìn cô ta và mỉm cười. “Chắc chắn là không lâu hơn điều kiện bắt buộc, em gái ạ. Có thể nhiều năm, nhưng chúng ta không có cách nào tiên liệu chính xác chúng ta phải mất bao nhiêu ngày tháng trước khi có thể an toàn bắt đầu cuộc chinh phục của chúng ta trên đất liền”.
“Còn những người sống sót trên những vùng cao?” Maria thắc mắc. “Chúng ta sẽ đối xử thế nào với họ?”
“Số đó sẽ chẳng bao nhiêu”, Bruno trả lời. “Những người chúng ta có thể tìm thấy và tóm bắt sẽ được bố trí tại những nơi an toàn để đối phó bằng cách tốt nhất có thể”.
“Chúng ta sẽ không giúp đỡ họ sao?”
Bruno lắc đầu. “Chúng ta không thể để hao hụt thực phẩm trước khi người của chúng ta có cơ hội tiếp tục sống nhờ đất”.
“Không sớm thì muộn, trừ những người của Đệ Tứ Quốc xã chúng ta”, ông già Max nói, “số nhân loại còn lại sẽ tuyệt chủng. Những người thích nghi nhất sẽ sinh tồn. Đó là luật tiến hóa. Điều này đã được Fuhrer quy định, người đã dạy rằng một chủng tộc ưu tú sẽ thống trị thế giới một ngày nào đó. Và chúng ta là chủng tộc ưu tú đó”.
“Chúng ta hãy thành thực, thưa bác”, Felix Wolf nói. “Chúng ta không phải là những đảng viên Quốc xã cuồng tín. Đảng Quốc xã Đức đã chết với những ông nội của chúng cháu. Thế hệ chúng cháu tôn kính Adolf Hitler vì những tiên kiến của người. Nhưng chúng cháu không thờ phụng chữ vạn hoặc hô lớn
“Nói thật hay”, Otto Wolf lên tiếng, sau khi ngồi im suốt buổi họp. “Felix đã tóm tắt thật hùng biện mục đích và cam kết của chúng ta. Giờ đây, tất cả những gì còn lại là thực hiện thành công vấn đề trọng đại của chúng ta”.
Im lặng một lúc. Rồi Karl nắm hai bàn tay lại và chậm rãi nói, “Không gì thú vị hơn khi được nhìn thấy những điều kiện quanh chúng ta vào thời gian này năm sau. Đó thực sự là một thế giới mà những kẻ sắp chết trong những ngày sắp tới không thể nào hình dung nổi”.
Một chiếc xe nhỏ được trùm kín mít, sơn màu trắng, không có logo hoặc hình quảng cáo nào bên hông, ầm ầm chạy qua phòng đưa đón khách tại sân bay thành phố nằm trong thủ đô Buenos Aires, rồi dừng lại dưới bóng râm của nhà chứa máy bay chính. Sân bay này thường phục vụ những chuyến bay nội địa của Argentina, kể cả những chuyến bay tới Paraguay, Chi Lê và Uruguay. Có vẻ như chẳng có công nhân hàng không nào chú ý tới một chiếc phản lực nhỏ, màu ngọc lam, với dòng chữ NUMA thật bự trên thân của nó, lúc nó đáp xuống và chạy về phía nhà chứa máy bay nơi chiếc xe tải chờ sẵn.
Ba người đàn ông và một phụ nữ bước qua cửa dành cho hành khách và đi xuống nền bê-tông nóng hừng hực dưới ánh mặt trời giữa trưa. Đến lúc gần tới của văn phòng của nhà chứa máy bay, họ nhìn quanh rồi đi về phía chiếc xe tải. Lúc họ còn cách ba chục bộ, cửa sau xe tải mở ra và bốn lính thủy Mỹ trong quân phục tác chiến nhảy xuống đất và đứng thành một vành đai quanh xe tải. Sau đó, viên trung sĩ chỉ huy giúp Nữ Dân biểu Smith, Đô đốc Sandecker, Hiram Yaeger và một người đàn ông thứ ba vào chiếc xe tải trước khi đóng cửa lại.
Bên trong xe tải là một văn phòng vừa là một trạm chỉ huy được bố trí thật tiện nghi. Đó là một trong năm mươi phương tiện đặc biệt dành cho Đại sứ quán Mỹ trên khắp thế giới, được dùng để bảo vệ và giúp đỡ những thành viên của tòa đại sứ thoát khỏi vòng vây trong trường hợp bị tấn công như bắt cóc hay bị dùng làm con tin, tại Iran Tháng Mười Một 1979.
Pitt bước lại và ôm hôn Loren Smith là người lên xe sớm nhất. “Sinh vật lộng lẫy này, tôi đâu có chờ cô ở đây chứ”.
Tiến sĩ Pat O’Connell cảm thấy đau nhói vì ghen tị khi nhìn thấy Loren trong vòng tay Pitt. Cô nữ dân biểu bang Colorado quả thật trông hấp dẫn hơn nhiều so với hình ảnh nhà cổ tự học đã tưởng tượng.
“Ngài Đô đốc yêu cầu em đến, và thế là em có mặt ở đây, thậm chí dù thời gian em có mặt chỉ kéo dài vài giờ”.
“Tiếc nhỉ”, anh thành thực nói. “Chúng ta lại phải rời Buenos Aires”.
“Em thích như thế”, giọng Loren khô như trấu. Rồi cô nhìn thấy Giordino. “Al, gặp anh thích thật.”
Anh chàng mổ nhẹ lên má cô. “Luôn luôn có cảm giác vui khi thấy chính phủ của tôi bận bịu công việc”.
Ông Sandecker bước lên, Yaeger và người đàn ông lạ mặt theo sau. Ông chỉ gật đều với Pitt và Giordino, rồi bước thẳng tới Pat O’Connell, “Bà không biết tôi hạnh phúc biết chừng nào khi lại được bắt tay bà, thưa Tiến sĩ”.
“Ngài không biết tôi sung sướng biết chừng nào khi được tới đây”, cô nói và hôn lên trán ông già trong sự lúng túng của ông. “Con gái tôi và tôi mang ơn ngài rất nhiều vì đã phái Dirk và Al đến cứu chúng tôi”.
“Tôi đâu có phái họ đi”, ông nói với giọng hài hước. “Họ tự động đi đấy chứ”.
Yaeger vồn vã chào đón những ông bạn cũ, và Pat vừa được giới thiệu với Loren lần đầu. Sau đó ông Sandecker giới thiệu Tiến sĩ Timothy Friend. “Tim là một bạn nối khố của tôi lúc còn học với nhau. Ông ấy đã cứu tôi thoát khỏi những bài toán đại số trong trường cấp ba. Khi tôi vào học tại Viện Hải quân, ông ấy đến đại học Colorado để học môn địa vật lý học. Chưa hài lòng, ông ấy đã lấy bằng tiến sĩ môn thiên văn học tại Stanford và trở thành một trong những nhà thiên văn học đáng kính nhất của đất nước. Ông ấy hiện đang đảm nhiệm chức vụ Giám đốc Phòng Thí nghiệm Chiến lược Máy vi tính và Mô phỏng của chính phủ. Tim là một phù thủy về kỹ thuật đổi mới những phương tiện nhìn”.
Cái đầu hói của ông Friend được mớ tóc màu xám trắng bọc thành một vòng tròn, giống như một bầy cá trắng bơi quanh một chùm san hô. Đó là một người đàn ông thấp bé, ông ta phải hơi hất đầu về phía sau để nhìn lên hai người phụ nữ rõ ràng cao hơn ông ta nhiều. Giordino đứng cao năm bộ tư, là người duy nhất ông ta có thể nhìn thẳng vào mắt. Là một người điềm tĩnh trong số bạn bè, ông trở nên thân thiện và sống động khi diễn giảng trước sinh viên, các giám đốc cơ sở hoặc những viên chức cao cấp của chính phủ. Người ta dễ dàng nhận thấy ông là một thiên tài trong lĩnh vực của mình.
“Mọi người ngồi xuống đi chứ”, Pitt nói và chỉ vào những cái ghế và sofa bọc da rất tiện nghi được xếp thành một hình vuông giữa khoang chứa hàng của chiếc xe tải. Khi mọi người đã ngồi vào chỗ, một nhóm nhân viên của tòa đại sứ phục vụ cà phê và bánh mì sandwich lấy từ gian bếp nhỏ sau buồng lái.
“Loren đã tới Argentina”, ông Sandecker nói không cần lịch sự rào đón. “Cô ấy và các phụ tá điều tra về Tập đoàn Vận Hội và đã thu thập vài thông tin thú vị”.
“Những gì tôi tìm hiểu được trong hai ngày qua thực sự đáng lo âu”, Loren bắt đầu. “Rất lặng lẽ, được giấu kín hết sức lạ lùng, gia tộc Wolf và Tập đoàn Vận Hội đã bán hết mọi cơ sở kinh doanh, tất cả cổ phần của họ trong nước cũng như trên thế giới, mọi công ty tài chính, mọi hợp đồng, mọi cổ phiếu, mọi bất động sản kể cả những thứ đồ gỗ gia dụng. Tất cả các trương mục ngân hàng đều được thanh toán. Hàng tỉ đô la được đổi thành vàng thỏi và được chở tới một địa điểm bí mật...”
“Số vàng đó đã nằm trong những khoang chứa của những chiếc tàu khổng lồ của chúng”, Pitt xác nhận.
“Có vẻ như toàn bộ gia tộc gồm hai trăm thành viên không xuất hiện nữa”.
“Chúng không phải là những kẻ ngốc nghếch”, Pitt nói quả quyết. “Tôi không thể tin là chúng phán đoán nhầm lẫn. Nếu thế, sẽ có chuyện sao chổi đâm vào Trái Đất? Có hay không có chuyện đó chứ?”
“Vì lý do đó mà tôi mời Tim tới đây” ông Đô đốc giải thích.
Tiến sĩ Friend lấy ra nhiều xấp giấy nhỏ và đặt lên cái bàn giữa những cái ghế và sôpha. Ông cầm xấp đầu tiên lên và lật từng trang trước khi tham cứu những ghi chép của mình. “Trước khi tôi trả lời về điều đó, cho phép tôi trở lại quá khứ một chút, như thể quí vị có thể hiểu được những gì gia tộc Wolf đã chuẩn bị. Tôi nghĩ tốt nhất nên bắt đầu với chuyện sao chổi va chạm Trái Đất vào thời điểm khoảng bảy ngàn năm trước Công nguyên. Thật may, đây không phải là một sự cố xảy ra trên những cơ sở bình thường. Dù Trái Đất bị va chạm hằng ngày bởi những mảnh nhỏ của các tiểu hành tinh không lớn hơn một nắm tay và bị cháy tiêu trong lúc xâm nhập bầu khí quyển. Trong nhiều thế kỷ, có một tiểu hành tinh đã đâm nhập vào Trái Đất tạo
ra một miệng hố hình phễu với đường kính rộng một trăm năm chục bộ tại Window, bang Arizona. Một tiểu hành tinh khác đã nổ tung trước khi đâm vào Siberia năm 1908, khoét một cái hố tám trăm dặm vuông. Cứ mỗi một triệu năm, một tiểu hành tinh rộng khoảng nửa dặm lại đâm vào Trái Đất với sức mạnh của một trái bom nguyên tử. Đều đặn cứ trên hai ngàn năm lại xảy ra chuyện những tên lửa khổng lồ đẹp đẽ đó lại xuyên qua quĩ đạo của chúng ta theo một lộ trình không đổi”.
“Đúng là một bức tranh ảm đạm”, Pat nói.
“Xin đừng mất ngủ vì chuyện đó”, ông Friend nói và mỉm cười. “Trong hai mươi ngàn lần xảy ra sự va chạm của các tiểu hành tinh vào Trái Đất, chỉ có một lần có thể va trúng ai đó. Tuy nhiên chúng ta không thể tính tới khả năng hợp lý, rằng đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi sự may mắn rời bỏ chúng ta”.
Pitt rót một tách cà phê, “tôi nghĩ ông ta đang muốn nói tới một vụ nổ thực sự khủng khiếp”.
“Đúng vậy”, ông Friend gật đầu xác nhận. “Cứ mỗi một trăm triệu năm mới có một tiểu hành tinh hoặc sao chổi khổng lồ va chạm Trái Đất, như vụ va chạm ngoài khơi Yucatan sáu mươi lăm triệu năm trước và làm tuyệt chủng loài khủng long. Sự va đụng này đến từ một vật thể khổng lồ có đường kính sáu dặm để lại một hố hình phễu rộng một trăm hai mươi dặm”.
Ông Friend dừng lại để lướt qua tờ giấy trước khi tiếp tục. “Tiểu hành tinh đó nhỏ hơn sao chổi đâm vào Trái Đất chín ngàn năm trước. Máy vi tính hiện đại của chúng ta cho biết nó có đường kính gần mười hai dặm và lao vào vịnh Hudson của Canada. Nó hủy diệt gần chín mươi phần trăm mọi loài thực vật và động vật sống trên hành tinh, gây thiệt hại nhiều hơn hai mươi phần trăm so với tiểu hành tinh đã tiêu diệt loài khủng long sáu mươi lăm triệu năm trước đó”.
Loren nhìn ông Friend với sự quan tâm gần như say mê. “Một loạt những phản ứng như thế thuộc loại thảm họa nào?”
“Hãy hình dung cô cầm một vật thể có đường kính mười dặm nặng khoảng nhiều tỉ tấn, rồi ném nó qua chân không vào một quả bóng mềm khổng lồ với vận tốc một trăm ba mươi ngàn dặm mỗi giờ, và gây ra một tiếng nổ khủng khiếp vượt khỏi sức tưởng tượng của cô. Có lẽ Trái Đất lúc đó phát ra âm thanh như một cái chuông vì sự chấn động do va chạm gây ra được lan truyền khắp mọi ngõ ngách. Sử dụng máy vi tính và những kỹ thuật nhìn bằng những thiết bị hiện đại và rất phức tạp mà tôi phải mất tới hai giờ để giải thích, chúng ta biết được sao chổi đến theo một góc độ và đâm thẳng vào khu vực đông nam Vịnh Hudson, nổ tung và tạo ra một hố hình phễu có đường kính hai trăm ba mươi dặm, hoặc hai lần nhiều hơn kích thước đảo Hawaỉi. Toàn bộ khối nước trong vịnh bị bốc hơi, trong lúc sao chổi khổng lồ đó chui xuống vỏ Trái Đất sâu tới hai dặm. Các phi hành gia đã chụp được những tấm ảnh cho thấy trọn miền địa cầu đó, nơi những phần của hình phễu không bị chìm dưới nước tạo thành một bờ biển dài hình tròn.
“Vì sao ông biết đó là một sao chổi mà không phải một tiểu hành tinh hoặc thiên thạch?” Yaeger hỏi.
“Một tiểu hành tinh là một khối vật chất nhỏ hoặc một hành tinh nhỏ lang thang trong hệ thống mặt trời và chuyển động theo quĩ đạo quanh mặt trời. Một số tiểu hành tinh rất giàu carbon. Những tiểu hành tinh khác chứa các khoáng chất giàu sắt, Silicon và những chất khoáng khác. Còn những thiên thạch phần lớn chỉ là những mảnh nhỏ hơn từ những tiểu hành tinh va đụng nhau và vỡ ra. Mảnh lớn nhất được tìm thấy chỉ nặng bảy chục tấn. Một sao chổi thì hoàn toàn khác. Nó thường được gọi là một quả bóng tuyết bẩn được tạo thành từ băng, các thứ khí và đá nhỏ như bụi. Chúng thường di chuyển trong những quĩ đạo dài hình bầu dục trên mép ngoài của hệ thống mặt trời và thường vượt ra xa hơn. Vì sự tác động qua lại của trọng lực từ mặt trời và các hành tinh, vài sao chổi bị lệch hướng và di chuyển theo quĩ đạo quanh mặt trời. Khi chúng đến gần mặt trời, bề mặt băng của sao chổi bốc hơi và tạo ra một cái đuôi hình nón kéo dài về phía sau rất đẹp. Người ta thường nghĩ chúng là những vật chất thừa còn sót lại từ việc thành lập các hành tinh. Bằng cách khoan rồi phân tích hợp chất từ những mảnh vụn được tìm thấy trong và chung quanh hình phễu Vịnh Hudson, các nhà địa vật lý học phát hiện những phần tử cực nhỏ mà họ cho là một phần của sao chổi đã đâm vào Trái Đất bảy ngàn năm trước Công nguyên. Những xét nghiệm cho thấy không có dấu hiệu nào của các chất khoáng thông thường và những kim loại có liên hệ với những tiểu hành tinh”.
“Vây là đã có vụ va đụng”, ông Sandecker nói. “Rồi chuyện gì xảy ra sau đó?”
“Một hình nón ngược không thể đo được gồm đá nóng đỏ, hơi nước, bụi và những mảnh vụn bốc lên và vượt khỏi tầng khí quyển, rồỉ tất cả rơi trở lại mặt đất trong một trận mưa giận dữ, đốt cháy vô số khu rừng trên Trái Đất. Những khối khổng lồ gồm lưu huỳnh, khí nitrogen bị cháy và những lượng cực lớn chất fluoride bị bắn vào bầu khí quyển. Tầng ozone bị phá vỡ, băng tuyết tan chảy, những trận lốc quét qua mặt đất và biển. Người ta phỏng tính những đám mây bẩn và khói phải kéo dài không ít hơn mười bốn tháng. Chỉ riêng những thứ này cũng đã tiêu diệt hầu hết sự sống trên Trái Đất và hủy hoại dây chuyền thực phẩm”.
“Chỉ hình dung thôi cũng quá khủng khiếp rồi”, Loren nói.
Ông Friend mỉm cười rồi tiếp tục. “Thật đáng thương, đó mới chỉ là giai đoạn khởi đầu. Vì Vịnh Hudson mở ra Đại Tây Dương, những đợt sóng cao đến bảy hoặc tám dặm được hình thành và tràn qua những vùng đất thấp. Bang Florida hoàn toàn chìm trong nước cùng với hầu hết những hòn đảo trên thế giới. Phần lớn châu Âu và châu Phi nhìn thấy những đợt sóng dâng lên hàng trăm dặm từ các bờ biển vào đất liền. Vì hầu hết cư dân ở châu Úc sống trên hoặc gần các bờ biển, nên lục địa này phải chịu đựng cảnh chết chóc kinh hoàng nhất. Chín mươi chín phần trăm dân cư bị tiêu diệt trong vài phút. Miền đông nam châu Á hoàn toàn bị chôn vùi trong nước. Vô số sinh vật biển bị đẩy vào đất liền rất xa, bị bỏ lại và chết khi những đợt sóng rút lui. Sự cân bằng hóa học của biển cả bị biến đổi. Những gì không bị sự biến động đột ngột giết chết trong biển thì sình lầy, bùn và những thứ đổ nát sẽ làm chuyện đó”.
“Sự chấn động do vụ sao chổi va đụng, những trận động đất khủng khiếp vượt xa giới hạn của hệ thống đo lường Ritchter làm thay đổi vĩnh viễn kích thước núi non, đồng bằng và sa mạc. Rồi những núi lửa trên khắp địa cầu, đang ngủ hay hoạt động, đều phun trào... Dung nham nóng chảy thành những mảnh kếch sù dày cả dặm tràn qua bất kỳ vùng đất nào không chìm trong nước. Nếu một nhà phi hành vũ trụ bay tới sao Hỏa trước thảm họa và trở về hai năm sau đó, ông ta sẽ không tài nào nhận ra Trái Đất. Cũng không người nào ông ta từng quen biết hoặc yêu thương vẫn còn sống. Ông ta rất có thể nhận ra mình là những sinh vật người duy nhất trên Trái Đất”.
Pitt nhìn nhà thiên văn học. “Ông không vẽ một bức tranh nào đẹp cả”.
“Hậu quả không sao lường nổi. Một khi trận đại hồng thủy tái diễn, những khối đá đủ mọi kích cỡ và hình thù sẽ bị phân tán khắp nơi trên mặt đất, và chúng tồn tại ở những nơi đó cho tới ngày nay, trở nên vấn đề làm đau đầu các nhà địa chất học. Nói khác đi, họ không sao giải thích được bằng cách nào chúng đã phân tán như thế. Vô số cây cối bị ngã đổ và vô số những xác động vật và sinh vật biển năm vương vãi trên mặt đất thành những đống kếch sù. Nhiều miền bị biến thành hồ ao. Trong phút chốc, eo biển ngăn cách Đại Tây Dương với những thung lũng và sông ngòi của khu vực nam châu Âu bị quét sạch và hình thành biển Địa trung hải. Những khối băng cũ bốc hơi những khối băng mới lại xuất hiện. Những khu rừng nhiệt đới đã từng bị những trận gió thô bạo quật ngã trước kia bây giờ lại bắt đầu tăng trưởng nhờ khí hậu bớt khắc nghiệt. Những vùng Gobi, Sahara và vùng Mojave, sau đó là những rừng nhiệt đới trở nên khô cằn, vô sinh. Những dãy đá ngầm của các lục địa trước kia từng đứng cao hơn mặt nước, bây giờ đều chìm xuống. Từ trường tại hai địa cực bị đảo lộn sự phân cực của chúng. Những nền văn minh từng tồn tại bị chôn sâu tới năm trăm bộ dưới mặt đất. Thời gian biến động này kéo dài khoảng hai mươi năm, trước khi Trái Đất hoàn toàn trở lại tình trạng ổn định. Một số ít nhân loại sống sót bằng cách nào đó phải đối mặt với một thực tế vô cùng u ám, và thật kỳ diệu, họ đã chịu đựng được và tồn tại để trở thành tổ tiên chúng ta”.
Pat đặt tách cà phê xuống. “Những người nguyên thủy trên Trái Đất bị hủy diệt và tan tát một cách thảm hại. Họ không để lại những ghi chép về cách sinh hoạt của họ suốt nhiều ngàn năm. Trừ những chữ khắc của người Amenes, hầu hết những ghi chép khác đều bị chôn vùi hoặc thất lạc. Những ký ức về thảm họa chỉ được truyền lại cho đời sau qua sự truyền miệng. Chỉ tới khi người Ai Cập và người Sumeria cổ đại, nền văn minh Indus của Ấn Độ tái tạo ngôn ngữ viết, ghi lại những câu chuyện về trận đại hồng thủy thì sự cố này mới phổ biến”.
“Ai biết được những thành phố nào”, Pitt nói, “những cung điện nào với những kho tàng mang tính địa chất của họ nằm rải rác dưới đáy biển sâu hoặc bị chôn lấp hàng trăm bộ dưới những lớp bùn sình và đá? Trừ những chữ khắc của người Amenes để lại, chúng ta không có cách nào đánh giá sự huy hoàng của khoảng thời gian quá khứ trước khi những nền văn minh bắt đầu được xây dựng lại”.
Ông Friend vẫn giữ im lặng trong lúc những người khác cố hình dung ra cơn ác mộng. Ông ta để cặp mắt lang thang khắp những người đang ngồi trong cái xe tải chỉ huy, tò mò quan sát những cặp mắt biểu lộ cảm tưởng khủng khiếp của họ. Chỉ đôi mắt Pitt có vẻ trầm tĩnh, như thể anh đang dự tính một điều gì đó khác hẳn, một điều gì đó tại một nơi nào đó.
“Và thảm họa đã kết thúc như thế”, ông Sandecker buồn bã nói.
Tiến sĩ Friend thong thả lắc đầu, “Tôi vẫn chưa nói về phần tồi tệ nhất”, ông ta nói, nụ cười lúc đầu đã biến mất. “Chỉ mấy năm trước đây, một số các nhà khoa học bắt đầu nhận ra có những biến động quan trọng Trái Đất đã trải qua trong quá khứ - hoặc có hoặc không chịu ảnh hưởng của những vật thể ngoài không gian. Ngày nay chúng ta biết rằng một vụ va đụng đáng sợ nào do một sao chổi lớn hoặc một tiểu hành tinh đều có thể gây ra sự biến dạng của vỏ Trái Đất. Charles Hapgood từng đưa ra lý thuyết cho rằng vì vỏ Trái Đất trôi nổi trên một cái lõi nóng chảy bên trong nó, nên nó chỉ dày từ hai mươi đến bốn mươi dặm. Nó có thể và vẫn xoay tròn quanh trục của cái lõi, tạo ra những thay đổi cực lớn về khí hậu và những chuyển động và các lục địa. Hiện tượng đó được gọi là sự đổi chỗ của vỏ Trái Đất, và hậu quả của nó có thể gây thảm họa. Lúc đầu, lý thuyết của Hapgood bị các nhà khoa học khác về địa cầu chế giễu. Sau đó, Albert Einstein đã tập trung suy luận của mình vào lý thuyết này, và sau cùng, ông đồng ý với Hapgood”.
“Nghe có vẻ giống cái vỏ bọc bên ngoài quả bóng đá nhỉ”, Yaeger nói.
“Nguyên tắc giống nhau”, ông Friend xác nhận. “Máy điện toán của chúng ta cho biết sự va đụng dã gây ra sức ép đủ để làm chuyển động vỏ Trái Đất. Kết quả là vài lục địa, đảo và những miền đất khác trôi gần lại đường xích đạo, trong lúc một số khác lại trôi xa. Sự chuyển động đó cũng khiến Bắc Cực và Nam Cực trôi từ vị trí trước đó của chúng đến những vùng khí hậu ấm hơn, làm cho hàng tỉ tỉ tấn nước dâng lên cao hơn mặt các đại dương trước kia đến bốn trăm bộ. Tôi xin cung cấp cho quí vị một ví dụ là trước đại hồng thủy, một người đàn ông hoặc một phụ nữ có thể đi bộ từ Luân đôn qua eo biển Man che để tới nước Pháp mà không hề ướt hai bàn chân.
“Sau cùng, toàn bộ thế giới được sắp xếp lại. Bắc Cực vốn nằm giữa Canada, giờ đây dời xa về phía bắc, trong vùng ngày nay hiểu là Bắc băng dương. Siberia cũng trôi về phía bắc trong một thời gian cực ngắn chứng cớ là những loại cây ăn trái còn nguyên lá và loài voi ma mút được tìm thấy đã đông cứng, trong dạ dày chúng còn cỏ chưa kịp tiêu hóa, và thứ cỏ này không thể mọc tại vùng Siberia bây giờ. Vì Bắc Mỹ và hầu hết châu Âu trôi về phía nam nên thời kỳ băng hà đột ngột chấm dứt. Nam Cực cũng trôi về phía nam gần hai ngàn dặm, tính từ vùng trước kia của nó trong vùng biển phía nam, giữa vùng thấp của Nam Mỹ và châu Phi”.
“Thế quĩ đạo của Trái Đất có bị ảnh hưởng không?” Yaeger hỏi.
“Không, quĩ đạo vẫn giữ nguyên dấu vết của nó quanh mặt trời như ngày nay. Trục Trái Đất cũng không thay đổi. Đường xích đạo vẫn giữ nguyên tình trạng như lúc đầu. Bốn mùa vẫn đến và đi như bao giờ. Chỉ có bề mặt địa cầu thay đổi”.
“Điều này giải thích rất nhiều vấn đề”, Pitt nói, “Chẳng hạn như bằng cách nào người Amenes có thể vẽ bản đồ Nam Cực không bị phủ băng”.
“Và thành phố dưới băng của họ mà người Đức đã khám phá”. Pat nói. “Khí hậu ở đó có thể sống được trước khi nó bị trôi”.
“Còn trục quay của Trái Đất thì sao?” Giordino hỏi. “Nó có đổi không?”
Tiến sĩ Friend lắc đầu, “Độ nghiêng hai mươi ba độ tư của nó vẫn như cũ. Đường xích đạo vẫn kiên trì. Chỉ vỏ Trái Đất chuyển động bên ngoài cái lõi lỏng của nó”.
Ông Sandecker nói, “Nếu chúng ta có thể trở lại vụ sao chổi một lúc, đây là lúc các vị trả lời câu hỏi của Dirk. Có phải mgười Amenes và gia tộc Wolf đã đúng, khi họ báo trước về sự va chạm khủng khiếp của sao chổi chị em với sao chổi đã đâm vào Trái Đất bảy ngàn năm trước Công nguyên?”
“Cho tôi một cốc cà phê nữa?” ông Friend nói.
“Vâng”, Loren nói và rót từ cái bình để trên bàn.
Ông Friend uống vài ngụm rồi đặt cái tách xuống, “à, vậy thì trước khi tôi trả lời câu hỏi của ngài, thưa Đô đốc, tôi muốn mô tả ngắn gọn về tiểu hành tinh và sao chổi tấn công hệ thống báo động vừa mới xảy ra từ năm ngoái. Một số phương tiện dùng vào việc khuếch đại hình ảnh và những dụng cụ được thiết kế đặc biệt đã được lắp đặt tại nhiều vùng miền khác nhau trên thế giới với mục đích khám phá những tiểu hành tinh và sao chổi có quĩ đạo gần Trái Đất. Và các nhà thiên văn học đã phát hiện hơn bốn mươi tiểu hành tinh sẽ vô tình áp sát Trái Đất tại một điểm nào đó trong quĩ đạo của nó. Nhưng những tính toán chi tiết cho thấy tất cả những tiểu hành tinh này đều lệch mục tiêu, chỉ trượt qua bên lề Trái Đất trong những năm sắp đến”.
“Họ có biết vụ đến gần của sao chổi thứ nhì”, Loren nói với vẻ lo lắng, “và đưa ra bất kỳ lời cảnh báo nào về sự đe dọa đó không?”
“Không, ông Friend nói. “Dù những nhà thiên văn học đều đồng ý giữ kín những tin tức thuộc loại bí mật như thế trong bốn mươi tám giờ cho tới khi những định hướng bằng máy vi tính có thể xác định về một vụ va đụng sắp xảy ra. Chỉ khi nào họ biết sự va đụng chắc chắn sẽ xảy ra thì sự kiện mới được công bố”.
“V