CHA VÀ MẸ. LỬA VÀ NƯỚC
Đaghextan của tôi
CHA VÀ MẸ. LỬA VÀ NƯỚC
-Đừng đùa với lửa! - bố tôi đã nói
-Đừng ném đá xuống nước - mẹ tôi thường bảo
Mỗi người thường nhớ đến mẹ mình theo cách riêng. Tôi nhớ lại mẹ tôi vào những lúc sáng sớm, ban ngày và buổi tối.
Sáng sớm, bà mang về nhà chiếc bình đầy nước lấy từ nguồn suối núi. Bà mang bình nước như mang vật gì quý giá, thiêng liêng. Bà chậm rãi bước lên từng bậc đá, khẽ đặt bình nước xuống và bắt đầu nhóm lửa. Bà nhóm lửa lên như nhen nhúm một cái gì quý giá nhất. Bà nhìn lên ngọn lửa với vẻ vừa nâng niu vừa thán phục. Khi đợi lửa bén lên, bà nhẹ nhàng đưa nôi. Bà đưa đẩy chiếc nôi dường như trong đó có một vật gì quý giá nhất.
Ban ngày mẹ tôi lại cầm chiếc bình không và đi lấy nước trên nguồn. Sau đó lại nhóm lửa, và rồi lại đưa nôi. Buổi tối bà lấy nước vào bình, đưa nôi và nhóm lửa.
Bà làm như vậy trong mọi ngày - xuân, hạ, thu, đông. Những việc ấy, bà làm với vẻ khoan thai, chậm rãi đầy cẩn trọng, tựa hồ như đó là những gì cần thiết nhất quý giá nhất. Đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Nhóm lửa, đi lấy nước và đưa nôi. Đưa nôi, nhóm lửa và đi lấy nước. Tôi đã nhớ tới mẹ tôi với hình ảnh như thế. Khi nào đi lấy nước, bà đều dặn lại tôi: “Con nhớ trông lửa hộ mẹ”. Khi đun bếp, bà vẫn thường bảo tôi: “Con đừng làm tắt bếp, đừng đánh đổ nước vào”. Bà còn khẽ khàng nói, mỗi khi ru tôi: ”Đaghextan có cha là lửa, có mẹ là nước”.
Những ngọn núi của chúng tôi thật giống như những ngọn lửa đã hóa thành đá. Và đây, chúng ta hãy cùng nhau nói đến ngọn lửa:
Tia lửa lóe lên, khi viên đá đập vào viên đá
Tia lửa lóe lên, khi đá tảng cùng đá tảng xô vào nhau
Tia lửa lóe lên, khi bàn tay cùng bàn tay vỗ nhịp
Tia lửa lóe lên, khi lời nói cùng lời nói tuôn trào
Tia lửa lóe lên, khi dây đàn zuma có ngón tay chạm đến
Tia lửa lóe lên, khi ánh mắt người đàn bà, người hát kết giao
Thậm chí cả chiếc mũ của người dân miền núi làm bằng lông cừu non cũng có khi lóe lửa, đặc biệt là khi người ta cọ sát nó.
Khi người dân vùng cao đội chiếc mũ như vậy đứng lên trên mái nhà thì tuyết trên ngọn núi gần đấy cũng bắt đầu tan ra.
Và chính tuyết cũng lấp loáng mầu lửa sáng. Đôi sừng chú bò rừng dừng chân trên đỉnh núi sớm mai cũng nhuốm màu lửa. Và những vách đá hoàng hôn cũng bồng bềnh trong lửa ánh lửa hồng.
Lửa còn ẩn trong lời nói của câu ngạn ngữ miền cao, và cả trong nước mắt của người phụ nữ vùng núi. Lửa ở cuối nòng khẩu súng trường và trên lưỡi dao găm vừa rút ra khỏi vỏ. Nhưng ngọn lửa hiền hòa nhất, ấm áp nhất - là trong trái tim người mẹ và trong bếp lò của mọi ngôi nhà miền núi.
Khi người dân vùng cao muốn nói điều gì tốt đẹp về mình hoặc muốn tự khen, anh ta thường nói: ”Mình chưa từng phải đi xin lửa nhà ai cả”.
Khi người miền núi muốn nói về một ai đó xấu bụng, bẩn tính, họ ví von: “Chẳng khác nào khói chui từ ống lò ra, bé như cái đuôi chuột”.
Khi hai bà đứng tuổi ở vùng cao cãi nhau, một bà gào lên: “Cầu cho lửa trong bếp nhà mày không bén nổi!”, còn bà kia thì đáp lại: “Cầu cho lửa đã bén trong lò nhà mày tắt dúi tắt dụi đi!”.
Muốn nói tới một dũng sỹ, người ta thường dùng câu: “Đó không phải là người mà là lửa!”
Nghe xong những câu thơ buồn tẻ, nguội lạnh của một người trẻ tuổi, bố tôi bảo anh ta:”Dường như trong thơ anh có đủ các thứ. Cũng có thể như là có nhà, có bếp lò, có củi, có ấm, thậm chí sẽ có thịt trong nồi. Nhưng không có lửa. Nhà sẽ lạnh, ấm sẽ không reo, thịt không nuốt được. Không có lửa thì cũng không có sự sống! Vậy là thơ anh cần có lửa!”
Có lần người ta hỏi Samin:” Thưa thủ lĩnh, làm thế nào mà xứ Đaghextan nhỏ bé, dở đói dở khát này lại có thể chống chọi hàng thế kỷ với những quốc gia hùng mạnh và đứng vững được trước các nước đó. Làm sao mà Đaghextan có thể ba mươi năm liền chiến đấu cùng Sa hoàng hùng cường?”
Samin trả lời: “Đaghextan không bao giờ có thể chịu đựng được một cuộc chiếc đấu như vậy, nếu trong lồng ngực mình không bùng cháy ngọn lửa tình yêu và lòng căm thù. Chính ngọn lửa này đã sáng tạo nên những kỳ tích và làm ra những chiến công. Chính ngọn lửa đó là tâm hồn của Đaghextan, nghĩa là chính Đaghextan”
Samin nói tiếp: “Bản thân ta là người như thế nào, - là con một người làm vườn ở làng Ghimrư xa xôi. Ta chẳng cao hơn người khác, chẳng nở nang, vạm vỡ hơn ai Hồi nhỏ ta là một đứa trẻ quặt quẹo, ốm yếu. Nhìn thấy ta, những người lớn tuổi đều lắc đầu nói, chắc ta sẽ sớm chết yểu thôi. Mới đầu ta có tên là Ali. Nhưng khi ta bị ốm thì gia đình đổi tên ta thành Samin, với hy vọng rằng bệnh tật sẽ theo tên cũ mà bỏ đi. Ta không được nhìn thế giới rộng bên ngoài. Ta không được học hành ở những thành phố lớn. Ta chỉ học ở trường làng. Bố mẹ ta chất hàng hóa lên lưng lừa và bảo tao đi chợ Temir-Khan-Sura để bán đào của làng Ghimrư. Ta đã đi rất lâu bên cạnh con lừa ấy trên những con đường núi đã gồ ghề. Và rồi một lần có chuyện xảy ra. Chuyện qua đã lâu nhưng ta không quên, và cũng không muốn quên. Bởi vì vào giờ phút đó, tinh thần ra bỗng thức dậy - đó là ngọn lửa của ta. Chính là vào giây phút đó ta đã trở thành Samin.
Cách chợ Temir-Khan-Sura không xa, ở rìa một làng, ta gặp một đám thanh niên nghịch ngợm định trêu chọc ta. Một đứa giật lấy mũ trên đầu ta rồi bỏ chạy. Khi ta đuổi theo thằng giật mũ thì mấy đứa còn lại tiến đến dỡ bỏ mấy túi hàng đựng hoa quả trên lưng lừa xuống. Tất cả bọn chúng đều cười rộ lên và tỏ ra thích chí trước vẻ mặt bối rối, tuyệt vọng của ta. Trò đùa của mấy tên đó, ta không thú vị gì, và ngọn lửa xưa nay chưa từng thấy trong ta bỗng bùng lên. Ta rút dao găm ra khỏi bao, con dao có chiếc cán bằng xương mầu trắng. Đến cổng làng thì ta đuổi kịp tên giật mũ. Gạt nó ngã xuống một rãnh nước bẩn, ta đặt mũi dao nhọn vào cổ họng nó, nó vật nài xin tha tội.
- Đừng có mà đùa với lửa, nghe chưa?
Để nguyên tên trêu chọc nằm trong rãnh nước, ta ngoái đầu lại nhìn. Mấy đứa dỡ hàng trên lưng lừa của ta bây giờ đã chạy tản ra, mỗi đứa một ngả, Lúc ấy ta trèo lên một mái nhà và gọi to:
- Ê, mấy đứa kia! Nếu chúng mày muốn áp bụng vào lửa dao găm của tao thì cứ việc diễn lại nhưng điều vừa làm đi! Mấy tên trêu chọc đã không bắt ta phải nói tới lần thứ hai.
Cũng vào ngày đó, ngoài chợ ta nghe thấy các cụ già kháo nhau: “Chúng ta sẽ còn được nghe nhắc đến chàng trai này nữa!”
Ta kéo chiếc mũ thấp xuống lông mày, thúc chú lừa hiền lành của mình bước nhanh và đi tiếp. Nào ta có ưa sự ồn ào, ẩu đả? Chính bọn chúng đã làm ta nổi giận, đã làm bùng lên ngọn lửa trong tim ta.
Nhiều năm qua đi. Có lần, vào một buổi sáng ta đang làm việc trong vườn. Ta xắn tay áo, mang đất đen từ phía dưới lên đặt trên phiến đá lớn rồi đem rải đều quanh từng gốc cây. Ta bê đất lên bằng một chiếc mũ cũ. Đến thời gian đó ta đã mang vài vết thương trên mình. Ta bị thương trong các trận chiến đấu. Thế rồi nhiều người tìm đến gặp ta, họ là những người dân vùng núi từ các làng khác, có làng ở rất xa. Họ yêu cầu ta thắng ngựa và khoác vũ khí lên mình. Ta không muốn cầm khí giới, ta từ chối lời họ, bời vì ta yêu nghề làm vườn hơn chuyện đánh nhau.
Lúc ấy, những phái viên của các làng mới nói với ta:
- Hỡi Samin! Ngựa của ngoại bang đang uống nước nguồn chúng ta, bọn ngoại bang thổi tắt lửa đèn của chúng ta. Liệu anh sẽ tự trèo lên mình ngựa hay phải chờ chúng tôi giúp?
Và ngọn lửa trong lồng ngực ra bỗng bùng lên, như trong lần ta bị mấy thằng nghịch ngợm trêu chọc, giật mũ và dỡ hoa quả từ trên mình lừa xuống.
Vẫn ngọn lửa ấy, nhưng thậm chí còn nóng sáng hơn. Ta quên đi khu vườn của mình, ta quên đi tất cả. Gió, mưa, tuyết lạnh cũng không thể dập tắt ngọn lửa đã hai mươi lăm năm nay thúc dục ta đi khắp các triền núi. Những xóm làng bốc cháy, những cánh rừng mù mịt khói, lửa lóe lên sau làn khói trong những trận đánh, cả miền Kapkazơ bùng cháy. Lửa là như thế đó!”
Người ta kể lại rằng, thời xưa khi kẻ thù vượt qua biên giới Đaghextan, một đống lửa cao bằng ngọn tháp được đốt lên trên đỉnh núi cao nhất. Trông thấy ngọn lửa đó, tất cả các làng đều đốt lửa lên. Đó chính là tiếng gọi buộc người dân miền cao cưỡi lên con ngựa chiến. Các kỵ binh đầy đủ súng ống…Kỵ binh và bộ binh cùng đáp lại lời kêu gọi của lửa. Chừng nào những đống lửa trên núi cao còn cháy, thì các cụ già, đàn bà, con trẻ ở lại trong các làng bản đều hiểu rằng kẻ thù còn ở trên địa phận Đaghextan. Lửa tắt đi - vậy là mối nguy hiểm đã qua và hòa bình lại đến trên mảnh đất của cha ông. Trong suốt lịch sử dài lâu của mình, biết bao lần người dân miền núi đã phải đốt lửa làm hiệu trên đỉnh núi cao!.
Ngọn lửa ấy đã vừa là ngọn cờ chiến đấu, vừa là mệnh lệnh ban ra…Ngọn lửa ấy đối với người dân vùng cao đã thay cho kỹ thuật hiện đại: điện đài, điện báo, điện thoại. Trên những sườn núi ngày nay còn lộ ra những khoảng lớn không còn cây, hệt như đó là nơi những con trâu khổng lồ đã nằm xuống.
Người miền núi thường nói: vị trí thích hợp nhất đối với con dao găm là vỏ bọc, đối với lửa là bếp lò, đối với đàn ông là nhà mình. Nhưng một khi lửa bứt ra khỏi bếp lò và cháy bùng trên đỉnh núi cao, thì dao găm nằm yên trong bao không còn là dao găm và người đàn ông ngồi yên bên bếp lò nhà mình không còn là đàn ông nữa.
Những người chăn cừu miền Đaghextan thường phân công nhiệm vụ cho nhau rất nghiêm ngặt. Một số người thì chăn cừu ban ngày, còn những người khác thì giữ vị trí này ban đêm cho đàn cừu khỏi bị sói ăn thịt. Nhưng trong bọn họ còn có người không chăn cừu mà cũng không canh sói. Anh ta được giao nhiệm vụ trông coi đống lửa, anh là là người giữ gìn ngọn lửa. Anh ta còn được gọi là “người giữ lửa”, “người canh lửa”. Không thể nói rằng đó là nghề nghiệp, rằng một người nào đó chỉ làm có mỗi một việc là canh lửa. Nhưng khi đêm sắp xuống, những người chăn cừu thế nào cũng phải chọn ra một người như thế để tin cậy giao lửa cho anh ta.
Thật là một việc cần thiết và khó khăn! Tất cả đều phụ thuộc vào lửa, từ chuyện nấu ăn, sưởi ấm, đến hong quần áo, lấy ánh sáng, chuyện trò và hút thuốc - một việc thật là cần thiết trong câu chuyện trên thảo nguyên của những người đàn ông.
Trong những túp lều chăn cừu không có bếp lò. Lửa được nhen lên ngoài trời và đòi hỏi phải được trông coi chăm chút đầy vất vả. Nhiều khi phải lấy lòng bàn tay, lấy mũ, lấy vạt áo khoác ngoài ra mà ngăn lửa khỏi bị gió, bị mưa và bị cả bão tuyết nữa làm tắt.
Nhưng lẽ nào lại không thể gọi các dũng sỹ, các nhà thơ, người kể chuyện cổ tích, ca sỹ, nhạc sỹ, và người nhảy múa là những “người giữ lửa”?
Trên đất nước chúng ta có rất nhiều những người như thế, họ là những người mang trong trái tim mình, giữ gìn và truyền lại cho người khác ngọn lửa vĩnh cửu, ngọn lửa của thơ ca, ngọn lửa của lòng chung thủy, ngọn lửa của tình yêu Tổ quốc.
Tôi cảm thấy trong lòng mình cũng có những tia sáng ấm áp của ngọn lửa vĩnh cửu ấy. Và tôi cũng thấy rõ nghĩa vụ của mình là làm sao cho đốm lửa đó không tàn. Nhen nó lên, làm cho nó tỏa sáng và sưởi ấm, để cho người đi sau tôi có thể nhận được nó từ tôi và mang nó tiếp đi xa hơn.
Cần phải gìn giữ ngọn lửa trong lòng mình cũng như thể gìn giữ chính bản thân mình khỏi ngọn lửa ở bên ngoài, ngọn lử bình thường theo nghĩa đen.
Trong ngày hội của làng, sau khi hát bao giờ cũng đến vui đùa, sau nhạc và múa là đến phút trò chuyện. Sau những lời cao siêu về lửa, chúng tôi sẽ kể về câu chuyện người tuyết đã được tìm kiếm ở miền Đaghextan như thế nào.
Chính tôi đã chứng kiến cảnh những người dân vùng cao đã thú vị thế nào trước việc một số cán bộ khoa học đến vùng đó tìm kiếm Kaptar, tức là người tuyết.
Người Avar nói với họ:”Các ông đến vùng người Đarghin ở mà tìm, có thể người các ông định tìm ở đấy đấy”.
Đến lượt mình người Đarghin lại bảo họ đến làng người Lắc: Người Lắc bảo họ đến làng người Lêzghin: Người Lêzghin bảo họ đến chỗ người Kumức: người Ku mức bảo họ tới vùng thảo nguyên nơi người Nôgai ở: Người Nôgai lại bảo họ đến với người Tabaxaran…và các nhà học giả họ cứ thế mà chạy vòng quanh khắp xứ Đaghextan.
Mệt mỏi rã rời, họ dừng chân nghỉ lại ở làng Kicuni, chíng là nơi có người khổng lồ của chúng tôi là Ôxman Apđurắcmanốp ở. Có thể một số người đọc những dòng này đã từng thấy Ôxman trong phim “Đảo vàng”. Trong phim ấy, anh ta đã túm một lúc ba người và ném từ trên boong tàu xuống biển.
Tình cờ chiếc xe hơi chở mấy vị học giả nọ bị sa lầy tại một dòng suối nhỏ gần làng Kicuni. Các nhà khoa học đó ra sức đẩy người đẩy xuôi chiếc xe, nhưng chẳng ăn thua gì.
Và lúc ấy, Ôxman đang ngồi trên mái nhà mình, Anh ta nhìn thấy mấy người nọ đang bất lực luẩn quẩn bên chiếc xe, bèn tụt xuống rồi tiến đến phía họ với phong độ chậm chạp, chắc nịch của người khổng lồ. Anh ta đặt tay vào chiếc xe rồi nhấc nó lên, để sang chỗ đất khô như nhấc một con gián không bò được ra khỏi chiếc bát sứ bôi trơn mỡ.
Mất nhà khoa học nọ thì thào, to nhỏ với nhau ra vẻ hồ nghe: liệu đây có phải là người tuyết đến giúp chúng ra chăng? Nhưng Ôxman đã hiểu ra câu chuyện của bọn họ và nói:
- Các ông đừng tìm kiếm, chỉ tốn công vô ích thôi. Người vùng núi chúng tôi không phải làm bằng tuyết mà bằng lửa. Giả sử nếu không có lửa trong tôi thì làm sao tôi có thể nhấc xe ô tô của các ông ra khỏi đám bùn bẩn này?
Sau đó anh ta chậm rãi quấn thuốc lá, từ tốn lấy bật lửa ra, châm thuốc hút và tuôn ra là cả một chuỗi cười rung rung từ lồng ngực đồ sộ, chuỗi cười vang như sấm, chẳng khác nào tiếng đá lở từ trên núi cao lăn xuống, tiếng thác nước đổ làm mài mòn vách đá, tiếng đất chuyển làm rung ngọn núi.
Nghe xong câu chuyện này, Abutalíp bàn thêm: “Xe hơi của những ông học giả vô tích sự như vậy thế nào cũng phải bị sa lầy!”.
Hồi thăm Ấn Độ, tôi có sự ngày hội lửa. Thật là hay khi con người có một ngày hội như thế! Người ta đã tặng tôi một ngọn đèn đang cháy, và tôi đã mang về tận Đaghextan như lời chào của đất nước xa xôi ấy đối với xứ sở đầy núi đá của tôi. Bởi chúng ta thường vẫn nói: lời chào nồng nhiệt! (“lời chào nóng lửa”) - “Anh làm ơn chuyển tới họ lời chào nồng nhiệt!”
Có thể rằng đã có thời thay cho lời chào từ cửa miệng, người ta đã chuyển ngọn lửa cho nhau chăng? Ngọn lửa hiền hòa, không phải ngọn lửa của đám cháy, của chiến tranh, mà ngọn lửa trong bếp lò, ngọn lửa ấm áp và tươi sáng.
Ở miền chúng tôi có phong tục: vào buổi tối ngày đông đầu tiên (đôi khi có cả tối ngày xuân thứ nhất) các làng miền cao đốt lên những đống lửa chào mừng trên vách núi. Mỗi làng nhóm một đống lửa. Những đống lửa ấy có thể nhìn thấy từ rất xa. Qua những khe núi, những vực sâu và những vách đá, các làng cao chúng mừng nhau, nhân mùa đông hay mùa xuân đã tới. Những lời chào bằng lửa, những lời chúc được kết bằng lửa!
Chính tôi cũng đã nhiều lần nhóm lửa như thế trên vách núi Khamirkhô nằm nghiêng nghiêng bên làng Xađa quê tôi.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà máy đầu tiên của Đaghextan có tên gọi là “Ngọn lửa Đaghextan”. Bây giờ đã có nhiều ánh sáng thêm vào những đống lửa. Chim đậu trên cột cao mang dòng điện cũng quen như đậu trên cành cây. Chim bồ câu không còn sợ những ngọn đèn điện tỏa sáng trên vách núi.
Có lần tôi nhìn thấy biển Caxpie bùng cháy. Suốt một tuần sóng biển không dập tắt nổi đám cháy dầu trên đó.
Chuyện xảy ra cách thành phố Idbêcbasơ không xa. Khi lửa bắt đầu lụi và dần tắt, cảnh vật bỗng gợi nhớ tới hình ảnh con tầu đang dần chìm.
Biển có thể tắt đi, nhưng ngọn lửa cháy trong lồng ngực Đaghextan thì không bao giờ tàn lụi. Chẳng lẽ ngọn lửa cháy trong lồng ngực con người lại sợ nước sao?
Thâm chí ngọn lửa ấy còn tìm đến với nước, còn đòi có nước, Chẳng phải cặp môi khô héo, nứt nẻ, nóng bỏng vì ngọn lửa từ bên trong đã từng thì thào van lơn: “Nước, nước!” đó sao?
Vậy là nước và lửa đã cùng đi bên nhau
Mẹ tôi thường thích nói: Bếp lò là trái tim của ngôi nhà, còn nguồn nước là trái tim của làng.
Núi cầu xin lửa, thung lũng cầu xin nước. Đaghextan - đó vừa là núi, vừa là thung lũng. Đaghextan cầu xin cả lửa và nước.
Nếu ai đó, khi lên đường hoặc lúc trở về nhà đã soi mình xuống nguồn suối trong trẻo ven làng như soi vào gương, thì điều đó có nghĩa rằng con người ấy mang trong tim tình yêu và ngọn lửa. Từ xưa người ta đã tin như thế.
Và có phải cả miền Đaghextan đã soi mình trong gương biển Caxpie? Có phải cả Đaghextan giống một chàng trai vạm vỡ, nồng nhiệt vừa bước ra khỏi làn nước mát?
Đaghextan của tôi đã nghiêng mình bên biển Caxpie, tựa như người dân vùng cao soi mình vào làn suối trong sửa lại nếp áp và bộ ria mép.
Người vùng cao thường rủa: “Đứa nào làm bẩn nguồn nước thì cầu cho ngựa của nó chết rấp!”. Hay: “Cầu cho tất cả các suối quanh nhà mày khô kiệt!”
Còn đây là lời khen của người vùng núi: “Chắc dân làng này tốt lắm: nguồn nước và nghĩa địa của họ sạch sẽ, tươm tất lắm!”
Ở miền đất chúng tôi, người ta đã đào nhiều giếng nước, mở nhiều nguồn suối để tưởng nhớ đến những chiến sỹ đã hy sinh, có khi những nơi ấy còn mang tên của họ: nguồn suối Ali, nguồn suối Omar, giếng nước Khátgi-Murát, nguồn suối Makhơmút.
Vào buổi sớm mai và khi chiều xuống, các cô gái đặt bình trên vai đi tới nguồn suối lấy nước thì các chàng trai cũng tìm tới đấy để nhìn ngắm các cô và tìm chọn người yêu cho mình. Bao nhiêu mối tình đã nhen lên từ bên bờ nguồi suối ấy, bao nhiêu tổ ấm đã bắt đầu kết se ở đấy!
Anh không biết bài ca em hát về ai?
Hãy đến bên nguồn suối
Rồi anh sẽ biết, bài hát ấy về ai
Nhà thơ Makhơmút của chúng ta đã viết như thế
Có lần trên đường về xóm núi, tôi dừng lại bên nguồn suối Gôxátlin. Tôi nhìn thấy một khách bộ hành đang cúi xuống, vừa uống ừng ực từng hớp nước vừa trầm trồ:
- Chà, mát quá!
- Anh lấy cái này múc mà uống, - tôi đưa cho anh ta chiếc cốc.
- Tôi không thích đeo găng tay khi ăn đâu, - người bộ hành trả lời.
Bố tôi thường nói: chẳng có thứ nhạc nào êm tai hơn tiếng mưa rơi và tiếng những dòng suối chảy. Không bao giờ có thể chán khi nhìn ngắm và nghe dòng suối chảy.
Vào mùa xuân, khi tuyết trên núi bắt đầu tan, mẹ tôi có thể ngồi hàng giờ liền ngắm nhìn những con suối nhỏ đổ xuống thung lũng. Từ mùa đông bà đã chuẩn bị sẵn những chum vại, để đến mùa hè đặt chúng dưới máng mà hứng nước mưa.
Hồi nhỏ, trò chơi thích thú nhất của tôi là đi chân không lội nước ở những vũng nước mưa. Mặc cho mưa rơi xối xả, bọn trẻ chúng tôi vẫn cắm cúi đắp những con đập xinh xinh ngăn dòng suối lại, bắt nó biến thành những cái hồ nho nhỏ.
Tôi vẫn thường hình dung con chim sảng khoái đến thế nào khi được uống nước mưa đọng trên vách đá.
Samin thường nói: “Mặc cho kẻ thù chiếm được cả làng ta, chiếm hết cả cánh đồng của ta. Nguồn suối còn nằm trong tay chúng ta, chúng ta sẽ thắng”
Khi có kẻ thù tiến công, vị thủ lĩnh Hồi giáo nghiêm khắc bao giờ cũng ra lệnh bảo vệ nguồn suối trước nhất. Khi tiến công vào vùng quân địch, ông ra lệnh chiếm nguồn suối đầu tiên.
Ngày xưa, khi ái đó nhận ra kẻ thù có nợ máu với mình đang tắm dưới sông thì anh ra sẽ không dìm chết kẻ thù của mình chừng nào kẻ thù chưa lên bờ và chưa cầm vũ khí.
Nhưng thường thì tôi nhớ đến phong tục khác cũng gắn liền với nước, tuy hoàn toàn yên lành. Phong tục đó có tên gọi là “chú lừa cầu mưa”.
“Cái nóng trưa hè trong thũng lũng Đaghextan” - chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà thơ xưa đã viết như thế. Cái nóng trưa hè ở miền chúng tôi quả là khủng khiếp, gay gắt. Đất khô nẻ, đá nứt ra như bị hun nóng trong lò. Cây lá héo hon, cánh đồng khô cứng. Tất cả đều ngong ngóng trông mưa, từ cây cối đến chim chóc, bầy cừu và tất nhiên là con người nữa.
Lúc ấy dân lành mới chọn lấy một chú bé, khoác lên mình nó chiếc áo kết bằng đủ thứ cỏ héo khô dưới ánh mặt trời - trông cậu ta như một đứa trẻ người da đỏ. Đó chính là “chú lừa cầu mưa”. Lũ trẻ tương tự như nó buộc dây dắt nó đi khắp làng vừa đi vừa hát bài khấn khứa ê a:
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp… [11]
Những người lớn tuổi đổ ra đường: chạy tới “chú lừa cầu mưa” lấy bình, lấy chậu té nước vào nó: đế theo bài hát của lũ trẻ, họ lầm rầm khấn: “Cầu trời phù hộ!...Cầu trời phù hộ!...”
Có lần cả tôi cũng được làm “chú lừa cầu mưa”. Dân làng té nước vào tôi nhiều đến mức lượng nước ấy có lẽ cũng phải bằng nửa trận mưa chứ chẳng chơi!
Nhưng trời cao ít khi làm theo những lời bài hát của chúng tôi. Mặt trời vẫn chói chang, gay gắt. Nó hun nóng cả miền Đaghextan như chụp lên tất cả một cái lồng lửa khổng lồ. Mặt trời đem tới sự phiền muộn. Và chúng tôi đã từng dùng chữ “Mặt trời buồn bã”. Cả miền đất ấy đã nằm dưới mặt trời buồn bã hàng trăm, hàng nghìn năm. Tính trên khắp cả châu Âu thì làng nhỏ Guníp miền Đaghextan là nơi có số ngày nắng cao nhất. Làng quê Xađa của tôi cũng không chịu thua kém. Và các làng khác cũng vậy. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi đó là “Những làng khát nước”
Tôi nhớ lại gương mặt bơ phờ của mẹ tôi khi bà trở về nhà với một bình nước trên lưng và một bình nước cầm tay. Cách làng ba cây số mới có nước.
Tôi nhớ lại gương mặt rạng rỡ của mẹ tôi, khi mưa xuống, khi mặt đất trở nên ướt át, nước chảy xối xả trên máng tôn, và mấy chiếc chum đặt dưới máng đầy ắp nước - nước tràn ra khỏi chum.
Tôi nhớ lại bà già lưng còng tên là Khabibát. Sáng nào bà cũng vác thuổng trên vai đi ra ngoài làng, hôm đào chỗ này, hôm đào chỗ khác, khao khát tìm được nước, và lúc nào bà cũng đi tìm kiếm nó.
Mọi người đều biết rằng bà cố công vô ích, nhưng không một ai nói ra điều đó với bà: chỉ có tôi, một đứa trẻ hấp tấp bộp chộp, đã có lần hỏi bà:
-Bà Khabibát ơi, bà cố công vô ích thôi bà ạ, bà cứ làm thế làm gì cho phí sức, ở đây chẳng có tí nước nào đâu!
Bố tôi rất giận tôi về chuyện đó.
- Nhưng quả thật là không có nước cơ mà bố!
- Con có biết không, có khi còn hết sạch cả bánh mỳ nữa. Nhưng liệu có phải vì thế mà nên cười người ta? Con hãy ghi nhớ điều này: đừng bao giờ cười người đói khổ và những kẻ khát đi tìm nước.
- Nhưng chẳng phải chính bố cũng đã từng viết bài thơ vui về chuyện những người Inkvatrulin định làm cầu dài ra thêm, cho nước chảy qua dưới đó nhiều lên đấy thôi?
- Đó là tiếng cười qua nước mắt con ạ. Trẻ người non dạ thì chưa hiểu được điều này đâu. Con còn chưa biết, đối với Đaghextan, “nước” có nghĩa là thế nào. Bà lão Khabibát đã phải có khát vọng đến thế nào khi đi tìm nước ở nơi không có. Nhưng mà thôi, tốt hơn cả là ta im lặng, trời đã mưa rồi.
- Vào lúc đó, quả là trời đã mưa lâm thâm, lất phất thật.
- Chim ơi, sao từ sáng đến giờ chim không hót?
- Trời mưa, tôi còn phải lắng tai nghe
- Còn anh, sao anh im lặng thế nhà thơ?
- Trời mưa, tôi còn phải lắng lòng nghe.
Bố tôi lần nào cũng nói rằng, trong đời ông ngày vui nhất đời là ngày mà nước chảy về làng theo ống dẫn từ núi xa. Trước đó, ngày nào bố tôi cũng vác thuổng cuốc đi làm đường ống dẫn nước cùng với mọi người. Tôi còn nhớ rất rõ cái ngày nước về ấy. Khi nước chảy tới, bố tôi cầm ném cả hoa vào đấy.
Dân làng cử một bà sống thọ tới một trăm tuổi để hứng bình nước đầu tiên. Bà già lấy nước, rót nước ra cốc và mang đến cho bố tôi.
Là một người đã từng được tặng nhiều huân chương, nhiều giải thưởng, bố tôi đã nói rằng ông chưa từng bao giờ được nhận phần thưởng nào quý giá hơn thế. Vào đúng ngày hôm đó, ông đã làm một bài thơ về nước. Ông nói với bầy chim để chúng từ nay đừng có tự khoe khoang, vì chúng tôi, những người dân vùng núi, bây giờ cũng được uống nước không kém gì chúng. Ông nói rằng trong khắp mọi ngày hội, ngày cưới ông cũng chưa từng được nghe âm điệu nào ngọt ngào hơn, thanh khiết hơn tiếng nước chảy róc rách.
Ông quả quyết rằng không một chú ngựa có nước phi tuyệt đẹp nào lại có thể có được dáng đi uyển chuyển như ở người phụ nữ đang đi lấy nước. Ông cám ơn chiếc thuổng, chiếc cuốc, cám ơn những đường ống dẫn, cảm ơn Cách mạng. Ông nhớ lại thời người ta phải để tuyết tan bên cạnh bếp lò để trữ nước. Dạo ấy, người phụ nữ vùng cao đã sớm bị còng lưng vì phải gánh những vò nước quá nặng. Phải rồi, đó quả là một ngày vĩ đại đối với bố tôi.
Tôi còn nhớ cái nắng tháng bảy ở Makhátkala. Bố tôi bị ốm nặng, bên cạnh là các bác sỹ với đủ các thứ thuốc men. Ông nói: “Tôi khó chịu lắm. hàng chục thứ kìm cặp cứ như kéo da thịt tôi về mọi phía khác nhau”.
Ông không uống thuốc, vì cho rằng uống các thứ đó bây giờ đã muộn màng và vô ích. Thậm chí ông cũng không cho chúng tôi sửa lại gối vì thấy việc đó chẳng có nghĩa lý gì. Khi ông đã yếu lắm rồi, ông bèn gọi đến và nói:
- Có một thứ thuốc….mà uống cái đó bố sẽ khỏe hơn…
- Thuốc gì hở bố?
- Ở khe núi Buxráp có một cái giếng nhỏ…Nguồn nước trong…Chính bố đã tìm ra….Cho bố hớp nước ấy…
Ngày hôm sau, người phụ nữ vùng cao đã mang đến bình nước lấy từ giếng ấy. Bố tôi uống một hớp rồi nhắm mắt lại
- Xin cảm ơn, bác sỹ của tôi.
Chúng tôi cũng không hỏi lại xem ông định nói điều gì: nói về cốc nước, về người phụ nữ miền cao, về nguồn nước tận lũng núi xa kia, hay là cả xứ sở thân yêu đã sinh ra nguồn nước ấy.
Mẹ tôi nói rằng: mỗi người cần phải có nguồn nước thiêng liêng của riêng mình. Bà còn nói người thợ gặt sẽ không bao giờ thấy mệt, nếu kế bên cánh đồng có dòng nước mát chảy róc rách.
Nhân dân còn truyền tụng câu chuyện rằng hồi trẻ, có lần Samin cùng thầy giáo của mình là Kazi-Mahômet bị quân thù bao vây trong một tháp canh ở lũng núi Ghimrư. Samin nhảy xuống giữa đám lưỡi lê của quân thù và dùng dao găm để mở đường thoát cho mình. Lần ấy ông bị mười chín vết thương, tuy vậy, ông vẫn thoát được và chạy lên núi. Dân vùng cao tưởng rằng ông đã chết. Khi ông xuất hiện giữa làng, thì mẹ ông - lúc này đã vận đồ tang - bèn kinh ngạc và sung sướng hỏi:
- Samin, con của mẹ, làm thế nào mà con sống được?
- Con lần được đến nguồn nước trên núi - Samin trả lời
Và khi dân chúng vùng cao nghe tin vị thủ lĩnh của họ, ông già Samin, đã bỏ mình trên sa mạc Aravi, sau khi ngã từ trên lưng lạc đà xuống, thì họ đã nói với nhau lúc ngồi trên ngưỡng cửa của ngôi nhà trên núi:
- Gần đây, chẳng có nguồn nước Đaghextan nào nữa!
Ở Nukha, tôi đến thăm mộ Khátgi-Murát, nhìn thấy tấm bia đá, khắc dòng chữ: “Đây là nơi yên nghỉ của sư tử miền Đaghextan” Tôi còn nhìn thấy chiếc đầu con sư tử đó.
- Sau đầu lại bị lìa khỏi thân như vậy?
- Vì ta bị lạc đường khi tìm về Đaghextan, tìm về Tổ quốc, tìm về nguồn nước.
Làng tôi nằm ở dưới chân núi. Trước mặt nó là bình nguyên, từ phía xa trên bình nguyên nổi lên thành Khunzắc.
Chung quanh thành ấy là các làng bản với khoảng cách khá xa. Thành Khunzắc hướng về các phía với đủ các thứ lỗ châu mai: để đe dọa, để kìm hãm, nhòm ngó. Nhiều khi từ những lỗ châu mai ấy đạn đã bay ra nhằm vào những người dân vùng cao không chịu sống nhẫn nhục, không chịu sống cúi đầu. Nhiều lần bồ câu Xađa đã hoảng hốt bay lên và lượn quanh vì tiếng súng nổ từ thành Khunzắc. “Ai có cặp mắt đáng gờm nhất, ai có tiếng nói ầm ĩ nhất?”. - Người vùng cao hỏi nhau. Và tự trả lời: “Cặp mắt và tiếng nói ấy là của thành Khunzắc”.
Nhưng đến thời tôi thì mối đe dọa của thành Khunzắc đã chỉ còn tồn tại trong các chuyện kể trong các huyền thoại. Bọn học sinh chúng tôi đã ném những miếng táo ăn thừa hay ném tuyết vào nhau qua những lỗ châu mai ấy. Có khi còn thổi vang kèn thiếu nhi lên ở đấy và cũng làm bầy chim câu đập cánh bay lên trên những vách đá chung quanh. Ở Khunzắc đã xây nên ngôi trường phổ thông mà tôi đã học bảy năm.
Dù tôi có đi đâu về đâu, dù tôi có ở đâu thì qua âm thanh hùng vĩ của bản giao hưởng, qua nhịp điệu của bài nhạc múa, tôi vẫn nghe thấy âm thanh lảnh lót thời thơ ấu của tôi, âm thanh rộn ràng, náo nức của hồi chuông rung trong trường, nghe đặc biệt hào hứng khi nó báo hiệu giờ học kết thúc. Đến nay, tôi vẫn nghe thấy hồi chuông ấy, nhưng nó không còn nhủ tôi ra hành lang, ra ngoài sân, ra khỏi trường, mà ngược lại, nó gọi tôi vào trường, vào lớp, vào ký túc xá.
Trong lớp tôi có ba mươi học sinh. Mỗi tháng một lần, mỗi người trong chúng tôi được nghỉ học để đi lấy nước. Nếu mắc khuyết điểm thì có thể phải làm việc đó hai ngày. Tuy vậy, dù không mắc khuyết điểm gì, tôi bao giờ cũng phải lấy nước hai ngày liền, bởi vì bạn tôi, tiếp sau tôi, là Apđunpapur Iuxupốp bao giờ cũng bị ốm sau khi sắp đến lượt. Tôi còn nhớ những lần lấy nước của tôi là rơi vào ngày mồng 7, mồng 8 hàng tháng.
Nguồn nước ở tận bên ngoài thành Khunzắc. Đi đến đấy rất dễ: thứ nhất là vì mang thùng không, sau nữa là đi theo con đường mòn nhỏ thoai thoải dốc xuống. Nhưng khi quay về, mọi chuyện đều khó hơn hẳn. Thêm nữa, cả một đám học sinh tay lăm lăm cầm ca nhôm đứng sau chỗ khuất đón chờ tôi tới. Các cậu đều khát nước. Chợt thấy tôi, tụi đó lao vào xô nước của tôi, múc hết một nửa và làm đổ ra ngoài một nửa: tránh được tụi đó đâu có dễ!. Thế mà tôi phải đem nước đến tận trường.
Có rất nhiều huyền thoại về nguồn nước ấy. Sau đây là một chuyện do bố tôi kể lại.
Bức tường thành lỗ chỗ vết đạn. Trên ngọn tháp của nó đã nhiều lần thay cờ, khi mầu đỏ, lúc màu xanh. Vào những ngày hội chiến, thành Khunzắc lúc trong tay Hồng quân, lúc rơi vào tay Bạch vệ: khi thì bọn Gôxinxki làm chủ trong đó, khi do hội du kích của Muxlim Ataép chiếm giữ. Sáu tháng liền du kích kiểm soát thành, đẩy lùi các đợt tiến công của kẻ thù. Nhưng mỗi ngày hai bên ngừng bắn nhau hai giờ. Vào ngày đó, các bà vợ những người bảo vệ thành đi ra ngoài lấy nước. Có lần đại tá Alikhanốp nói với đại tá Giafarốp:
- Hãy đừng cho phụ nữ đến nguồn nước. Làm như vậy thì tụi du kích của Ataép sẽ chết khát.
Đại tá Giafarốp trả lời:
- Nếu chúng ta bắn vào phụ nữ đi lấy nước thì cả xứ Đaghextan này sẽ nguyền rủa chúng ta.
Vậy là khi các bà chưa lấy nước trở về thì hai bên đều tuân lệnh theo ngừng bắn bất thành văn…
Khi người ta báo tin cho mẹ tôi, lúc ấy đã ốm yếu lắm rồi, rằng con bà được tặng giải thưởng Lênin, thì bà nói: “Tin mừng đó! Nhưng tôi sẽ còn mừng hơn, nếu nghe thấy rằng con tôi giúp đỡ một số người nghèo hay một trẻ mồ côi. Tôi mong nó hiến số tiền ấy để tìm nguồn nước cho một làng nào khan nước. Như thế người đời sẽ nhớ nó. Bố nó trước kia, khi được giải thưởng, cũng đã đem hiến hết tiền để đi tìm những nguồn nước mới. Nơi nào có nguồn nước, nơi ấy có lối mòn, nơi nào có lối mòn nơi ấy thành con đường. Ai ai cũng cần đường, người nào cũng cần đường. Không có đường, con người không tìm ra nhà mình mà lăn xuống vực”.
Bố tôi hay nhắc lại rằng tôi sinh ra vào năm ở Đaghextan người ta đã đào con kênh dẫn nước đầu tiên. Con kênh chạy từ Xulắc đến Makhátkala. “Không có nước thì không có sự sống” - Khẩu hiệu ấy được kẻ trên tấm bảng gỗ, và những người đào kênh đã mang theo khi làm việc.
Nước! Kìa là những vách đá gục xuống, lở ra như có bàn tay ai cường tráng bóp vụn chúng. Kìa là những dòng nước lao vun vút từ trên núi xuống, nhảy qua những tảng đá, lao ra từ sau vách núi, réo lên bên những khe hẹp hệt như những con thú bị thương, êm đềm trôi trên những thung lũng mầu xanh hiền hòa như bầy cừu non nhỏ.
Bốn dải nước lấp loáng ánh bạc vắt trên mình Đaghextan, bón dòng của sông Kôixu. Dòng sông Xulắc và Xamur đón chúng tôi như đón những em gái. Rồi sau đó tất cả những dòng sông Đaghextan ấy đều ôm choàng lấy biển.
Lửa và nước - là số phận của các dân tộc, lửa và nước - là cha và mẹ của Đaghextan, lửa và nước - là chiếc túi kép chứa chất tất cả vật báu của chúng ta.
Các chàng trai và cô gái ở miền Đaghextan thường đến nhà những người già cả độc thân để làm việc này việc nọ giúp họ. Vậy thì các chàng trai, cô gái ấy làm việc gì trước tiên? Họ bổ củi để nhóm lửa và mang nước về đầy chum vại. Những con quạ đen, bằng thứ giác quan nào đấy thật nhạy cảm đoán nhận được bếp lò nhà ai bị tắt liền bay tới đấyvà bắt đầu kêu lên quàng quạc.
Lừa và nước - đó là hai chữ ký, hai biểu tượng để dưới tờ “quốc ước” thành lập xứ Đaghextan.
Một nửa truyện cổ tích Đaghextan là kể về chàng trai dũng cảm giết chết được rồng và đem lại lửa cho làng bản có ánh sáng ấm áp.
Một nửa truyện cổ tích Đaghextan còn lại là kể về cô gái thông minh đã khéo léo làm cho rồng ngủ say và đem được nước về cho dân lành uống thỏa thuê và tưới khắp đồng ruộng.
Những con rồng bị chàng trai và cô gái nọ giết chết đã biến thành những dãy núi đá dài màu nâu.
Đaghe - nghĩa là ngọn núi, Xtan- chỉ miền đất nước. Đaghextan là “đất nước của núi”, xứ sở cuả núi, miền quê của núi, xứ sở đầy kiêu hãnh, Đaghextan!
Như em nhỏ đánh vần theo nhịp thước
Tôi lẩm nhẩm hoài không mệt, trên môi:
Đaghextan! Đaghextan! của tôi!
Mọi cuộc sống, mọi nỗi niềm, ẩn trong tiếng đó.
Tất cả xoay quanh Người, ôi quê hương xứ sở!
Tất cả dành cho Người, quê núi của tôi ơi!
Dân tộc nhỏ bé này đã phải chiến thắng không ít loài rồng để luôn có được lửa và nước. Bây giờ thì dòng sông đem lại ánh sáng và nước biến thành lửa. Hai biểu tượng ban đầu đã nhập hòa lại một.
Bếp lò và nguồn nước - hai thứ quý giá nhất đối với người vùng cao. Nói tới người dũng cảm, người ta thường dùng câu: “Không phải người mà là lửa”. Về kẻ bất tài, vô tích sự người ta ví von: “Chẳng khác nào ngọn đèn tắt”. Về kẻ ác người ta thường nói: “Hắn thuốc loại người có thể nhổ bọt xuống nguồn nước”
Khi nâng cốc rượu, chính chúng ra cũng nói:
Hai cội rễ của đời, bếp lò và nguồn nước
Ai ngợi ca hết ý tình, đã đủ đáng nêu danh
Nhưng quang vinh gấp ba, nếu ai lần đầu đánh lửa
Quanh vinh gấp ba, nếu ai khơi ra mạch nước dưới chân mình!
Các bậc giả cả miền núi thường hỏi người trẻ tuồi:
- Cháu đã bao giờ thấy lửa trong đời chưa, cháu đã từng vượt qua nó chưa?
- Cháu đã lao bào đấy như lao xuống nước.
- Được rồi, thế cháu có biết thế nào là được giá băng, cháu đã bao giờ lao xuống nước đó chưa?
- Cháu đã lao xuống đấy, như lao vào lửa
- Vậy thì cháu đã là người lớn rồi đấy. Thắng ngựa vào ta đưa cháu lên núi
Khi cãi nhau, người dân vùng cao nói với người khác:
- Chẳng lẽ khói trên mái nhà tôi ít hơn khói nhà anh hay sao? Tôi đã bao giờ phải xin nước nhà ai đâu?
- Nếu anh nghĩ như thế thì hãy cùng tôi đến vách đá kia, ở đấy ta sẽ nói chuyện thẳng thừng với nhau.
Tôi đã từng thấy nhiều lần hàng chữ viết ngoài cửa nhà: “Lửa trong lò đang cháy, xin mời khách vào”. Thật tiếc rằng ở miền Đaghextan không có một cổng chào nào thật lớn, trên đó có thể ghi dòng chữ: “Lửa trong lò đang cháy, xin mời khách vào”.
Ngọn lửa đang cháy thật. Không phải để mua vui, không phải để nói lời hoa mỹ, chúng tôi mời các bạn: “Xin đừng ngại ngùng chi, các bạn cứ vào đi, lửa trong lò đang cháy, nước trên nguồn trong veo, chỉ xin mời bạn đến!”
Chú Thích:
([11]) Bài hát trong nguyên tác cũng có nội dung tựa bài hát Việt Nam trên đây. (ND)