PHÂN VÂN
PHÂN VÂN
iền Đaghextan có nhiều tiếng nói, nhiều màu sắc. Dân chúng ở đây còn giữ lại nhiều phong tục cũ. Nhà văn người Tát là Khizghil Apsalumốp đã kể lại cho tôi một phong tục như sau.
Nếu cặp vợ chồng nào lâu không có con thì người đàn ông thắt một thắt lưng dạ để trời dễ nhận ra ông giữa những người miền núi khác. Cũng lúc ấy, ông khấn:
- Lạy trời, cầu trời cho kẻ bần dân đáng thương này một đứa con trai!
Những người nào chỉ có toàn con gái hay con đẻ ra bị quặt quẹo, câm điếc, gù, thọt, đần độn… cũng quấn thắt lưng như vậy. Họ tin rằng trời sẽ phù hộ họ, một lần khác sẽ đem cho họ đứa con trai khỏe mạnh sau này sẽ là một kỵ sĩ thực thụ, dũng cảm.
Tôi cũng cảm thấy nghi ngờ: nên chăng tôi cũng quấn một chiếc thắt lưng dạ như người Tát đã quấn, vì tôi lo ngại không biết đứa con này của tôi có lành lặn, khỏe mạnh? Cuốn sách mới này sẽ là đứa con trai, sau này là chàng cưỡi ngựa, hay đây chỉ là một đứa bé còi cọc, thọt gù, câm điếc?
Tuy nhiên, người mẹ nào cũng thấy con mình đẹp. Người mẹ vừa nhìn thấy, vừa không nhìn thấy những nhược điểm của con mình. Tôi cầu cho tôi khi nhìn vào cuốn sách của mình không mắc phải thói thường đó của các bà mẹ.
Tôi sờ sợ. Cây bút của tôi run run. Lòng tôi đầy nghi hoặc. Liệu tôi có đang nhằm bắn vào con mèo vì tưởng nhầm đó là chim ưng không? Liệu tôi có thắng yên cương lên một con lừa vì tưởng lầm đó là con tuấn mã? Liệu có phải tôi đang ra sức kéo khúc gỗ tròn dài ra như có lần người Akhan muốn làm như thế mà không hiểu rằng cái khúc gỗ tròn kia cần phải được đặt không phải theo chiều dọc mà là theo chiều ngang của mái nhà? Liệu tôi có vây hãm thành Anđa như có người đã tưởng rằng mình làm như thế, khi thực ra anh ta chỉ đang ngồi bên bếp lò?
Trước lúc viết gần xong cuốn sách, tôi cảm thấy mình giống như người mổ thịt cừu, lọc lớp da được đến đuôi rồi thì gãy dao. Liệu tôi có thể viết đến dấu chấm hết? Và cái tôi viết sẽ thành gì vậy? Tôi lấy lên từ đáy biển một con trai rỗng không, hay là trong đó là một hạt ngọc?
Bão có thể làm gãy cành hay đổ cả thân cây. Nhưng đến mùa xuân, từ rễ sâu, những chồi non lại nhú lên và một cây mới lại tươi cành xanh lá. Nếu trong cây có thứ nấm nào đục ruỗng, nếu thứ nấm đó ăn hết cả rễ cây thì không gì có thể làm cây xanh trở lại. Ở con người cũng vậy: vết thương bên ngoài, có khi là gãy xương nữa, cũng lành lặn mau chóng, trong khi thứ bệnh ngấm ngầm phát triển bên trong cơ thể chắc chắn sẽ dẫn đến tử vong. Cuốn sách của tôi như một đứa con trai đã lớn. Căn nhà trở nên chật chội. Đã đến lúc phải đưa cậu ta vào đời, vào thế giới lớn. Mọi người sẽ đối xử với cậu ta ra sao, sẽ chửi rủa hay là âu yếm? Cho ăn, cho ngủ hay là đuổi ra ngoài cửa? Bấy giờ chuyện đó không còn phụ thuộc vào tôi nữa.
Bản trường ca vừa dừng. Tấm thảm vừa dệt xong
Nhưng hãy kiên tâm, đừng vội vàng khen ngợi.
Sửa lại từng góc quăn, những đường vân thêu vội
Những sợi chỉ rườm rà chưa cắt hết còn kia!
Bản trường ca đã hoàn thành. Thửa ruộng đã vào xuân.
Đất đã cày tơi, chờ hạt gieo sắp trổ
Nhưng nhìn lại. Ruộng vẫn còn loang lổ
Còn những rãnh chưa liền, còn những hố chưa san!
Cuốn sách của tôi là tấm thảm đã dệt xong và trải ra để lần đầu tiên nhìn thấy cả tấm. Tôi nhận ra nhiều đường nét không chính xác, những bức vẽ chưa hoàn chỉnh, đường viền trang trí có chỗ cong queo, nhưng không sao sửa được những sai sót nữa – tấm thảm đã dệt rồi. Muốn sửa một chi tiết nhỏ thôi cũng phải tháo cả tấm thảm ra.
Cuốn sách của tôi như chuyến trở về làng quê qua một chặng đường xa khó nhọc. Đã hai năm rồi, tôi không có nhà. Hai năm rồi, dân làng, bạn bè, hàng xóm không nghe một tin tức gì về tôi. Và đây, tôi xuống ngựa bên ngôi nhà đầu làng rồi chậm rãi dắt ngựa đi. Ngọn đèn người phụ nữ miền núi đặt bên cửa sổ để soi sáng đường tôi đi, bây giờ có thể cất đi rồi. Tôi đang trở về nhà. Chào tất cả, những người đồng hương thân mến của tôi! Tôi đang trở về sau hai năm chu du khắp nơi. Qua hai năm ấy, con ngựa đã già. Mái tóc tôi cũng bạc thêm. Tôi chậm rãi dắt ngựa qua làng và gặp ai tôi cũng cất tiếng chào.
- Chào anh, - họ đáp lại, - anh Raxun, con trai ông Gamzát đấy à. Bây lâu nay anh đi những đâu? Mệt chưa? Kiếm được gì không? Mấy cái túi của anh đựng gì thế?
Tôi muốn nói với họ rằng tôi đem về một cuốn sách. Nhưng sách lại là một thứ không thể chuyền tay mọi người trong làng hay đưa bất cứ cho ai. Trước tiên nó phải vào tay cán bộ xuất bản và người này sẽ quyết định số phận của nó.
Cán bộ xuất bản, nhận bản thảo cuốn sách của tôi, đặt lên lòng bàn tay nâng nâng như thử cân xem nặng nhẹ thế nào, lật ra xem xem, mới đầu thì liếc qua trang thứ nhất, sau đó lật luôn sang trang 70 rồi xem trang cuối cùng. Cán bộ xuất bản đặt bản thảo sang một bên.
- Có thể cuốn sách của anh cũng tốt thôi, nhưng kế hoạch xuất bản năm nay và năm sau của chúng tôi đã được duyệt. Không có sách của anh trong kế hoạch của chúng tôi.
- Trong kế hoạch của tôi, cuốn sách này cũng không có. Nó bất ngờ đến. Bây giờ thì tôi biết làm gì với nó?
- Anh làm một cái đơn trình bày mọi việc. Chúng tôi sẽ đem ra cuộc họp xem xét, thảo luận và quyết định. Có thể đưa vào kế hoạch xuất bản dự trữ. Khoảng này sang năm anh ghé lại đây hay gọi điện cho chúng tôi cũng được.
Thư của Abutalíp gửi nhà xuất bản.
“Kính gửi nhà xuất bản Đaghextan! Tôi là nhà thơ nhân dân, là ủy viên Chủ tịch đoàn Xô Viết tối cao Đaghextan. Cán bộ hưu trí loại đặc biệt. Năm nay tôi 85 tuổi. Tôi biết rằng nếu chẳng may bây giờ tôi có chết, các anh sẽ quyết định cho in tuyển tập thơ gồm hai tập. Tôi xin yêu cầu các anh xuất bản một cuốn sách của tôi bây giờ, khi tôi còn sống, thế vào hai tập sách mà các anh định xuất bản khi tôi đã chết rồi. Chào trân trọng. Abutalíp”.
Lá đơn đó thuộc loại hiền lành. Nhưng cũng có những lá đơn than vãn. Có những lá đơn nguyền rủa. Có những lá đơn mà người viết tự khen mình. Có những lá đơn nịnh hót. Có những lá đơn kêu gào, rít lên.
Những lá đơn khủng khiếp nhất không phải là những lá đơn viết cho nhà xuất bản, mà là viết kiện nhà xuất bản. Cũng cần phải hiểu những cán bộ làm nghề xuất bản. Nếu cái ghế là để cho một người ngồi thì không thể ngồi lên đấy ba hay bốn người. Nếu hai người ngồi thì mỗi người ngồi một nửa cũng đã thấy bất tiện, nhất là ngồi lâu. Một người nói: “Sao anh lại in sách của Akhơmét, mà không muốn in của tôi? Chẳng lẽ sách của tôi tồi hơn sao?” Người kia rít lên: “Sách của tôi hay hơn mọi cuốn mà anh đã cho in trong mấy năm gần đây. Thế mà tại sao anh lại không đưa tôi vào kế hoạch?”
Nhưng tôi không muốn cãi nhau với các nhà xuất bản. Tôi sẵn sàng chờ đợi. Tôi biết rằng họ bao giờ cũng thiếu giấy. Giấy phung phí đi đâu cả? Các nhà văn, trong đó có tôi, đã góp phần phí phạm, tiêu tốn giấy. Thế thì việc gì tôi phải cãi vã! Thật ra đôi lúc, cùng với việc phí phạm giấy, chúng tôi - nhà văn và nhà biên tập - đã làm những việc mà sau này cả hai bên đều ân hận. Ôi, tôi muốn sao cho tôi viết được những dòng chữ như nước mát vun tưới mà nếu chúng rơi vào một cuốn giấy nào đó thì sẽ làm cuốn giấy ấy hồi lại thành cây xanh tươi tốt, hệt như lúc ban đầu khi người ta chưa chặt nó, chưa biến nó thành giấy!
Không, tôi không muốn cãi vã với vị cán bộ xuất bản. Tôi từ tốn nói với anh:
- Anh đứng trung gian, giữa tôi với những người đồng hương của tôi, giữa tôi và các độc giả Matxcơva khác. Anh là mắt xích nối liền chúng tôi. Chỉ mong anh cố gắng giúp đỡ cho chúng tôi được gặp nhau, thân mật bắt tay nhau. Tôi chỉ mong thế…
Cán bộ xuất bản đáp ứng lại yêu cầu nhỏ nhẹ của tôi, và ngay lúc đó bản thảo của tôi được đến tay vị phụ trách biên tập.
Nhà biên tập.
“Cắt bớt” – ngoài cửa phòng làm việc của ông treo biển như vậy.
Cán bộ xuất bản nói: “Một năm nữa ghé lại”. Nhà biên tập thì định thời hạn trở lại là ba tuần. Nghe thấy thời hạn đó, thậm chí tôi còn mừng là đằng khác: tôi còn đủ thời giờ để kể cho các bạn vài câu chuyện ngắn.
Rút trong sổ tay. Bố tôi viết hai vở kịch: “Người thợ giầy” và “Đám cưới của Côđôláp”. Thoạt đầu, bản thảo được đưa cho nhà hát, sau đó đến ban văn hóa, rồi cuối cùng đến Cục quản lý nghệ thuật Đaghextan. Bố tôi biết rõ rằng các vở kịch đã đến các nơi đó và từ đó chúng sẽ chẳng ra đâu hết. Nhưng hóa ra chính ở các nơi ấy, những vở kịch của bố tôi cũng chẳng còn.
Giống như người chăn cừu dù đang đêm xấu trời vẫn đi lên núi tìm những con bị lạc, bố tôi cũng lên đường đi tìm những vở kịch của mình.
Ở Cục, ông gặp một người suốt ngày chỉ lo về kịch. Người này cũng gọi là nhà biên tập. Bố tôi nói chuyện với anh ta hơn một giờ và bỗng cảm thấy hễ bàn tới thời tiết, tới bãi chăn cừu, tới cừu, ngựa, bò thì câu chuyện lập tức trở nên hào hứng, còn khi nói tới chuyện văn học, chuyện sân khấu thì bố tôi không sao hiểu nổi anh ta nói gì. Thế mà nhà biên tập nọ vẫn luôn cố nói tới kịch, ban phát lời khuyên cho bố tôi, chỉ vẽ cách viết thế nào cho kịch hay hơn. Bố tôi không chịu nổi bèn hỏi thẳng anh ta là ai, học vấn thế nào, làm gì ở Cục nghệ thuật Đaghextan.
- Học vấn của tôi là ở bậc cao đẳng, - nhà biên tập trả lời không dấu diếm vẻ hãnh diện. – Còn chuyên môn của tôi là bác sỹ thú y. Bây giờ tôi được phân công công việc này.
- Nhưng chẳng lẽ các vở kịch của tôi là bò sao mà anh ra sức chữa chạy cho nó! Tại sao nhà thơ không bao giờ khuyên bảo, chỉ vẽ gì cho các bác sĩ thú y mà người ta cứ tha hồ chỉ vẽ, khuyên bảo các nhà thơ, khi họ muốn.
Chẳng lẽ cuốn sách của tôi cũng sẽ rơi vào tay một nhà biên tập trước kia làm thú y và không hiểu biết gì về văn học?
Abutalíp và nhà biên tập. Bản thảo của Abutalíp bị rỉa lỗ chỗ như quạ rỉa người chiến binh bỏ xác ngoài bãi chiến trường. Bản in thử đến tay Abutalíp dưới dạng bị rỉa như vậy. Abutalíp đọc và kinh ngạc thốt lên:
- Ngựa đã xéo nát cả bãi cỏ xanh của tôi. Nơi trước kia là hoa tươi, bây giờ là đầm lầy. Nếu cậu học sinh phạm lỗi khi viết sai chính tả, thì thầy giáo sẽ sửa các lỗi đó. Vậy thì ai sẽ đóng vai thầy giáo chỉ về cho tôi cái gì là đúng, cái gì là sai trong cuộc đời tôi?
Abutalíp đọc kỹ hơn bản in thử bất chợt kêu lên;
- A, tôi biết anh biên tập này ở làng nào rồi. Anh ta muốn chữa cuốn sách tôi theo thổ ngữ của làng anh. Nhưng thổ ngữ thì nhiều mà ngôn ngữ chỉ có một, dân tộc chỉ có một! Nếu anh biên tập nào cũng cố kéo cuốn sách về phía làng mình thì không bao giờ chúng ta có thể xây dựng được cái làng thơ ca của chúng ta.
Hỡi nhà biên tập của tôi, xin anh hãy nhớ cho rằng, ngoài cái làng của anh còn nhiều miền đất khác, ngoài anh ra còn có nhiều người khác nữa. Thực ra thì tôi và anh, chúng ta không thể bất đồng với nhau được. Tôi sẽ lưu ý đến những nhận xét của anh, nếu những nhận xét ấy giúp ích cho tôi. Nhưng anh cần phải nhớ rằng bài ca của tôi cũng thiết thân vói tôi như khát vọng trả thù thiết thân với kẻ có người nhà bị giết. Không phải bây giờ tôi mới có ý nghĩ này. Với ý tứ như vậy, từ lúc còn trẻ, tôi đã làm một bài thơ như sau:
Tôi đã mang trong tim, như mối hờn, nỗi hận,
Sức nóng và hơi lạnh mỗi câu thơ,
Mỗi bài ca, như tình yêu bí ẩn.
Tôi chẳng ưa ai dòm ngó bất ngờ!
Tôi nắm bắt từ âm thanh xa tắp
Nuôi mỗi bài ca từ trứng nước lớn lên
Tôi chọn lựa, đặt từng vần dìu dặt
Như người thợ đồng hồ lắp những bánh xe răng.
Từ bao chữ bao thanh, chỉ chọn một hòa âm,
Thích hợp nhất cho mỗi dòng mỗi đoạn,
Như trong hầm rượu từ bao đời, phải chọn
Một chai rượu nồng men cho khách quý, thân tình,
...Có thể có người tốt giọng hơn tôi
Họ biết ca những điều tôi chẳng biết
Tôi gắng hết sức mình, có thể chưa đến đích,
Cốt nói được đìều lòng tôi muốn nói ra.
Thơ tôi dở hoặc hay, biết làm sao khác được?
Chỉ biết đời tôi nằm trọn ở thơ tôi.
Sao các bạn của tôi - những nhà biên tập
Thích cắt sửa nó hoài, và khe khắt, bẻ bai!..
Dạo ấy tôi đã viết xong vở kịch “Người đàn bà miền núi”. vở kịch được diễn trong một vài nhà hát ở Đaghextan, và đây là một chuyện đã xảy ra với vở kịch ấy.
Ở đoạn kết vở kịch, theo trình tự diễn biến sự việc, nhân vật nam giết nhân vật nữ. Tôi rất thương tiếc người phụ nữ miền núi của tôi, tay tôi run lên khi viết đoạn chị bị giết, tim tôi như ứa máu. Nhưng tôi không thể thay đổi gì được. Sự việc diễn ra tất yếu dẫn đến chỗ chị phải bị giết, Nhà hát Avar đã dựng kịch như vậy, và mặc dầu khán giả buồn rầu và tiếc thương cho chị có phần hơn cả tôi nữa, nhưng mọi người đều hiểu rằng không thể có kết cục nào khác.
Ớ nhà hát Đarghin, vở kịch bị sửa lại. Lẽ ra cô gái bị giết thì cô ta chỉ bị cắt hai đuôi sam. Điều này tất nhiên rất đáng xấu hổ vì đối với người phụ nữ miền núi thì bị cắt tóc như thế còn tồi tệ hơn cả bị giết, nhưng dù thế nào mặc lòng, đó vẫn không phải là cái chết.
Trên sân khấu nhà hát Kumức người ta quyết định không giết, không cắt tóc cô gái, mà chọc thủng mắt cho mù. Tất nhiên đó là một việc kinh khủng. Có thể còn kinh khủng hơn cả giết chết hay cắt tóc, nhưng cuối cùng cô gái vẫn sống, vẫn còn đuôi sam, vì nhà hát Kumức muốn như thế.
Ở nhà hát Trêtren, người ta còn giải quyết một cách đơn giản hơn. “Việc gì phải giết, - họ lý sự, - việc gì phải cắt tóc, phải chọc mắt. Cứ để cho nhân vật lành lặn, khỏe mạnh”.
Vậy là mỗi đạo diễn đều sửa vở kịch theo cách nghĩ, theo ý thích riêng của mình. Không một ai mách bảo các nhà đạo diễn rằng, vì thương tiếc nhân vật, vì muốn cứu nhân vật mà họ đã giết chết luôn vở kịch và không thương tiếc gì đến khán giả, còn nói gì đến chuyện thương người viết kịch.
Bố tôi, khi tờ báo có đăng thơ của ông gửi tới làng, đã nói:
- Chắc bài thơ của tôi đã rơi vào tay một anh thợ vụng nên không còn một chỗ nào sinh động nữa.
Còn Makhơmút... Makhơmút không nói gì, vì khi ông còn sống không có cuốn sách nào của ông được xuất bản. Nhưng nếu được thấy thơ của mình bị biên tập sửa sang lại thế này, thì chắc ông phải chết lần thứ hai.
Không thể đi ô tô hiện đại trên những con đường mòn vùng núi. Vậy làm sao tôi có thể nói để các nhà biên tập đừng đụng đến tôi, nếu như họ đã không nể gì cả những người quá cố.
Nhưng hỡi nhà biên tập của tôi, đừng nghĩ rằng tất cả những gì tôi đã kể là dính dáng đến anh. Tôi còn biết loại biên tập viên khác, những người này đến với nhà văn như những cố vấn thông minh, tinh tế. Tôi biết rằng anh là một người như vậy. Làm việc vói anh tôi cảm thấy rất bình yên, dễ chịu. Anh cứ yên tâm, tôi sẽ không bỏ qua dãu “chấm than” mà anh đã ghi bên lề bản thảo để tỏ sự thích thú của anh, hay, dấu “hỏi” biểu hiện sự nghi ngờ của anh, hay dấu “cánh chim” tỏ rằng theo anh câu này có thể sửa hay hơn.
Chắc là trong cuốn sách của tôi sẽ có những câu không cô kết, chắc nịch, mà lung lay như chiếc răng già lão. Chắc là có những câu trùng lặp. Tôi xin anh hãy tìm, hãy chỉ giúp những chỗ đó. Một cái đầu đã hay, một cái đầu rưỡi phải hay hơn! Còn tôi với anh, tôi hy vọng rằng, chúng ta sẽ có đủ hai đầu, bốn tay, và mọi việc sẽ thuận buồm xuôi gió! Đánh nhau hôm nay còn hơn cãi vã ngày mai, Một lần đánh nhau còn hơn là cãi cọ suốt đời. Điều chủ yếu nhất là hãy dè dặt khi khen tôi.
Có nhà thợ săn hết lời khen chú thỏ là không biết sợ, chú thỏ khoái chí nhảy ra đứng giữa mô đất cao. Nhà thợ săn chưa thèm bắn ngay. Chú thỏ kiêu căng gặp nhà thợ săn khác và cũng nhảy lên mô đất. Nhưng người này tính lại khác người đầu tiên. Cũng không khó gì khi đoán kết cục câu chuyện này.
Tôi hiểu rằng lao động của anh không được nhiều người biết đến. Khi độc giả cầm cuốn sách trong tay, họ sẽ nhìn xem ai viết, ai minh họa, nhưng không bao giờ xem ai biên tập cuốn sách. Tính con người vốn thế.
Người ta vẫn quen thừa nhận nhà thơ nhân danh nhân dân mà nói. Nhưng hóa ra cả nhà biên tập đôi khi cũng nhân danh nhân dân mà phát biểu. Có lần tôi đem đến tòa soạn một bài thơ trữ tình về người tôi yêu. Nhà biên tập đặt bài thơ sang bên và nói bài thơ không thể đăng được.
- Vì sao?
- Nhân dân sẽ không đọc. Việc gì nhân dân lại phải cần đến thơ về vợ anh!
Ngay lúc đó tôi làm bài thơ bốn câu:
Thơ anh viết tặng em, nhưng trong tòa soạn
Lại thêm một lần, họ không chịu cho đăng!
Nhà biên tập quả quyết khi gác lại:
- Đối với nhân dân, thơ ấy không cần!
Bố tôi đã nói, nhà văn và nhà thơ giống như anh lái xe biết cho xe đi nói chung là đúng luật, nhưng đôi khi vẫn sai sót và vi phạm luật. Nhà biên tập trong trường hợp này cũng giống như anh cảnh sát giao thông. Bố tôi bỗng ra chiều tư lự và nói:
- Con nghĩ thế nào, mỗi lái xe mà cần đến ba anh cánh sát giao thông thì có nhiều quá không?
Nhưng nếu không có người cảnh sát nào thì cũng không được. Trong một buổi liên hoan, mọi người lần lượt nâng cốc chúc nhau. Ở đây có một anh cảnh sát. Vị chủ trò nâng cốc chúc anh cảnh sát. Bỗng ông chủ tịch hợp tác xã tiêu thụ đặt cốc xuống và nói:
- Đến chủ nghĩa cộng sản thì sẽ không còn cảnh sát. Đó là một hiện tượng nhất thời. Vậy thì việc gì phải nâng cốc chúc cảnh sát?
Anh cảnh sát trá lời:
- Liệu đến chủ nghĩa cộng sản có còn cảnh sát không điều đó tùy thuộc vào việc lúc đó có còn hợp tác xã tiêu thụ không?
Thôi, gạt chuyên đùa sang một bên, tôi muốn nói với anh, nhà biên tập của tôi, để anh biết những phút nào tôi quý nhất. Đó là khi tôi với anh không phải ngồi bên chiếc bàn làm việc đầy sách vở mà ngồi bên chiếc bàn bình thường bày đầy những món ăn ngon lành. Những phút thú vị khác cũng đã qua, khi anh viết lên lề bản thảo của tôi: “Cho sắp chữ!”, Rồi anh viết - “Cho in”. Rồi - “Cho phát hành!”. Dưới bàn tay như có phép mầu của anh, quả thật cuốn sách mới đầu đã được sắp chữ, rồi được in, được phát hành. Cứ thử nghĩ kỹ mà xem mấy chữ anh viết: “Cho phát hành” nghĩa là thế nào? Chỉ với mấy chữ ấy thôi, mọi lỗi lầm của anh đều được tha thứ. Chỉ vì thế thôi cũng đã cần phải nâng cốc chúc mừng anh rồi. Anh hãy viết nhanh nhanh mấy chữ đó, tôi sẽ tặng anh bản đầu tiên của cuốn sách đó, tất nhiên là kèm theo chữ ký.
Tất nhiên tôi mong sao chóng đến lúc mọi điều bí ẩn trên thế giới này đều biến đi. Chẳng lẽ có thể làm một nhà thơ, nếu không chỉ ra được cho mọi người một điều bí ẩn nào, nghĩa là không chỉ ra được điều mà trước đây mọi người đều không biết? Tôi, một nhà thơ, khi đến với mọi người, tôi cũng từ từ vén bức rèm che không gian và thời gian hệt như chú rể nhấc tấm khăn che mặt cô dâu. Chỉ có chú rể mới có quyền làm chuyện đó trong đám cưới, sau đây mọi người đều thấy mặt cô dâu. chỉ có nhà thơ mới có khả năng làm được việc đó trong đời, mọi người nhận ra rõ ràng cuộc sống xung quanh, ngạc nhiên với cuộc sống, với những gì trước đây họ không nhìn thấy: vẻ đẹp của thế giới, vẻ đẹp của tâm hồn con người - những gì chống lại các thế lực đen tối.
Tôi xin anh, hỏi nhà biên tập, hãy đừng chờ những kẻ ba hoa nói huyên thuyên về những điều không đáng nói, nhưng cũng đừng che kín lại những gì tôi muốn mở ra với tư cách một nhà thơ Đừng nghi ngờ những bức tranh, những đường nét trang trí của tôi. Nếu có sai sót nào trên bức tranh của tấm thảm tôi dệt thì xin đừng vẩy mực vào hay cắt bỏ làm như vậy hoặc tấm thảm sẽ bị loang lổ mực hoặc sẽ bị thủng lỗ chỗ.
Thêm nữa, xin đừng gọi một ý nghĩ nào đó là sai chỉ vì nó không giống ý nghĩ của anh!
Thêm nữa, người ta chi cân bánh mì, đường, bơ, cân đinh, chứ không ai cân tình yêu!
Thêm nữa, dùng thước để đo chiều cao chiều dài căn phòng, đo bức tường quanh ngôi mộ, chứ không dùng để đo cái đẹp!
Thêm nữa, ai cố làm ra vẻ thông minh nhất có khi lại thành ngu xuẩn hơn con người thật của anh ta.
Thêm nữa, tôi cũng là một người lớn, cho nên cũng có thể tin được tôi đôi ba điều!
Tôi biết rằng người này có nhiều điều bí mật, người kia có ít hơn, biết làm sao!
Abutalíp nói: nếu nước bẩn thì anh không nhìn thấy đáy dù nước chưa ngập đến đầu gối.
Rút trong sổ tay. Khi tôi còn nhỏ, ai củng bảo tôi là người hay nói nhất nhà. Hễ nghe được cái gì ngoài đường là thế nào về nhà tôi cũng kể. Hễ nghe được cái gì ở nhà là thế nào tôi cũng đem ra kể ngoài đường.
Thỉnh thoảng có một ông già đến chơi với bố tôi. Ông đưa mắt nhìn quanh và thì thầm ra vẻ hệ trọng:
- Này Gamzát, sang phòng bên, tôi nói mấy câu được không?
Bố tôi và ông già sang phòng bên, và thì thầm với nhau. Cứ như vậy vài lần diễn ra. Một lần ông già lại đến.
- Này Gamzát, sang phòng bên, tôi nói mấy câu được không?
- Thôi, đủ rồi! - bố tôi trả lời. - Cái điều ông cho là bí mật, thì thào vào tai tôi, ông có thể kể luôn khi có mặt Raxun. Ông cứ việc nói to lên, đừng sợ gì cả.
Phải rồi, từ nhỏ, tôi không ưa những điếu bí mật thì thầm. Khi hát, người ta bước lên gò đất cao, hát thật to cho càng đông người nghe càng tốt.
Hơn nữa không phải chữ nào tôi cũng chịu trách nhiệm. Tôi còn phải qua một người dịch nữa.
Người dịch.
Tôi là một người Avar, tôi sinh ra như thế và không thể làm khác được. Những người đầu tiên tôi mở mắt nhìn thấy là người Avar. Những tiếng nói đầu tiên tôi nghe được là tiếng Avar, Bài ca đầu tiên tôi nghe, khi mẹ tôi ghé xuống nôi ru, là bài ca Avar. Tiếng Avar là tiếng mẹ đẻ của tôi. Đó là cái quý giá nhất của tôi, không phải chi của tôi mà của tất cả dân tộc Avar.
Người Avar không đông, chỉ có ba mươi vạn. Nhưng thế cũng không phải là ít. Ở Đaghextan có nhà thơ làm thơ bằng tiếng chỉ có hai nghìn người nói.
Ranh giới quốc gia ngăn cách con người, nhưng tiếng nói còn ngăn cách nhiều hơn. Ranh giới quốc gia có khi thay đổi, thậm chí còn bị xóa bỏ hay chỉ là hình thức.
Còn tiếng nói được trao cho nhân dân một cách vĩnh viễn, không thể thay thế, cũng không thể xóa bỏ.
Khó có thể hình dung được thời kỳ mà người Avar sống không biết đến Puskin, không đọc Lécmôntốp, không nghe gì tới Tônxtôi, không thưởng thức tác phẩm của Tsêkhốp.
Bố tôi nói: thật là hạnh phúc biết bao khi trên núi mọc lên cây Puskin, dù cho người ta có lay mạnh cây đến đâu cũng không sao rơi hết những trái quả ngọt ngào, mọng nước.
Abutalíp nói: Xin cảm ơn những ai đã đem Tsêkhốp tới căn nhà hầm tối của tôi! Cũng xin cảm ơn những ai đã đem những bài ca của tôi từ căn nhà hầm ấy đến bên tường điện Kremli!
Và tôi nói: Núi Kapkazơ không cúi mình trước viên tướng mà đã cúi mình trước thơ của chàng thiếu úy trẻ.
Có lần tôi gặp một chuyện buồn cười. Ở Đaghextan dự định xuất bản tuyển tập thơ - truyện của tôi sang tiếng Nga. Nhà biên tập lật lật bản thảo và nói:
- Sao anh không đưa “Pôntava” vào đây?
- Đấy có phải là truyện thơ của tôi đâu, đấy là tác phẩm của Puskin mà tôi chỉ dịch sang tiếng Avar thôi. Làm sao tôi lại có thể đưa truyện thơ của Puskin vào tuyển tập thơ dịch sang tiếng Nga của tôi được!
Chúng ta sẽ không quá nghiêm khắc với nhà biên tập. Cũng có sự thật là nhiều tác phẩm hay của các dân tộc khác sau khi dịch sang tiếng Avar được người Avar coi là tác phẩm của họ, và thiếu những tác phẩm đó người Avar không thể hình dung đầy đủ nền văn học của mình.
Tôi biết sau lưng tôi đôi khi có người nói: “Kể ra thì anh chàng Raxun có khả năng đấy, nhưng cũng thường thường thôi. Chủ yếu là nhờ mấy nhà phiên dịch Matxcơva đấy thôi”.
Tôi không phủ nhận điều đó. Quả là nếu không có người phiên dịch thì không có tôi.
Trước tiên họ đã cho tôi được làm quen với tác phẩm của Hainơ, Bernxơ, Sếchxpia, Xaađi, Xécvăngtét, Gơtơ, Đichken, Lôngfenlô, Uýtman và của tất cả những nhà văn nào tôi đã từng đọc trong đời, thiếu những tác phẩm đó tôi không thể trở thành nhà văn được.
Sau nữa họ đã mở ra trước thơ tôi con đường rộng rãi. Họ đem thơ tôi qua những dòng sông chảy xiết, qua núi cao, tường dày, qua những trạm gác biên giới và qua những ranh giới chắc chắn nhất là ranh giới của một ngôn ngữ khác - qua sự mù lòa, câm điếc.
Đôi lúc tôi tự hỏi mình cái gì quan trọng hơn - người phiên dịch biết tiếng dân tộc tôi (nhưng có thể xa lạ với thơ tôi) hay người phiên dịch biết thơ tôi, hiểu thơ tôi với tất cả tấm lòng mình, coi nó như của chính mình?
Năm 1937, ở Makhátkala có tổ chức thi dịch bài thơ “Làng quê” của Puskin. Bốn mươi nhà thơ đã dịch bài này sang tiếng Avar. Đại đa số những nhà thơ ấy biết tiếng Nga. Nhưng cuối cùng giải nhất lại rơi vào tay Gamzát Xađáx, người dạo ấy chưa thành thạo tiếng Nga.
Cần làm sao để người phiên dịch cũng phải là nhà thơ, nhà văn, là nghệ sĩ. Cần làm sao cho anh ta cảm thấy mình là con của dân tộc mình như tôi đã cảm thấy.
Có những người Nga biết đọc tiếng Avar, nhưng tiếc thay họ lại không phải là nhà thơ. Có những người Nga là nhà thơ nhưng tiếc thay họ lại không biết đọc tiếng Avar. Làm thế nào được? Đành phải vời đến người dịch nghĩa.
Tôi đã nhìn thấy trong các làng Nga người ta đã di chuyển nhà gỗ như thế nào. Không thể mang cả cái nhà đi mà phải dỡ nó ra theo một trình tự nào đó, sau rồi mới dựng lại ở chỗ mới.
Dịch nghĩa đó là ngôi nhà đã dỡ ra để di chuyển. Đó là một đống những cột kèo, ván, tôn, gạch ngói. Người phiên dịch từ cái đống lộn xộn ấy phải dựng lại thành ngôi nhà. Nếu cột bị mọt, anh đặt ván mới vào. Nếu những đường nét trang trí bị gãy, anh ta làm ra đường nét khác.
Rồi anh lau chùi cửa kính, nhóm lửa trong lò cho khói theo ống bay lên, trẻ con chạy ra ngoài hiên chơi, nhạn về làm tổ dưới mái nhà.
Bản dịch nghĩa là gì? Có người mắt đã nhắm, tim đã ngừng đập. Nhưng bác sĩ đến, tiêm một phát, truyền máu vào, xoa bóp tim và cuộc sống trở lại với người bệnh.
Bản dịch nghĩa là gì? Là cây đàn Kumuz tạm thời bị chùng dây. Là bếp lò tạm thời tắt lửa. Là con chim nhất thời bị cắt lông cánh.
Bản dịch nghĩa là gì? Có một anh thợ cạo, cắt tóc, cạo râu, chải đầu cho tôi xong rồi nói:
- Anh đến tôi trông như bản dịch nghĩa, còn bây giờ anh sắp ra khỏi đây như một bản dịch hoàn chỉnh.
Nếu đã dính đến hiệu cắt tóc thì tôi xin kể thêm một chuyện.
Chuyện này xẩy ra bên Cuba, ở thành phố Xanchiagô. Dọc đường đi, tôi quyết định dừng lại cắt tóc, cạo mặt. Tôi ghé vào hiệu cắt tóc và ra hiệu cho biết tôi cần gì.
Ở Cuba khi cạo mặt, người ta đặt anh ngồi ngả trên ghế bành như là nằm trên giường. Tôi cũng bị làm thế. Anh thợ cạo bắt đầu bôi xà phòng. Mọi chuyện diễn ra xuôi xẻ chừng nào lưỡi dao của anh thợ Cuba chưa chạm vào má tôi. Có thể là lưỡi dao cùn, có thể là anh thợ quá vụng, chỉ biết là tôi suýt phải kêu lên vì đau. Tôi chi chịu được một lúc, sau đó biết mình không thể chịu như thế được đến hết, tôi đành chỉ vào má mình, vừa chỉ vừa nói bằng tiếng Nga, tiếng Avar. Anh thợ cạo hốt hoảng chạy ra, lát sau quay lại dẫn theo một người mặc áo choàng trắng. Người này mở vali ra, sửa soạn những dụng cụ dùng để nhổ răng, thế là đang ngồi trên ghế của anh thợ cạo tôi bỗng rơi vào chiếc ghế của bác sĩ nha khoa. Chỉ vì tôi và người thợ cạo không hiểu nhau mà xẩy ra cơ sự đó. Thiếu chút nữa là tôi bị mất đi mấy cái răng lành!
Các nhà phiên dịch thường hay nhổ khỏi thơ tất cả các răng và bắt nó phải ngao du trên thế gian này với cái mồm móm mém.
Rút trong sổ tay. Khi đi ra nước ngoài, ta thường mang theo một sản phẩm dân tộc để tặng bạn, để cảm ơn nhiệt tình mến khách. Chẳng hạn khi đi Nhật Bản, tôi đã mang mấy chiếc bình rất đẹp mà những người thợ gốm khéo léo miền Balkhar đã làm ra.
Ở Hirôsima, có lần hai vợ chồng họa sĩ đến thăm tôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất lâu và đều cảm thấy gần gũi như bạn thân. “Mấy cái bình nghệ thuật mình mang đi không tặng họa sĩ thì tặng ai?”, - Tôi nghĩ vậy. Tôi mạnh dạn mở va li ra và kinh ngạc - những chiếc bình của tôi chỉ còn là một lô mảnh vụn. Giống như có ai lấy búa mà đập nhỏ chúng ra. Có thể là chiếc va li của tôi bị quăng quật ở sân bay Matxcơva, hay ở sân bay Ấn Độ, sân bay Tôkyô - Tôi cũng không rõ nữa. Tôi như muốn chui ngay xuống đất, vì tôi đã hứa tặng quà và hai vợ chồng họa sĩ kia đang ngồi chờ bên bàn. Hai người nhìn tôi ngơ ngác vỉ thấy tôi đứng lặng trước chiếc vali như bị chôn chân ở đấy, không nhúc nhích, không nói một lời nào.
Cuối cùng, những người bạn Nhật Bản cũng hiểu rằng có tai họa gì đó đã xảy ra. Họ bước lại gần và nhìn thấy những mảnh vỡ. Họ lắc đầu và an ủi tôi, vỗ vỗ vào vai tôi. Cứ chỉ này vào lúc khác đối với người Nhật là không thể có, vì họ được giáo dục kỹ lưỡng không chịu được sự suồng sã. Nhưng thế nghĩa là vì thấy tôi quá buồn bực rầu rĩ.
Tôi nhặt những mảnh vụn vào tờ báo và định vứt chúng vào thùng rác. Nhưng hai vợ chồng họa sĩ không cho tôi làm thế. Họ gói lại cẩn thận tất cả các mảnh vụn rồi đem về nhà.
Vài ngày sau, họ mời tôi đến chơi. Tôi vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy những chiếc bình của mình nguyên vẹn, lành lặn, dường như chúng mới được dỡ từ lò ra. Đến giờ tôi cũng không hiểu làm sao có thể gắn lại một cách khéo léo như vậy chiếc bình đã vỡ tan.
Người ta thường nói, bình vỡ không lành nguyên lại được, cho nước vào thế nào cũng chảy. Thế mà chúng tôi đã rót rượu cô nhắc Đaghextan, rượu xakê Nhật Bản vào chiếc bình được gắn lại mà rượu không hề thấm ra ngoài một giọt nào.
Nhìn vợ chồng họa sĩ người Nhật, tôi lại nhớ đến những nhà phiên dịch đạt nhất của tôi. Bản dịch nghĩa thơ tôi trông như những mảnh vụn chiếc bình vỡ. Các nhà phiên dịch đã sắp xếp, hàn gắn lại và bài thơ lại trông nguyên lành như mới, những đường nét trang trí theo kiểu Avar không hề bị thay đổi.
Tất nhiên, người phiên dịch không thể gắn vào bình tay quai vốn bình không có. Hoặc là làm thêm một đáy nữa cho chiếc bình.
Cách đây không lâu, nhà xuất bản Đaghextan xuất bản bản dịch mới sang tiếng Avar tác phẩm “Khátgi - Murát” của Tônxtôi. Tôi đọc và nhận thấy tác phẩm này dài thêm hai chương. Tôi bèn hỏi người dịch:
- Anh lấy thêm ở đâu hai chương?
- Tônxtôi viết truyện này trước Cách mạng tháng Mười. Trong đó có nhiều quan điểm không đúng. Hơn nữa cần phải kể tiếp cho độc giả biết số phận tiếp theo của cái đầu Khátgi - Murát, số phận của con cháu ông!
Rút trong sổ tay. Một bài thơ của bố tôi được dịch sang tiếng Nga. Người dịch còn non tay nghề. Bố tôi nhờ một người vừa biết tiếng Nga, vừa biết tiếng Avar dịch ngược trờ lại bài thơ đó. Khi việc đó được làm xong, bố tôi thốt lên:
- Con tôi đi xa trở về, mà tôi không nhận ra nó nữa, tốt hơn hết là cứ để nó ngồi nhà còn hơn là cho đi ra ngoài để chịu nhiều thay đổi thế.
Phải rồi, bản dịch các bài thơ giống như những đứa con mà bố mẹ gửi đi học hay đi làm xa. Tất nhiên, khi trở về nhà, không bao giờ những người con ấy giống in hệt như trước khi rời tổ ấm gia đình.
Người con có thể trở về hoặc giàu thêm hoặc nghèo đi, hoặc có bằng hoặc bị can án, hoặc chắc nịch như nhà thể thao hoặc ốm yếu xanh xao, hoặc với vinh quang của nhà bác học hoặc với tiếng tăm của kẻ ve gái, hoặc với quà quý cho gia đình, hoặc chỉ còn trên mình chiếc quần xà lỏn.
Tôi cũng gửi cuốn sách của tôi qua chặng đường xa đến những thành phố lớn, đến với mọi người. Ở những nơi xa lạ ấy, nó sẽ xử thế ra sao? Liệu nó có phản lại dân tộc tôi, phản lại chiếc mũ trên đầu nó không?
Tôi biết rằng một kẻ xấu ngồi trên núi, không phải chỉ vì xuống đồng bằng mà biến thành người tốt. Bởi vậy tôi yêu cầu những ai sẽ dịch cuốn sách của tôi một điều: nếu nó là “người xấu” thì hãy để nguyên nó như thế. Nếu tôi bị thọt và mù, xin đừng dắt tôi ra khỏi nhà, hãy để tôi ngồi bên bếp lò của tôi, trên ngưỡng cửa của tôi. Đừng tráng men vào chiếc bình đồng của tôi, đừng mạ vàng lên đồ bạc của tôi.
Abutalíp kể:
- Tôi có một đứa con trai, một đứa con gái. Đứa con gái rất ngoan, nền nếp, mẫu mực. Đứa con trai thì nghịch ngợm, lếu láo. Đứa con gái được đài, báo nhắc đến luôn vì cô ta là một chiến sĩ thi đua. Còn đứa con trai thì ngày nào cũng bị kêu ca, kiện cáo khi thì ở trường, khi thì từ đồn công an. về cô con gái, mọi người nói rằng cô ta đã được trường, Đội thiếu nhi, Đoàn thanh niên và đất nước giáo dục. Còn cậu con trai, người ta nói rằng cậu ta đã không được nhà thơ nhân dân Đaghextan là Abutalíp dạy dỗ đến nơi đến chốn.
Nghe câu chuyện này, tôi nghĩ rằng: việc dịch thơ nhiều khi cũng gặp phải chuyện như vậy. Nếu thơ dịch hay, người ta quên người dịch, chi còn nhớ đến tác giả.
Nếu thơ dịch tồi, người ta chửi bới người dịch và tránh không nhắc đến tên tác giả.
Hỡi người bạn phiên dịch của tôi, dù dịch hay, dịch dở, chúng ta cũng hãy cùng chịu trách nhiệm với nhau. Tôi với anh bây giờ như hai người kéo chung một cỗ xe. Chúng ta hãy hợp sức đẩy nó lên đèo, chứ không phải mỗi người kéo về một phía. Nếu mỗi người kéo về một phía thì cả xe lẫn chúng ta đều không thể nhích lên một bước.
Ở miền Đaghextan chúng tôi trước đây có xảy ra một chuyện kỳ dị. Một quả núi cao bỗng nhiên rung lên rồi từ từ trôi xuống, Nó dừng lại cách làng Môkhốt không xa và ngăn đôi một dòng sông, cả đàn cừu, những người chăn cừu, những lều bạt, đống lửa của họ bình yên dạo chơi một lúc cùng với quả núi. Bây giờ quả núi đó vẫn y như trước, chi có điều dưới chân núi hình thành một cái hồ mới, trong hồ người ta thả cá hồi. Trước đây chưa từng ai đến tham quan trái núi đó, khi nó còn ở chỗ cũ, còn bây giờ thì ngày này qua ngày khác khi thì khách du lịch đến thăm, khi thì các nhà khoa học đi khảo sát, rồi người đánh cá tới, các trường học tham quan.
Tôi mong sao cuốn sách của tôi cũng sẽ được bình yên đạo chơi đến một ngôn ngữ khác mà khôog gặp tai họa gì. Hãy để cho nó sau này thu hút khách đến thăm như quả núi ở gần làng Môkhốt.
Tuy nhiên, như những người theo đạo Hồi vẫn thường nói: khi đẻ thế nào, sau này sẽ thế... Câu này chắc là tương tự như câu tục ngữ Nga: Người thì cầu xin, còn trời thì ban phát. Hay nói ngắn hơn là: không thể thoát khỏi được số phận.
Nhà phê bình. Viết về người phê binh là khó hơn tất cả. Nếu chửi bới phê bình, người ta sẽ nghĩ rằng chửi lại không bằng lòng với các nhận xét phê bình chứ gì, hoặc là đang cố trả thù. Nếu khen ngợi, người ta sẽ nghĩ rằng chắc là định hy vọng kiếm chác gì nay mai đây.
Bố tôi nói: tôi và nhà phê bình là hai nhà thơ. Tôi làm thơ và nhà phê bình viết về thơ tôi.
Abutalíp nói với một nhà phê bình Đaghextan:
- Tôi làm rượu nho còn anh nếm rượu của tôi.
Tôi không muốn phát biểu ý kiến về phê bình nhưng tôi muốn nói với nhà phê bình vài lời ngắn ngủi.
1. Cái xấu bao giờ cũng gọi là xấu, cái tốt là tốt.
2. Nếu đã khen sau này chớ chửi rủa cái đã khen; nếu đã chửi rủa sau này chớ có khen.
3. Đừng cố làm voi hóa ruồi và cũng đừng biến muỗi thành voi.
4. Hãy nói đến điều có trong cuốn sách, chứ không phải về cái không có trong sách.
5. Đừng dựa dẫm vào uy tín của ai cả, kể từ Biêlinxki, để xác lập và khẳng định ý kiến của mình. Nếu những ý kiến đó quả thật là của anh, anh hãy cố trình bày nó bằng trí tuệ của chính anh.
6. Những ý nghĩ rạch ròi hãy trình bày bằng ngôn ngữ rạch ròi. Những ý nghĩ không rạch ròi thì đừng nói ra.
7. Đừng làm cái chong chóng đo chiều gió, luôn xoay chiều theo hướng gió.
8. Đừng cố gợi ra cho người khác lưu ý đến cái mà chính mình cũng chưa hiểu.
9. Nếu trong túi anh chưa có 100 rúp, đừng làm bộ như anh có số tiền đó.
10. Nếu đã lâu rồi anh chưa về làng và không biết các chuyện xẩy ra ở đấy thì đừng khẳng định như là anh vừa mời thăm quê trở về.
Những mong muốn này của tôi chằng mới mẻ gì. Chúng giống như những dòng đầu của bảng cửu chương. Tuy nhiên nếu nhà phê bình nào cũng làm đúng như thế thì ngành phê bình của chúng ta đã có thêm nhiều thành tựu.
Độc giả. Tôi đã nói chuyện với nhà biên tập, với cán bộ xuất bản, với người phiên dịch, người phê bình. Bây giờ tôi muốn nói mấy lời với người quan trọng nhất, vì người đó mà mọi cuốn sách được viết ra, - đó là độc giả.
Hỡi độc giả của tôi! Tất nhiên bạn có những cuốn sách mà bạn yêu thích. Các nhà văn chúng tôi cũng vậy. Người ta thường nói cuốn sách chủ yếu nhất của nhà văn là cuốn sách anh chưa kịp viết nhưng nhất định sẽ viết. Tôi không biết, đối với người khác, câu đó đúng đến đâu, riêng đối với tôi thì hoàn toàn đúng.
Phải rồi, đã từ lâu tôi mơ ước viết cuốn sách về quê hương thân yêu. Từ lâu tôi đã nuôi dưỡng ý định đó nhưng vẫn không sao viết được. Có thể do không đủ tải năng, có thể do công việc bận rộn hàng ngày cản trở, có thể vì thiếu lòng kiên nhẫn, hay có thể không đủ lòng dũng cảm.
Cùng với năm tháng, cảm giác trách nhiệm trước bản thân mình và trước độc giả càng tăng lên và bàn tay không phải lúc nào cũng lăm lăm cầm bút viết mỗi khi có dịp. Cuốn sách về quê hương là cuốn sách nặng nề trách nhiệm nhất trong mọi cuốn sách.
Cuốn sách này tôi chưa viết xong, nhưng tôi đã nghĩ đến nó rất nhiều và bây giờ tôi biết rất rõ nó phải thế nào. Những suy nghĩ của tôi về cuốn sách này - về cuốn sách chính của đời tôi - Tôi quyết định ghi lại trên giấy.
Đây chưa phải là cái áo mà là tấm vải để may áo. Đây chưa là tấm thảm mà chi là sợi để dệt thảm. Đây chưa phải là bài ca, mà chỉ là nhịp đập rộn ràng của con tim mà từ đó bài ca phải sinh ra.
Người ta nói. Cho dù anh không cầu nguyện đi nữa, song chỉ riêng việc anh nghĩ rằng cầu nguyện không phải là chuyện xấu thôi đã đủ để anh không phải rơi xuống địa ngục.
Người ta nói. Đã là bạn với nhau thì có gì ăn nấy, cần gì phải cao lương mỹ vị mới vui. Nếu trong nhà bạn chỉ có ruợu buza thì chăng lẽ khách lại giận rằng bạn không đãi mình bằng thứ rượu ngoại quốc, thứ rượu mà trong nhà, ngoài làng không đâu có?
Người ta nói. Nếu anh chưa làm được gì tốt, tôi cũng cảm ơn vì anh đã định làm.
Hỡi người độc giả bạn tôi. Cuốn sách nào cũng vì bạn mà được viết ra. Tôi có thể thuyết phục cán bộ xuất bản, có thể tranh cãi với nhà biên tập, với các nhà phê bình. Nhưng chỉ lời phán xét của bạn mới có ý nghĩa quyết định cuối cùng. Nói như các quan tòa thì lời phán xét ấy không thể có bản kháng án.
Nhà văn tồn tại chỉ vì để gặp gỡ bạn. cả đời tôi, tôi luôn luôn chịu ba niềm xúc động lớn. Thoạt đầu tôi xúc động khi sắp gặp gỡ bạn, tôi chờ đợi, hồi hộp hình dung ra cuộc gặp gỡ. Sau đó, khi gặp bạn, tôi càng thêm xúc động, điều này thật tự nhiên, dễ hiểu. Cuối cùng, tôi xúc động, khi đã chia tay bạn tôi tiếp tục sống với những hồi ức về cuộc gặp gỡ, cố gắng hình dung xem tôi đã gây được ấn tượng gì cho bạn.
Tôi nhìn thấy nhiều gương mặt độc giả khác nhau. Cỏ người cau mày. Tôi tìm đâu được những lời để xóa đi những nếp nhăn đó? Có người nhăn nhó hệt như vừa ngậm phải một cái gì đắng chát. Có người lại lộ vẻ dửng dưng, buồn tẻ - đó là điều ghê sợ nhất, vô vọng nhất có thể có được đối với tôi.
Người ta hỏi người miền núi: tại sao các bạn lại dựng làng của mình xa xôi thế, trên những triền núi khó lên? Đi đến đây thật là khó khăn, nguy hiểm: những con đường nhỏ hẹp nằm ngay bên miệng vực, lại thêm đá lở, đất sụt nữa. Những người miền núi bèn trả lời: “Những người bạn tốt sẽ đến được chỗ chúng tôi dù đường thật khó đi, dù phải chịu nguy hiểm, còn những người bạn xấu thì chúng tôi không cần”.
Hỡi người độc giả của tôi, năm nay tôi đã 44 tuổi. Vào lứa tuổi này, có thể trao cho con người bất cứ công việc hệ trọng nào, ở lứa tuổi này, nhà văn phải chịu trách nhiệm về từng chữ của mình.
Nếu trong cuốn sách của tôi, bạn nhìn thấy một ý nghĩ nào trước đây ăn ngủ ở một cuốn sách của người khác thì xin bạn hãy vứt nó ra khỏi tâm trí mình, như trước đây ở miền núi, người ta đã ném cô dâu sau đêm tân hôn nếu trước đó cô ta đã không giữ được trinh tiết của mình.
Nếu trong cuốn sách của tôi, bạn tìm thấy ý nghĩ đúng, bạn hãy gạch dưới chỗ đó. Nếu bạn thấy ý nghĩ nào sai, xin bạn hãy gạch dưới hai lần.
Và nếu bạn phát hiện được cho dù là một chút xíu giả dối thì xin bạn đừng chần chừ gì nữa, hãy vứt ngay cả cuốn sách - nó không còn giúp ích gì cho ai.
Trước khi tạm chia tay, tôi xin kể thêm một chuyện.
Câu chuyện về lãnh chúa giàu có, về con trai ông và về khinkal làm bằng khấu đuôi cừu trộn tỏi. Ngày xưa có một lãnh chúa giàu có sống ở miền Avarixtan. Ba lần ông lấy vợ để mong có đứa con trai, nhưng không bà vợ nào đẻ được cho ông đứa con trai thừa tự nào, cả con gái cũng không có. Lãnh chúa đành phải lấy vợ lần thứ tư.
Ít lâu sau, bà vợ sinh được một đứa con trai, ông sung sướng vô cùng. Cho nổi trống, thổi kèn, nhảy múa, ca hát, ăn mừng suốt ba đêm.
Nhưng niềm vui trong lâu đài tráng lệ của lãnh chúa kéo dài không lâu. Ít lâu sau, đứa con trai bị ốm, không một ai biết đó là bệnh gì. Ru bằng đủ bài hát, nó cũng không chịu ngủ. Đưa đủ thứ thức ăn ngon lành lên miệng nó cũng không ăn. Mọi người đều thấy rõ là chăng bao lâu nữa thằng bé sẽ chết. Các bác sĩ ngoại quốc, các thầy lang Ấn Độ, các vị thuốc hái từ Tây Tạng về cũng đều không chữa được bệnh cho đứa con thừa tự. Nếu thằng bé chết thì chắc lãnh chúa cũng không qua khỏi.
Thế rồi có một kẻ nghèo khổ không ai cho là người nữa từ làng bên cạnh đến gặp lãnh chúa. Anh ta tuyên bố rằng mình biết cách chữa đứa bé khỏi bệnh. Những người thân cận của lãnh chúa muốn xua đuổi anh chàng nghèo khổ kia đi, nhưng lãnh chúa bảo anh ta đứng lại.
“Đằng nào thì con mình cũng chết, - lãnh chúa nghĩ, - vậy thì việc gì lại không thử nốt cách cuối cùng”.
- Mi cần gì để cứu con ta?
- Tôi cần gặp riêng vợ ông một lúc.
- Sao, sao? Gặp riêng ư? Gặp riêng vợ ta sao? Mi điên rồi hả! Cút ngay cho khuất mất tao.
Anh chàng nghèo khổ quay lại và bước đi, nhưng lãnh chúa lại nghĩ: “Đằng nào thì con mình cũng chết. Có hại gì nếu hắn ta gặp riêng vợ mình nói chuyện”.
- Ê thằng cùng đinh kia, quay lại đi, ta nghĩ lại rồi. Ta cho phép mi nói chuyện với vợ ta.
Khi anh chàng nghèo khổ gặp riêng vợ lãnh chúa, anh ta bèn hỏi:
- Bà có muốn con bà sống khỏe mạnh không?
Vợ lãnh chúa không trả lời mà quỳ sụp xuống.
- Vậy thì bà hãy nói: ai là cha thật của đứa bé?
Vợ lãnh chúa đảo mắt nhìn quanh.
- Bà đừng sợ. Câu chuyện này đến chết tôi cũng không nói với ai đâu. Nếu không thì con bà sẽ chết.
- Lãnh chúa rất mong có con trai, tôi biết rằng nếu tôi không đẻ thì ông ấy sẽ đuối tôi đi như đã đuổi mấy bà vợ trước. Thế là tôi đi lên núi với một người chăn cừu trẻ tuổi, sau đó thì tôi đẻ ra đứa con thừa tự này...
Sau khi gặp vợ lãnh chúa, anh chàng nghèo khổ kia bèn trịnh trọng tuyên bố:
- Hỡi vị lãnh chúa cao sang, tôi biết được cách cứu sống con ông. Từ giờ phút này, nôi của đứa bé phải đặt gần đồng lửa, giống như đống lửa những người chăn cừu vẫn nhen lên trên núi, trong nôi cần phải trải một tấm da cừu, và phải cho nó ăn những thức ăn mà những người chăn cừu của ông đã ăn.
- Nhưng... Bọn họ ăn toàn khinkal làm bằng khấu đuôi cừu đầy mỡ trộn với tỏi. Làm thế nào đứa con thừa tự của ta... mới tròn một tuổi... lại có thể ăn được!
Anh chàng nghèo khổ quay đi. “Đằng nào thì con mình cũng chết...”, - lãnh chúa nghĩ và ra lệnh đem đến một đĩa khinkal.
Đích thân vợ lãnh chúa làm món ăn đó. Bà làm món khinkal hệt như đã làm trên núi dạo ấy cho người chăn cừu lực lưỡng ăn trước cái đêm đẹp nhất của đời bà. Bà đặt khinkal vào chiếc đĩa bằng gỗ rồi bưng đến cho con như đã từng bưng như thế đến trước người chăn cừu.
Những miếng khinkal tròn, to trông như hòn cuội lớn. Mỡ khấu đuôi cừu thấm ra béo ngậy. Bên cạnh là một bình nước nguồn trên núi trong vắt.
Khi mùi thịt mỡ luộc, mùi tỏi vừa xông tới mũi cậu con trai thừa tự thì cậu ta liền mở mắt, ngồi dậy, rồi bất chợt đưa cả hai tay ra mà bốc lấy miếng khinkal to nhất. Từ giây phút đó, sức mạnh của người cha đã truyền sang đứa con. Đứa bé ăn khinkal nghiến ngấu như một con sư tử đói. Đứa bé lớn như thổi, không phải từng ngày mà là từng giờ. Chẳng bao lâu nó đã trở thành một chàng trai khỏe mạnh, cân đối. Bệnh tật của nó tất nhiên là cũng biến mất.
Có thể là trên thực tế không có chuyện đó, nhưng tôi biết chắc một điều: khi văn học không còn được nuôi dưỡng bằng những gì cha ông để lại, mà chuyển sang xơi những thứ cao lương mỹ vị đem từ nước ngoài đến, khi văn học trút bỏ những phong tục, tập quán, ngôn ngữ và tính cách của dân tộc mình, khi văn học thay lòng đổi dạ đối với dân tộc mình, thì nó sẽ trở nên ốm o, quặt quẹo, chết dần chết mòn mà không một thứ thuốc nào có thể cứu chữa được.
Đến đây, có lẽ tôi kết thúc câu chuyện của mình. Bắt đầu viết vào mùa hè nóng bức mà bây giờ đã là mùa thu lạnh dịu. Bắt đầu viết nơi xóm làng trên núi, mà bây giờ đặt dấu chấm hết ở một thành phố đông nghịt người. Viết dòng đầu khi trời mới sáng mả bây giờ đêm đã về khuya, đèn ngoài phố đã tắt.
Tôi đang trở về từ một chuyến đi xa. Tôi đang vội đến đầu làng. Tôi dắt con ngựa của mình dọc theo con đường ngoằn ngoèo, dài dặc. Bây giờ tốt nhất là cởi tháo yên cương cho ngựa, vỗ vỗ vào cổ nó, rỏi thả ra bãi cỏ rộng ven rừng.
Còn tôi có lẽ sẽ ngồi xuống bên bếp lửa. Có lẽ tôi sẽ rút thuốc ra, châm lửa hút. Người ta nói chính đức Allah cũng rút thuốc ra hút khi kết thúc câu chuyện ly kỳ kể cho các cận thần, hay trước khi ban phát những điều giáo huấn. Ông ta hút, rít một hơi dài và ra chiều nghĩ ngợi.
Chúng ta cũng nghĩ ngợi. Không phải con đường nào cũng kết thúc tốt lành. Không phải cuốn sách nào cũng ra đời may mắn. Sáng sớm mai tôi sẽ lại bắt tay vào viết cuốn sách mới, tôi sẽ lại lên đường.
Còn bây giờ, tôi đã mệt sau chặng đường xa. Tôi cuốn mình vào trong tấm áo khoác và nằm xuống ngủ.
Chúc các bạn ngủ ngon, những người bạn tốt bụng của tôi. Đã bình yên bắt đầu, cũng xin bình yên kết thúc.
Vaxalam, vakalam [10]. Amen!
([10])Vaxalam, vakalam: “Chúc nhà bạn yên lành, tôi xin dừng lời”. Mấy tiếng người Avar thường dùng khi kết thúc cuộc nói chuyện. (N.D)
HẾT TẬP I
BẠN ĐỌC VIỆT NAM QUÝ MẾN
Các bạn đã đọc xong tập một “Đaghextan của tôi” của Raxun Gamzatốp. Trong cuốn thứ nhất này tác giả giành mối quan tâm lớn nhất cho cá nhân, đôi khi đó chỉ là số phận riêng của mình, là công việc sáng tác; tác giả đã kể vê “cậu con trai không ai biết đến của nhà thơ Đaghextan Gamzát rời làng bản, lúc đầu tới Makhatkala sau đó tới Matxcơva” đã trở thành nhà thơ như thế nào; tác giả kể về cha, mẹ mình, về bạn bè và những người cùng làng bản.
Tập hai “Đaghextan của tôi” giới thiệu với các bạn những suy nghĩ của Raxun Gamzatốp về số phận của nhân dân, về lịch sử dân tộc. Trong cuốn thứ hai này tác giả hướng tới những trang quá khứ, nhắc tới những huyền thoại thơ mộng, làm sống lại những truyền thuyết cổ, suy nghĩ rất hiện đại về nhà nghệ sĩ và lao động của anh ta.
Đánh máy: Thích Là Bụp - otofun.net; Ongrungf; lurang
Nguồn: tve-4u - Nhà xuất bản Cầu vồng - Mátxcơva1984
Người biên tập: Bùi Văn Hòa
Họa sĩ: Enkônina N. M.
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 7 năm 2016