CHƯƠNG 3 CUỘC ĐẠI LOẠN
CĂN CỨ KHÔNG QUÂN VỆ BINH QUỐC GIA PARNELL: MEMPHIS, TENNESSEE, MỸ
[Gavin Blaire điều khiển chiếc D-17 chiến đấu, thành phần chủ chốt của Lực lượng Trinh sát Dân sự Trên không Mỹ. Đây là một nhiệm vụ rất hợp với ông. Trong đời sống dân sự, ông điều khiển một chiếc khinh khí cầu hiệu Fujifilm.]
Nó dãn đến tận chân trời: xe hơi, xe tải, xe buýt, xe RV, bất kì thứ gì lái được. Tôi thấy xe rờ móc, xe trộn xăng. Tôi thậm chí còn thấy cả một cái xe sàn phẳng chẳng có gì ngoài một cái biển quảng cáo “Hộp đêm cấp cao.” Có người đang ngồi trên đó. Người ta ngồi trên đủ thứ, trên mái nhà, giữa các giá hành lí. Nó gợi cho tôi nhớ lại một tấm ảnh xưa chụp tàu ở Ấn Độ, trên đó người ta đeo bám như khỉ.
Đủ thứ linh tinh lăn lóc trên đường — vali, hòm, thậm chí còn cả mấy thứ đồ nội thất đắt tiền. Tôi còn thấy cả một cái dương cầm nát bét như thể bị quăng xuống từ nóc xe tải, không đùa đâu. Còn có cả một đống xe bỏ hoang. Vài chiếc đã bị đẩy sang một bên, vài chiếc thì bị tháo dỡ hết đồ đạc, lại có vài cái cháy đen. Có rất nhiều người đi bộ, đi trên vùng đất bên vệ đường hoặc dọc hai mép đường. Vài người gõ gõ cửa kính xe, tay chìa ra đủ thứ đồ. Đám đàn bà có vài người đang loã thể. Họ đang định tráo đổi. Chắc là lấy xăng. Tôi không cho là họ muốn đi nhờ vì họ di chuyển còn nhanh hơn xe. Điều ấy nghe thật vô lí nhưng mà… [nhún vai].
Ở phần đường dưới cách đấy tầm ba mươi dặm, tình hình giao thông có tốt hơn chút. Nghe qua thiết tưởng mọi thứ sẽ dịu hơn. Không phải vậy. Người ta nháy đèn, huých vào mấy cái xe đằng trước, ra ngoài xe gây gổ với nhau. Tôi thấy có vài người nằm dọc ven đường, gần như không cử động hoặc bất động hoàn toàn. Thiên hạ chạy vượt qua họ, ôm đủ thứ đồ, bồng bế trẻ em hoặc chạy tay không, tất cả đều chạy cùng hướng dòng xe cộ. Lui xuống vài dặm nữa, tôi hiểu ngay lí do.
Mấy cái con đó đang chạy thành đàn giữa đống xe. Tài xế ở làn ngoài cố gắng quành xe ra khỏi đường, sa lầy trong đống bùn và làm làn trong kẹt cứng. Không ai mở được cửa. Xe xếp quá sát nhau. Tôi thấy mấy con đó với qua các cánh cửa sổ đang mở, kéo người ra ngoài hoặc tự kéo mình vào trong xe. Rất nhiều tài xế bị kẹt trong xe. Cửa xe đóng chặt và tôi cho rằng được khoá hết lại. Cửa kính được cuốn hết lên. Đó là kính chống vỡ. Đám thây ma không vào được nhưng người sống cũng không thoát ra được. Tôi thấy vài người hoảng loạn, bắn xuyên qua kính chắn gió, phá huỷ luôn lớp bảo vệ duy nhất mà họ có. Ngu xuẩn. Đáng ra ở trong đó họ đã có thể câu thêm một vài tiếng nữa và thậm chí là có thể tìm được cách thoát thân. Có lẽ cũng chẳng có lối thoát nào nữa, chỉ có một kết thúc nhanh gọn hơn. Có một cái xe chở ngựa được móc vào một cái xe ở giữa làn. Nó đang giật tới giật lui loạn xạ. Lũ ngựa vẫn còn ở trong.
Cái đàn ấy tiếp tục di chuyển giữa đống xe, vừa đi vừa ăn dọn đường dọc mấy cái làn xe. Tội nghiệp mấy người bên dưới chỉ muốn thoát ra. Họ chả có điểm đến nào cố định cả, và đó là điều ám ảnh tôi nhất. Đây là cao lộ I-80, dải đường cao tốc giữa Lincoln và Bắc Platte. Cả hai nơi đều đặc nghẹt thây ma, cả mấy thị trấn nhỏ nhỏ ở giữa cung thế. Họ nghĩ mình đang làm gì cơ chứ? Ai tổ chức cái cuộc di tản này? Có ai tổ chức không? Liệu có phải mọi người thấy một dãy xe và cứ thế mà xếp hàng đằng sau, không hỏi han gì hết? Tôi đã cố tưởng tượng xem cảm giác ấy nó như thế nào, kẹt nhau sát sàn sạt, trẻ con thì kêu gào, chó thì sủa, mình thì biết rõ đằng sau vài dặm cái gì đang đến và hi vọng, cầu nguyện rằng có ai đó trên đầu biết mình đi đâu.
Anh có biết cái thí nghiệm mà một tay nhà báo Mỹ thực hiện ở Moscow hồi những năm 1970 không? Hắn đứng xếp hàng trước một toà nhà. Nó chả có gì đặc biệt cả, chỉ là một toà nhà được chọn hoàn toàn ngẫu nhiên. Và tất nhiên, có người đứng xếp hàng sau hắn, rồi sau đó có một số người nữa nhập hội, và rồi chưa gì thiên hạ đã xếp hàng dọc quanh cả khu. Chả ma nào thèm hỏi cái hàng đó để làm gì. Họ chỉ cho là nó đáng công xếp. Tôi không biết liệu câu chuyện đấy có thật không. Có thể nó chỉ là một lời đồn đại, hoặc là một huyền thoại thời chiến tranh lạnh. Ai mà biết được?
ALANG, ẤN ĐỘ
[Tôi đứng trên bờ biển với Ajay Shah, cùng nhìn ra phía đống xác gỉ sét của những con tàu từng một thời huy hoàng. Chính phủ đã không có đủ vốn để dọn dẹp chúng đi. Thêm vào đó, Thời gian và các yếu tố môi trường đã khiến phần thép của chúng trở nên gần như vô dụng. Vì thế, chúng trở thành những đài tưởng niệm lặng im cho cảnh tàn sát bãi biển này từng phải chứng kiến.]
Họ bảo tôi chuyện xảy ra ở đây không phải hiếm. Ở tất cả những nơi đất giáp biển trên thế giới, người ta đều liều mạng leo lên bất cứ cái gì nổi được với hi vọng sống sót được trên biển.
Tôi chẳng biết Alang là gì mặc dù đã sống cả đời gần Bhavnagar. Tôi là nhân viên quản lí văn phòng, một tay dân công sở “năng nổ” kể từ khi tốt nghiệp đại học. Tôi chỉ phải động chân động tay khi cần gõ bàn phím, và kể từ ngày phần mềm của chúng tôi có chế độ nhận diện giọng nói thì thậm chí cả việc đó cũng không cần thiết nữa. Tôi biết Alang là một cái cảng đóng tàu, đó là lí do ngay từ đầu tôi đã cố tìm cách chạy ra đó. Tôi hi vọng gặp được một khu công trường liên tục cho xuất xưởng hết tàu này đến tàu khác và chở tất cả đến nơi an toàn. Hoá ra mọi thứ đều ngược lại. Alang không phải nơi xây tàu, nó là nơi tiêu huỷ tàu. Trước chiến tranh, đây là nơi nghiền phế liệu lớn nhất thế giới. Tàu thuyền từ khắp các quốc gia được các công ti sắt phế liệu Ấn Độ mua lại, đưa lên trên bãi biển này, tháo hết máy móc cưa ra và tháo rời cho đến khi không còn lại gì, kể cả cái vít nhỏ nhất. Hàng chục con tàu tôi thấy ở đó không phải là những chiếc thuyền chất đầy người, trong tình trạng hoàn hảo mà là những cái khung khổng lồ trơ trọi đang nằm chờ chết.
Không có vũng cạn mà cũng chẳng có bờ trượt. Alang gọi là một dải cát dài nghe còn có lí hơn là cảng. Bình thường người toàn phóng thẳng thuyền lên bờ, khiến chúng mắc cạn như cá voi vậy. Tôi chỉ còn biết hi vọng vào mấy chiếc tàu mới đến đang buông neo ngoài khơi, mấy chiếc mà có vừa đủ thuỷ thủ đoàn với lạy trời là một chút nhiên liệu trong thùng. Một trong số mấy con thuyền này, chiếc Veronique Delmas, đang cố kéo một chiếc tàu mắc cạn ra ngoài khơi. Dây chão với dây xích được buộc lộn xộn vào phía đuôi chiếc APL Tulip, một tàu tải hàng Singapore đã phần nào bị tháo dỡ ra rồi. Tôi đến vừa đúng lúc chiếc Delmas khởi động động cơ. Tôi có thể thấy nó kéo căng dây lên làm bọt nước toé trắng xoá. Tôi có thể nghe tiếng mấy sợi dây yếu đứt tung to như súng nổ.
Còn về mấy sợi xích khoẻ thì… chúng trụ được lâu hơn cái vỏ tàu. Chắc khi bị đem lên cạn sống chiếc Tulip đã bị nứt gãy nặng. Khi tàu Delmas bắt đầu kéo, tôi nghe thấy tiếng cót két rất kinh dị, tiếng rền rất chói tai của kim loại. Tàu Tulip đứt đôi, phần mũi ở lại trên bờ còn phần đuôi bị kéo tuột ra ngoài biển.
Chẳng ai làm được gì hết. Tàu Delmas đã đạt vận tốc tối đa, kéo đuôi chiếc Tulip ra chỗ nước sâu. Nó lật úp lại và đắm xuống chỉ trong vòng vài giây. Trên đó chắc phải có ít nhất là cả ngàn người chen chúc nhau chật ních trong từng căn phòng, từng hành lang và từng phân một trên boong. Tiếng la hét của họ bị tiếng khí thoát ra như sấm rền nhấn chìm nghỉm.
Sao đám người đó không ngồi đợi trên boong mấy chiếc tàu mắc cạn rồi kéo hết thang lên, khiến không ai lên được nữa?
Bây giờ anh đang tỉnh táo nhìn lại sự việc. Anh đâu có ở đó đêm hôm ấy. Từ khu cảng cho đến tận bờ biển chật cứng. Lửa từ trong đất liền rọi bóng cái cảnh điên loạn của những con người đang chạy trối chết. Hàng trăm người cố bơi ra chỗ mấy con tàu. Sóng biển đặc nghẹt xác những kẻ thất bại.
Hàng chục con thuyền cỡ nhỏ chạy tới chạy lui, vận chuyển người từ bờ lên thuyền. “Đưa tiền đây,” có vài người nói, “tất cả mọi thứ mày có, rồi tao sẽ chở mày.”
Tiền vẫn còn giá trị cơ à?
Tiền hay thức ăn hay bất cứ thứ gì họ thấy đáng giá. Tôi thấy có chiếc chỉ chấp nhận phụ nữ. Phụ nữ trẻ ấy. Tôi thấy có chiếc khác chỉ đồng ý chở người da trắng. Mấy tên khốn ấy dí đuốc vào mặt từng người để loại ra những ai da đen như tôi. Tôi còn thấy một gã thuyền trưởng đứng trên boong tàu của mình, tay vung vẩy súng và quát nạt, “Không chấp nhận tầng lớp hạ đẳng, bọn tao không chở lũ tiện dân[23]!” Tiện dân? Tầng lớp? Thời nay ai đời còn suy nghĩ cái kiểu quái đản ấy nữa? Và thế này nó mới dị: vài vị lão niên bước ra khỏi hàng! Anh có tin nổi không?
Anh cũng cần phải hiểu là tôi chỉ đang nhấn vào những trường hợp tệ hại nhất thôi. Cứ mỗi một tay cơ hội hay một thằng loạn não đáng tởm là lại có mười người tử tế, tốt bụng, chưa mắc chút nghiệp chướng nào. Có rất nhiều ngư dân và chủ các con tàu nhỏ mà đáng ra có thể trốn thoát cùng gia đình lại chọn cách liều mình liên tục quay trở lại bờ. Cứ thử nghĩ xem họ đang liều mạng như thế nào: hoặc bị giết để cướp tàu, hoặc bị bỏ lại trên bờ, hoặc bị tấn công ngầm từ bên dưới bởi cơ man nào là những cái thây ma…
Mấy con đó số lượng cũng kha khá. Rất nhiều người bị nhiễm bệnh tìm cách bơi về phía tàu, chết đuối rồi sau đó sống lại. Thuỷ triều còn đang thấp, vừa đủ sâu để chết đuối được nhưng lại vừa đủ nông để một con thây ma đang đứng thẳng với tới được con mồi của mình. Rất nhiều người đang bơi đột nhiên biến mất dưới mặt nước hoặc nhiều con thuyền bị lật úp và hành khách bị kéo xuống. Ấy vậy nhưng vẫn có người tiếp tục quay lại bờ hay thậm chí là nhảy xuống khỏi tàu để cứu những người đang ở dưới nước.
Tôi được cứu sống như vậy đó. Tôi là một trong số những người tìm cách bơi. Mấy con tàu trông gần hơn vị trí thực của nó. Tôi bơi rất khoẻ nhưng sau khi chạy bộ từ Bhavnagar, sau khi chiến đấu bảo toàn mạng sống gần như là cả ngày, Tôi chỉ còn có vừa đủ chút sức lực để giữ lưng nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Khi đến được nơi cứu rỗi dự kiến của mình, tôi chẳng còn tí hơi nào trong phổi để kêu cứu nữa. Chẳng có cái ván cầu tàu nào cả. Bên mặt trơn nhẵn dựng cao chót vót trước mặt tôi. Tôi nện vào lớp vỏ thép, gào lên với chút hơi sức cuối cùng.
Ngay khi vừa mới bắt đầu chìm xuống, tôi cảm thấy có một cánh tay mạnh mẽ tóm quanh ngực mình. Đây là kết thúc, tôi nghĩ thầm; tôi trông đợi rằng bất cứ giây phút nào thôi, tôi sẽ cảm thấy rắng cắm ngập vào thịt. Thay vì kéo tôi xuống, cánh tay kia lôi tôi lên khỏi mặt nước. Rốt cục tôi lại ở trên boong tàu Sir Wilfred Grenfell, một chiếc ca nô hải quân của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Canada cũ. Tôi cố gượng nói, cố xin lỗi vì trên người không mang tiền, cố giải thích rằng tôi có thể lao động, làm bất cứ thứ gì để trang trải cho việc đi nhờ. Anh lái tàu chỉ mỉm cười. “Bám chắc vào,” anh ta bảo tôi, “chúng ta chuẩn bị xuất phát.” Tôi có thể cảm thấy sàn tàu rung lên rồi tròng trành chao đảo khi chúng tôi bắt đầu di chuyển.
Kinh khủng nhất là phải nhìn những con tàu chúng tôi đi ngang qua. Một vài hành khách bị nhiễm bệnh trên tàu đã bắt đầu sống lại. Vài tàu trở thành lò mổ di động, số còn lại bốc cháy bừng bừng ở chỗ bỏ neo. Có mấy người nhảy xuống biển. Nhiều người nhảy xong không thấy trồi lên nữa.
TOPEKA, KANSAS, MỸ
[Với mái tóc đỏ dài, đôi mắt xanh lấp lánh và thân hình của một vũ nữ hoặc một siêu mẫu thời tiền chiến, Sharon có thể được coi là xinh đẹp theo gần như mọi tiêu chuẩn. Chỉ có điều cô mang tâm trí của một đứa trẻ mới lên bốn.
Chúng tôi đang ở Trung tâm Phục hồi Chức năng cho Trẻ Hoang Rothman. Bác sĩ Roberta Kelner, nghiên cứu viên của Sharon, gọi tình trạng của cô là “may mắn.” “Ít nhất cô ấy vẫn còn chút ít khả năng ngôn ngữ, một qui trình tư duy cố kết” bà giải thích. “Sơ đẳng thôi, nhưng ít nhất là vẫn hoạt động tốt.” Bác sĩ Kelner rất hứng thú với cuộc phỏng vấn nhưng bác sĩ Sommers, giám đốc chương trình của Rothman, thì lại ngược lại. Kinh phí dành cho chương trình vốn đã nhỏ giọt, và chính quyền hiện tại đang doạ sẽ ngưng toàn bộ chương trình.
Mới đầu Sharon khá rụt rè. Cô không chịu bắt tay tôi và rất ít khi đón ánh nhìn của tôi. Mặc dù người ta tìm thấy Sharon trong đống đổ nát ở Wichita, không ai biết được câu chuyện của cô xảy ra ở đâu.]
Bọn cháu ở trong một cái nhà thờ, Mẹ và cháu. Ba bảo chúng cháu ông ấy sẽ đến tìm chúng cháu. Ba có việc phải đi. Bọn cháu phải chờ ông trong nhà thờ.
Tất cả đều ở đó. Ai cũng có đồ. Họ có ngũ cốc và nước và nước hoa quả và túi ngủ và đèn pin và … [cô giả động tác cầm một khẩu súng trường]. Cô Randolph có một cái như thế. Đáng ra cô ta không được phép. Chúng rất nguy hiểm. Cô ấy nói với cháu chúng rất nguy hiểm. Cô ấy là mẹ Ashley. Ashley là bạn cháu. Cháu hỏi cô ấy Ashley đâu. Cô ấy bật khóc. Mẹ bảo cháu không được hỏi cô ấy về Ashley và nói với cô Randolph rằng Mẹ rất tiếc. Cô Randolph trông rất bẩn thỉu, trên váy cô có dính vết gì đỏ với nâu. Cô ấy béo. Tay cô ấy rất to và mềm.
Còn có mấy đứa trẻ khác, Jill và Abbie, và nhiều đứa khác nữa. Bà McGraw đang trông chúng. Chúng có sáp màu. Chúng đang tô vẽ lên tường. Mẹ bảo cháu ra chơi với chúng. Mẹ nói không sao đâu. Mẹ nói Cha xứ Dan bảo không sao đâu.
Cha xứ Dan đang ở đó, cố gắng khiến mọi người lắng nghe mình. “Làm ơn nào mọi người… ” [cô giả giọng trầm] “Làm ơn hãy bình tĩnh, giới chức trách đang đến, cứ bình tĩnh và đợi họ.” Khôngai nghe ông cả. Ai cũng đang nói, chẳng ai ngồi cả. Mọi người cố gắng nói vào mấy cái thứ đồ của mình [giả điệu bộ cầm điện thoại], họ rất tức giận với mấy thứ đồ đó, ném chúng đi và nói bậy. Cháu thấy tội Cha Dan. [Cô giả tiếng còi báo động.] Ở phía ngoài. [Cô lại giả âm thanh ấy. Bắt đầu nghe nhẹ nhàng rồi âm lượng tăng dần, rồi sau đó yếu dần đi, cứ thế lặp đi lặp lại.]
Mẹ đang nói chuyện với cô Cormode và các bà mẹ khác. Họ đang cãi nhau. Mẹ đang cáu. Cô Cormode liên tục nói [giọng nghe lè nhè, giận dữ], “Thế nhỡ thế thì sao? Chị còn làm được gì nữa?” Mẹ đang lắc đầu. Cô Cormode đang vừa nói vừa hoa tay múa chân. Cháu không thích cô Cormode. Cô ấy là vợ Cha Dan. Cô ấy rất hách dịch và xấu tính.
Có người hét… “Chúng đến đấy!” Mẹ đến bế cháu lên. Họ lấy ghế của chúng cháu và đặt nó ra cạnh cửa. Họ đặt hết tất cả ghế băng ra cạnh cửa. “Nhanh lên!” “Chèn cửa lại!” [Cô giả mấy giọng khác nhau.] “Tôi cần búa!” “Đinh!” “Chúng đang ở bãi đỗ xe!” “Chúng đang tiến về hướng này!” [Cô quay sang phía bác sĩ Kelner.] Cho phép cháu nhé?
[Bác sĩ Sommers trông có vẻ do dự. Bác sĩ Kelner mỉm cười và gật đầu. Sau đó tôi mới biết không phải vô cớ mà phòng này được cách âm.]
[Sharon giả tiếng rên rỉ của một con thây ma. Đây thực sự là tiếng kêu giống nhất tôi từng được nghe. Cứ nhìn cái vẻ khó chịu của bác sĩ Sommers và bác sĩ Kelner thì rõ ràng là họ đồng quan điểm.]
Chúng đang đến. Chúng lớn dần. [Cô lại kêu. Rồi sau đó nện nắm tay phải lên bàn.] Chúng muốn vào. [Cô đập mạnh, dồn dập.] Mọi người la hét. Mẹ ôm chặt lấy cháu. “Không sao đâu.”[Giọng cô dịu lại, tự lấy tay vuốt tóc mình.] “Mẹ sẽ không để chúng chạm đến con đâu. Shhhh….”
[Giờ cô đấm cả hai tay lên bàn, các cú giáng trở nên hỗn loạn hơn, như thể đang có nhiều cái thây ma.] “Chặn cửa đi!” “Giữ chắc vào! Giữ chắc vào!” [Cô giả tiếng kính vỡ.] mấy cái cửa sổ ở phía trước cạnh cửa bị đập vỡ. Đèn tối om. Mấy người lớn bắt đầu sợ. Họ la hét.
[Giọng cô trở lại thành giọng mẹ mình.] “Shhhh… không sao đâu cưng. Mẹ sẽ không để để chúng chạm đến con đâu.”[Tay cô chuyển từ tóc xuống mặt, nhẹ nhàng vuốt trán và má cô. Sharon nhìn Kelner dò hỏi. Kelner gật. Giọng Sharon đột nhiên giả tiếng cái gì rất to vỡ nát ra, từ dưới cuống họng cô phát ra một giọng lào khào đầy đờm dãi.] “Chúng đang tràn vào! Bắn đi, bắn đi!” [Cô giả tiếng súng nổ và rồi… ] “Mẹ sẽ không để chúng động đến con đâu, mẹ sẽ không để chúng động đến con đâu.” [Sharon đột nhiên đánh mắt qua vai tôi, nhìn vào thứ gì không có ở đó.] “Lũ trẻ! Đừng để chúng tóm được lũ trẻ!” Đó là giọng cô Cormode. “Cứu lũ trẻ! Cứu lũ trẻ!”[Sharon giả thêm mấy tiếng súng nữa. Cô nắm chặt hai tay lại thành một quả đấm to bự, nện cật lực xuống một thứ vô hình nào đó.] Giờ lũ trẻ đã bắt đầu khóc. [Cô giả bộ đâm thọc, đấm đá với đồ vật trên tay.] Abbie khóc rất to. Cô Cormode bế bạn ấy lên. [Cô giả vờ nhấc thứ gì đó hoặc là ai đó lên và quăng thẳng vào tường.] Và rồi Abbie nín ngay. [Cô lại bắt đầu vuốt ve mặt mình, giọng mẹ cô bắt đầu trở nên mạnh bạo hơn.] “Shhh… không sao đâu cưng, không sao đâu mà… ” [Tay cô chuyển từ mặt xuống cổ và siết chặt lại.] “Mẹ sẽ không để chúng động đến con đâu. MẸ SẼ KHÔNG ĐỂ CHÚNG ĐỘNG ĐẾN CON ĐÂU!”
[Sharon bắt đầu hổn hển hớp hơi.]
[Bác sĩ Sommers định cản cô lại. Bác sĩ Kelner giơ một bàn tay lên. Sharon dừng phắt lại, tay vung ra hai bên sau một tiếng súng.]
Mồm cháu có cái gì ấm, ướt và mằn mặn, mắt cháu cay xè. Có tay ai đó nhấc cháu lên và bế cháu đi. [Cô đứng ra khỏi bàn, giả làm động tác giống như chơi bóng bầu dục.] Bế cháu ra chỗ để xe. “Chạy đi, Sharon, đừng dừng lại!” [Giờ là một giọng khác, không phải mẹ cô ấy.] “Cứ chạy đi, chạy-chạy-chạy!” Chúng kéo cô đi. Tay cô bỏ cháu ra. Đôi tay ấy rất to, mềm mại.
KHUZHIR, ĐẢO OLKHON, HỒ BAIKAL, THÁNH QUỐC NGA
[Cả căn phòng trống trơn, chỉ có một cái bàn, hai cái ghế và một cái gương lớn mà gần như chắc chắn là kính một chiều ở trên tường. Tôi ngồi đối diện người tôi chuẩn bị phỏng vấn, ghi chép lại trên một tập giấy phát sẵn (máy ghi của tôi bị cấm vì “các lí do an ninh”). Mặt Maria Zhuganova trông kiệt quệ, tóc chị đã bạc, người chị làm bục căng các mép khâu của bộ quân phục đã sờn rách mà chị nhất quyết mặc trong buổi phóng vấn này. Đúng ra thì chỉ có mình chúng tôi, mặc dù tôi cảm thấy có nhiều cặp mắt đang dõi theo từ phía sau tấm kính một chiều.]
Chúng tôi còn chẳng biết có thứ gọi là Cuộc Đại Loạn. Chúng tôi bị cô lập hoàn toàn. Khoảng một tháng trước khi nó diễn ra, gần như cùng lúc cái cô phóng viên Mỹ ấy đăng tin, trại của chúng tôi bị cắt liên lạc vô thời hạn. Tất cả hệ thống ti vi đều bị đem ra khỏi trại, cả các loại đài, điện thoại cá nhân nữa. Tôi có một cái điện thoại rẻ tiền loại dùng một lần với năm phút trả trước. Bố mẹ tôi chỉ có thể trang trải từng ấy. Đáng ra tôi phải dùng nó để gọi về vào hôm sinh nhật, sinh nhật xa nhà đầu tiên của tôi.
Chúng tôi đóng quân ở Bắc Ossetia, Alania, một trong số các nước cộng hoà ở phía nam hoang dã của chúng tôi. Nhiệm vụ chính thức của chúng tôi là “giữ gìn trật tự trị an,” ngăn chặn các cuộc xung đột sắc tộc giữa các cộng đồng thiểu số ở Ossetia và Ingush. Chúng tôi vừa hết hạn đi lính thì họ cách li chúng tôi khỏi thế giới. Họ nói đây là chuyện “an ninh quốc gia”.
“Họ” là ai?
Bất kì ai: các sĩ quan, Cảnh sát Quân đội, thậm chí cả một tay dân sự mặc thường phục chả biết từ đâu đột nhiên xuất hiện. Hắn là một thằng rất bẩn tính, mặt thì còi cọc như chuột kẹp. Chúng tôi gọi hắn như vậy đó: “Mặt Chuột.”
Đã bao giờ chị thử tìm hiểu xem anh ta là ai chưa?
Sao cơ, cá nhân tôi á? Chưa hề. Chả ai thèm làm cả. Ồ vâng, chúng tôi có phàn nàn; lính lúc nào chả phàn nàn. Nhưng cũng chẳng có thời gian mà phàn nàn tử tế nữa. Ngay sau khi lệnh cắt đứt liên lạc được đưa vào hiệu lực, chúng tôi luôn trong tình trạng trực chiến. Trước đó toàn ba cái nhiệm vụ dễ dàng — nhàn tản, đơn điệu và chỉ thỉnh thoảng bị gián đoạn để hành quân lên núi. Giờ có khi chúng tôi phải ở trên núi đến hàng mấy ngày trời với đầy đủ quân trang, đạn dược. Chúng tôi vào từng ngôi làng, từng căn nhà. Chúng tôi tra hỏi từng người dân và khách lữ hành và… tôi cũng chẳng biết nữa… từng con dê chúng tôi bắt gặp.
Tra hỏi họ? Để làm gì?
Tôi không biết. “Tất cả mọi thành viên trong gia đình anh hiện có đang ở đây không?” “Đã ai bị mất tích chưa?” “Đã ai bị động vật hay người mang bệnh dại tấn công chưa?” Đây là phần tôi thấy khó hiểu nhất. Dại à? Phần về động vật thì tôi hiểu nhưng mà người á? Còn cả khám xét cơ thể nữa, phải lột sạch đồ của họ ra để quân y rà soát từng phân trên người họ, tìm kiếm… cái gì đó… chúng tôi không được biết là cái gì.
Chả có nghĩa lí gì cả, tất cả đều vô nghĩa. Có lần chúng tôi tìm thấy cả một kho vũ khí, toàn 74, có cả mấy khẩu 47 đời cũ nữa, rất nhiều đạn dược, chắc là mua từ một tay cơ hội nào đó ngay trong tiểu đoàn của chúng tôi. Chúng tôi không biết số vũ khí ấy là của ai; bọn buôn ma tuý hay lũ trộm cướp địa phương hay thậm chí là các “Đội Báo Thù”, lí do chúng tôi được triển khai. Và chúng tôi đã làm gì? Chúng tôi bỏ hết lại. Cái thằng dân sự ấy, thằng “Mặt Chuột,” hắn có gặp riêng với vài vị trưởng lão trong làng. Tôi chẳng biết họ bàn luận cái gì nhưng họ trông sợ chết khiếp: làm dấu thánh, im lặng cầu nguyện.
Chúng tôi hiểu không nổi. Chúng tôi rối loạn, giận dữ. Chúng tôi chả hiểu mình phải làm cái khỉ gì ở đây. Trong trung đội chúng tôi có một lão cựu binh già tên Baburin. Lão đã từng chiến đấu ở Afghanistan và hai lần ở Chechnya. Người ta đồn rằng trong vụ đàn áp ở Yeltsin, chiếc BMP[24] đầu tiên khai hoả vào Duma chính là của lão Duma. Hồi trước bọn tôi rất thích nghe chuyện lão kể. Lão vốn tốt tính, lúc nào cũng say… nếu lão nghĩ lão thoát được tội đó. Sau vụ vũ khí thì lão thay đổi. Lão không cười nữa, không kể chuyện nữa. Tôi nghĩ kể từ đó lão không còn động đến một giọt rượu nào nữa, và trong những lần hiếm hoi lão chịu mở mồm, lão chỉ nói duy nhất một điều, “Không ổn rồi. Sắp có chuyện rồi đây.” Mỗi khi tôi gặng hỏi lão về chuyện đó, lão chỉ nhún vai bỏ đi. Tinh thần mọi người xuống khá thấp sau vụ đó. Ai cũng căng thẳng, nghi kị. Mặt Chuột lúc nào cũng xuất hiện, lẩn khuất trong bóng tối, lắng nghe, quan sát, thì thầm vào tai các sĩ quan của chúng tôi.
Hắn có đi cùng với chúng tôi vào hôm bọn tôi rà soát một thị trấn vô danh, một khu xóm quê mùa trông như thể ở tận rìa trái đất. Chúng tôi tiến hành sục sạo và thẩm vấn như thường lệ. Chúng tôi vừa chuẩn bị ngưng thì đột nhiên có một đứa bé, một bé gái chạy dọc con đường duy nhất trong làng về phía chúng tôi. Con bé đang khóc, rõ ràng là đang rất sợ hãi. Con bé đang nói chuyện với bố mẹ… ước gì tôi đã có thời gian để học ngôn ngữ của họ… và chỉ sang phía bên kia cánh đồng. Đằng đó có một bóng người nhỏ, lại một bé gái khác, đang loạng choạng lội bùn đi về phía chúng tôi. Trung uý Tikhonov giương ống nhòm và tôi thấy mặt ông tái hẳn đi. Mặt Chuột ra đứng cạnh ông, nhìn qua ống nhòm của hắn và rồi thì thầm gì đó với viên trung uý. Petrenko, xạ thủ của trung đội, được lệnh giơ vũ khí và lấy tâm là bé gái kia. Anh ta tuân lệnh. “Ngắm trúng con bé chưa?” “Đã trúng.” “Bắn.” Tôi nghĩ câu chuyện diễn tiến như vậy. Tôi nhớ có một khoảng lặng. Petrenko quay ra nhìn ngài trung uý và xin phép ông ta lặp lại mệnh lệnh. “Cậu nghe rồi đấy,” ông ta giận dữ nói. Tôi còn ở xa hơn cả Petrenko mà vẫn nghe thấy. “Tôi nói hạ gục mục tiêu ngay lập tức!” Tôi có thể thấy mũi súng của anh run run. Anh ta tầm vóc khá lùn, gầy gò nhỏ bé, không phải can đảm hay mạnh mẽ gì cho cam nhưng đột nhiên anh ta hạ vũ khí và nói mình sẽ không bắn. Thẳng thừng như vậy luôn. “Không, thưa ngài.” Mặt trời lúc đó như đóng băng luôn. Không ai biết phải làm gì, đặc biệt là Trung uý Tikhonov. Ai nấy đều nhìn nhau rồi lại nhìn ra phía cánh đồng.
Chậm rãi, gần như là thong dong, Mặt Chuột bước ra. Con bé giờ đã đến đủ gần để chúng tôi thấy được mặt. Mắt nó mở to, ghim cứng vào phía Mặt Chuột. Nó giơ tay lên, và tôi nghe mãi mới ra được cái tiếng rên the thé. Hắn giáp mặt con bé giữa cánh đồng. Chúng tôi hầu hết còn chưa kịp ý thức được chuyện gì vừa xảy ra thì mọi thứ đã xong xuôi. Với chỉ một động tác rất nhuần nhuyễn, Mặt Chuột rút ra một khẩu súng lục từ trong áo, bắn con bé ngay giữa hai mắt, rồi sau đó quay người bình thản đi về phía chúng tôi. Một người phụ nữ, chắc là mẹ con bé ấy, khóc oà lên. Chị ta khuỵu gối xuống, phỉ nhổ và chửi bới chúng tôi. Mặt Chuột trông bình chân như vại, thậm chí có khi còn không để ý. Hắn thì thầm gì đó với Trung uý Tikhonov, rồi sau đó leo lại vào chiếc BMP như thể bắt taxi ở Moscow.
Đêm đó… khi nằm trằn trọc trên giường của mình, tôi cố không nghĩ về chuyện vừa mới xảy ra. Tôi cố không nghĩ về việc Petrenko đã bị Cảnh sát Quân sự bắt đi, hay việc vũ khí của chúng tôi đã bị khoá chặt lại trong kho. Tôi biết đáng ra mình phải thấy thương hại con bé, thấy giận dữ, thậm chí là căm thù Mặt Chuột và có lẽ là một chút tội lỗi vì tôi không động đến một ngón tay để ngăn chặn chuyện ấy. Tôi biết đáng ra tôi phải cảm thấy như vậy; vào lúc đó, thứ duy nhất tôi còn cảm thấy được là sự sợ hãi. Tôi cứ nghĩ về điều Baburin đã nói, về việc sắp có điều tồi tệ xảy ra. Tôi chỉ muốn về nhà, gặp bố mẹ tôi. Nếu như có vụ tấn công khủng bố nào đó thì sao? Nếu có chiến tranh thì sao? Gia đình tôi sống ở Bikin, gần như sát nách biên giới Trung Quốc. Tôi cần phải nói chuyện với họ, cần phải xem xem họ có sao không. Tôi lo đến mức phát ói ra, ói nặng đến mức họ phải cho tôi vào bệnh xá. Chính vì vậy mà hôm đó tôi không đi tuần được, chính vì vậy mà chiều hôm sau khi họ về trại tôi vẫn còn nằm trên giường.
Tôi đang ở trên giường, đọc lại một ấn bản Semnadstat[25] đã cũ. Tôi nghe tiếng huyên náo, tiếng động cơ xe, giọng người nói. Có cả một đám đông đã tập trung sẵn ở sân diễu hành. Tôi chen vào trong và thấy Arkady đang đứng ở trung tâm đám đông. Arkady là tay bắn súng đại liên hạng nặng trong đội của tôi, một người to lớn đồ sộ. Chúng tôi đánh bạn với nhau vì anh ta khiến mấy tay lính khác không quấy rầy tôi, nếu anh hiểu ý tôi muốn nói gì. Anh ta nói tôi gợi cho anh nhớ về em gái của mình. [Cười buồn.] Tôi thích anh ta.
Có ai đó đang bò dưới chân anh. Trông như một bà cụ già, nhưng đầu bà bị chụp bao bố và quanh cổ bà cuốn một sợi dây xích. Váy bà ta rách nát và phần da dưới chân đã bị cạo hết ra. Không có tí máu nào, chỉ có cái thứ mủ đen gì đó. Arkady đang sang sảng nói dở một bài diễn thuyết đầy giận dữ. “Không dối trá gì nữa! Không còn có chuyện phải gặp là bắn thường dân nữa! Đó là lí do tôi đã truất quyền cái tay zhopoliz kia… ”
Tôi nhìn quanh tìm Trung uý Tikhonov nhưng không thấy ông ta đâu cả. Tôi bắt đầu cảm thấy nhộn nhạo trong bụng.
“… bởi vì tôi muốn tất cả được chứng kiến!” Arkady nhấc dây, kéo cổ bà cụ kia lên. Anh tóm lấy cái bao và xé toạc nó ra. Mặt bà ta xám ngoét, toàn thân bà ta cũng vậy, mắt bà mở thô lố, trông rất dữ tợn. Bà ta gầm gừ như sói và cố tóm lấy Arkady. Anh vươn một bàn tay mạnh mẽ ra siết quanh cổ bà cụ, giữ bà ta ở cách một sải tay.
“Tôi muốn tất cả mọi người hiểu vì sao chúng ta phải ở đây!” Anh rút dao từ trong thắt lưng ra và cắm thẳng vào tim bà cụ. Tôi há hốc mồm ra. Tất cả đều thế. Con dao cắm ngập tận chuôi mà bà lão kia vẫn tiếp tục quằn quại và tiếp tục gầm gừ. “Nhìn đây!” anh quát lớn, đâm bà lão thêm mấy nhát nữa. “Các người hãy nhìn đây! Đây là điều họ đang giấu chúng ta! Đây là thứ họ bắt chúng ta dốc sức đi tìm!” Vài cái đầu bắt đầu gật gù, một số người xì xào đồng ý. Arkady tiếp tục nói, “Nếu những thứ này đầy rẫy ở khắp nơi thì sao? Nếu chúng hiện đang ở quê nhà, nơi gia đình của chúng ta ngay lúc này thì sao!” Anh ta đang cố nhìn vào mắt tất cả những ai có thể. Anh không chú ý mấy đến bà cụ già. tay nắm của anh lỏng ra, bà cụ kia vặn thoát ra được và cắn vào tay anh. Arkady gầm lên. Đấm tay anh nện vỡ mặt bà cụ. Bà ta ngã quỵ xuống, lăn lộn và ho khạc ra cái thứ chất dịch đen đen ấy. Anh lấy giày dứt điểm công việc. Tất cả chúng tôi đều nghe tiếng hộp sọ bà ta nứt toác.
Máu chảy dọc vết cắn trên nắm tay của Arkady. Anh vung tay lên trời, gào to lên, mạch máu trên cổ phình lộ rõ muồn muột. “Chúng tôi muốn về nhà!” anh thét lớn. “Chúng tôi muốn bảo vệ gia đình mình!” Đám đông bắt đầu có người hùa theo. “Đúng rồi! Chúng tôi muốn bảo vệ gia đình mình! Đây là đất nước tự do! Đây là nền dân chủ! Không ai có quyền giam cầm chúng tôi!” Tôi cũng đang hò hét, hùa vào với tiếng hô của mọi người. Bà lão đó, cái con vật có thể lĩnh cả một con dao chính giữa tim mà không chết kia… nếu chúng đang có ở quê nhà thì sao? Nếu chúng đang đe doạ người thân chúng tôi… đe doạ bố mẹ tôi thì sao? Tất cả nỗi sợ hãi, tất cả những nghi ngờ, tất cả những cảm xúc âm tính, rối bời đều hoà quyện lại trong cơn giận dữ. “Chúng tôi muốn về! Chúng tôi muốn về!” Cứ thế hô vang, hô vang, và rồi… một viên đạn bay sượt qua tai tôi và mắt trái Arkady nổ tung ngược vào trong hốc mắt. Tôi không nhớ cảnh chạy nháo nhào hay hít phải hơi cay. Tôi không nhớ các đặc công Spetznaz xuất hiện lúc nào nhưng đột nhiên họ đã bao vây chúng tôi, đánh quị chúng tôi, trói hết tất cả lại. Có người đạp lên ngực tôi mạnh đến mức tôi cứ ngỡ mình chết luôn ở đó rồi.
Có phải đó chính là Cuộc Thanh Trừng?
Không, đó chỉ là khởi đầu. Chúng tôi không phải đơn vị quân đội đầu tiên nổi loạn. Nó bắt đầu vào tầm khoảng thời gian Cảnh sát Quân sự bắt đầu cấm trại. Khi bọn tôi định làm cuộc “biểu tình” của mình, chính phủ đã quyết định phải khôi phục kỉ cương như thế nào.
[Chị vuốt phẳng lại bộ quân phục, trấn tĩnh lại trước khi nói.]
“Thanh trừng”… hồi trước tôi cứ tưởng nó chỉ có nghĩa là tiêu diệt, gây thiệt hại nặng nề, phá huỷ… thực chất nó có ý nghĩa là tiêu diệt mười phần trăm tổng lực lượng, cứ mười người thì có một người phải chết… và đó chính là điều họ đã làm đối với chúng tôi.
Đội Spetznaz bắt chúng tôi tập trung ở sân diễu hành, mặc đầy đủ quân phục đúng tác phong. Sĩ quan chỉ huy mới của chúng tôi nói một tràng về nhiệm vụ và trách nhiệm, về lời thề bảo vệ đất mẹ của chúng tôi, và về việc chúng tôi đã bội lời thề đó như thế nào với hành động phản bội ích kỉ và sự hèn nhát cá nhân của mình. Trước giờ chưa bao giờ tôi được nghe những từ ngữ ấy. “Nhiệm vụ?” “Trách nhiệm?” Nước Nga, nước Nga của tôi thực chất chỉ là một mảnh đất phi chính trị rối ren. Chúng tôi sống trong hỗn loạn và tham nhũng, chỉ cố gắng kiếm đủ ăn qua ngày. Ngay cả quân đội cũng không phải nơi pháo đài của những người ái quốc; đây là nơi để kiếm lấy cái nghề, kiếm miếng ăn và kiếm chỗ ngủ, và có lẽ là kiếm được ít tiền để gửi về nhà mỗi khi chính quyền có hứng muốn trả lương cho binh sĩ. “Lời thề bảo vệ đất mẹ?” Đây không phải ngôn từ của thế hệ tôi. Đây là ngôn từ của mấy tay cựu binh thời Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, kiểu mấy lão đầu óc thất thường đã từng một thời bao vây Quảng Trường Đỏ với các cái băng rôn Xô-viết rách rưới và cả dàn huy chương trên bộ quân phục bạc màu, mục nát. Nhiệm vụ với Mẹ Tổ quốc chỉ là một trò đùa. Nhưng tôi không cười. Tôi biết đao phủ sắp đến. Xung quanh chúng tôi là những người mang vũ khí, trong chòi canh có lính chốt. Tôi đã sẵn sàng. Mọi thớ cơ trong người tôi đều gồng lên, chuẩn bị đón nhận phát súng. Và rồi tôi nghe được những lời ấy…
“Lũ trẻ hư các người nghĩ nền dân chủ là quyền được Chúa ban cho. Các người kì vọng vào điều đó, các người đòi hỏi nó! Tốt, giờ các người sẽ có cơ hội sử dụng nó.”
Từng câu từng chữ của lão ta vĩnh viễn in hằn trong tâm trí tôi.
Ý ông ấy là gì?
Chúng tôi sẽ quyết định ai là người phải bị trừng phạt. Chúng tôi được chia ra làm các nhóm mười người và phải biểu quyết xem ai trong nhóm sẽ bị xử tử. Và rồi chúng tôi… những người lính, chính chúng tôi sẽ phải tự tay giết bạn mình. Họ đẩy mấy cái xe cút kít nho nhỏ qua chỗ chúng tôi. Tôi giờ vẫn có thể nghe được tiếng bánh xe cót két. Chúng chở đầy đá, mỗi tảng to tầm một lòng bàn tay, sắc và nặng trịch. Một số oà khóc, cầu xin chúng tôi, van lạy như trẻ con. Một số người như Baburin thì chỉ im lặng quì xuống, nhìn thẳng vào mặt tôi trong khi tôi giáng hòn đá xuống.
[Chị hơi thở dài, liếc nhìn cái kính một chiều qua vai.]
Thiên tài. Đúng là thiên tài bỏ mẹ. Xử tử như thường lệ có lẽ đã có thể củng cố kỉ cương, lập lại trật tự từ trên xuống dưới, nhưng thông qua việc biến chúng tôi thành tòng phạm, họ không chỉ trói buộc chúng tôi bằng sự sợ hãi mà còn bằng cả cảm giác tội lỗi. Chúng tôi đã có thể nói không, đã có thể chống lệnh và để bản thân bị tử hình nhưng chúng tôi lại không. Chúng tôi hùa theo ngay. Chúng tôi hoàn toàn ý thức được lựa chọn của mình và bởi vì lựa chọn ấy có giá đắt như vậy, tôi không nghĩ có ai lại muốn phải đưa ra một lựa chọn như thế nữa. Hôm đó chúng tôi đã từ bỏ quyền tự do của mình và chúng tôi hoàn toàn không hối tiếc khi phải làm như vậy. Kể từ đó trở đi, chúng tôi sống trong tự do thực sự, cái quyền được tự do chỉ tay về phía ai đó khác và nói “Họ bảo tôi làm vậy! Đó là lỗi của họ, không phải của tôi.” Và lạy Chúa nhân từ, quyền tự do để nói rằng “Tôi chỉ làm theo lệnh mà thôi.”
BRIDGETOWN, BARBADOS, LIÊN BANG TÂY ẤN
[Quầy rượu Trevor là hiện thân của “Miền Tây Ấn Hoang Dã,” hay nói chính xác hơn là “Vùng Kinh tế Đặc biệt” của mỗi hòn đảo. Phần lớn mọi người sẽ không thấy nơi đây mang dáng dấp cuộc sống ổn định và thanh bình của Caribbean thời hậu chiến. Nó không được thành lập với mục đích như vậy. Với hàng rào ngăn cách li cả khu vực khỏi phần còn lại của hòn đảo và nếp sống hỗn loạn, bạo lực, suy đồi, các Vùng Kinh tế Đặc biệt được thiết kế chuyên biệt để móc tiền dân “ngoại đảo”. T. Sean Collins có vẻ hài lòng trước sự khó chịu của tôi. Anh chàng người Texas cao lớn này đẩy một li rượu rum “kill-devil” về phía tôi rồi gác đôi chân đi ủng đồ sộ lên bàn.]
Vẫn chưa có ai nghĩ ra được cái tên cho nghề cũ của tôi. Không có chức tước hẳn hoi nào, ít nhất là chưa. “Nhà thầu tư nhân” nghe như kiểu tôi chuyên đi trát vữa bôi tường. “An ninh riêng” nghe như lũ bảo vệ siêu thị đần độn. “Lính đánh thuê” có lẽ là từ hợp nhất, nhưng đồng thời cũng khác xa con người thật của tôi nhất. Lính đánh thuê nghe như một tay cựu binh Việt Nam ria vểnh, đầu óc có vấn đề, người đầy xăm trổ, sống chui rúc ở một nước Thế Giới Thứ Ba bẩn thỉu nào đó chỉ vì không thể thích nghi được với cuộc sống thực. Đó hoàn toàn không phải là tôi. Vâng, tôi là cựu binh, và vâng, tôi dùng những gì mình được huấn luyện để kiếm tiền… quân đội có cái hay là lúc nào cũng hứa sẽ dạy cho anh các “kĩ năng hái ra tiền,” nhưng họ lại chẳng thèm nhắc đến rằng cho đến hiện tại, không gì hái ra nhiều tiền hơn biết cách giết người trong khi bảo vệ người khác khỏi bị giết.
Có lẽ tôi đúng là lính đánh thuê, nhưng nhìn tôi anh không thể đoán ra được. Tôi ăn mặc chải chuốt, có xe xịn, nhà xịn, thậm chí còn có cả một bà giúp việc một tuần đến dọn dẹp một lần. Tôi có lắm bạn bè, có triển vọng hôn nhân, và trình độ đánh gôn của tôi cũng ngang ngửa dân chuyên. Quan trọng nhất là trước chiến tranh tôi làm việc cho một công ti bình thường như bao công ti khác. Không phải đi theo dõi ai, không hội họp kín hay phong bì lúc đêm hôm. Tôi có ngày nghỉ lễ và ngày nghỉ ốm, bảo hiểm y tế toàn phần và gói dịch vụ nha khoa ngon nghẻ. Tôi trả thuế của mình, có phần còn hơn mức; tôi trả vào tài khoản IRA[26] của mình. Đáng ra tôi có thể làm việc ở nước ngoài; có chúa mới biết ở đó nhu cầu cao đến nhường nào, nhưng sau khi chứng kiến những gì bạn bè tôi phải trải qua trong cuộc xung đột biên giới vừa rồi, tôi nghĩ thôi bỏ, thà làm chân bảo vệ cho mấy lão CEO bụng phệ hay đứa người nổi tiếng não rỗng vô dụng nào đó còn hơn. Và đó là cương vị của tôi khi Đại Loạn xảy ra.
Anh bỏ quá cho tôi việc không đưa ra cái tên nào hết nhé? Vài người vẫn còn đang sống, tài sản vẫn còn giá trị và… vẫn đe dọa sẽ đâm đơn kiện, anh tin nổi không? Sau tất cả những gì đã xảy ra? Rồi, vậy là tôi không thể nêu danh hay chỉ ra địa điểm nơi chốn nào hết, nhưng hãy tưởng tượng chuyện xảy ra trên một hòn đảo… một hòn đảo lớn… một hòn đảo dài, ngay cạnh Manhattan. Không kiện tụng được gì nếu nói vậy, phải không?
Khách hàng của tôi, chả rõ hắn làm gì. Hình như làm ngành giải trí, hay tài chính cấp cao. Chịu. Tôi nghĩ chác hắn còn là một trong những cổ đông kì cựu ở công ti tôi. Gì cũng được, hắn có tiền, sống ở căn biệt thự tiện nghi ngay gần biển.
Khách hàng của tôi thích quen biết những người có danh phận. Kế hoạch của hắn là bảo vệ những người có thể nâng cao hình ảnh của hắn trong và sau chiến tranh, đóng vai Moses đối với những người đang hãi sợ và những người nổi tiếng. Và anh biết gì không, họ cắn câu. Diễn viên, ca sĩ, các rapper và vận động viên chuyên nghiệp và các gương mặt danh giá như mấy người anh bắt gặp trên các chương trình đối thoại hay truyền hình thực tế, hay thậm chí cả cái con điếm giàu có, hư hỏng, trông bạc nhược nổi tiếng chỉ vì nó là một con điếm giàu có, hư hỏng, trông bạc nhược.
Có một lão là ông trùm làng thu âm với đôi khuyên tai kim cương to tổ bố. lão có một khẩu AK giả với súng phóng lựu. Lão rất khoái nói về việc đây là khẩu nhái y hệt khẩu trong Scarface. Tôi không nỡ tâm nói với lão rằng Señor Montana dùng khẩu mười sáu A-1.
Có một cái tay nghệ sĩ hài chính trị, anh biết đấy, tay có chương trình riêng của mình ấy. Hắn vừa rúc đầu vào ngực cái con vũ nữ thoát y Thái trẻ măng vừa lảm nhảm rằng chuyện đang xảy ra không chỉ là về người sống đối đầu với thây ma, nó sẽ tạo ra xung chấn lan tỏa đến mọi khía cạnh của đời sống: xã hội, kinh tế, chính trị, thậm chí là môi trường. Hắn nói rằng từ trong tiềm thức, mọi người đều đã ý thức được sự thật trong giai đoạn “Đại Phủ Nhận,” và đó là lí do tại sao họ phát rồ lên đến vậy khi mọi thứ lộ ra. Thực ra nghe cũng có lí, cho đến khi hắn bắt đầu phun ra một mớ về xi-rô ngô với hàm lượng đường cao và tình trạng nữ giới hóa ở Mỹ.
Tôi cũng công nhận mọi thứ điên thật, nhưng thực ra cũng có phần đoán được trước là những con người đó sẽ có mặt ở đây, ít nhất với tôi là thế. Tôi chỉ không lường trước được đám “lính” của họ. Tất cả bọn họ, dù có là ai hay làm nghề gì đi nữa đều phải có ít nhất vô số các nhà tạo mẫu và quan hệ công chúng và trợ lí riêng. Có một số người tôi thấy khá được, làm chỉ vì miếng cơm manh áo hoặc vì họ nghĩ mình sẽ được an toàn ở đây. Những người trẻ tuổi chỉ đang cố kiếm chút lợi lộc. Không thể trách họ được. Về phần mấy người còn lại thì… toàn lũ cặn bã đang phê mùi nước tiểu của mình. Rất thô lỗ, tự phụ và liên tục sai khiến người khác. Có một gã tôi rất ấn tượng bởi vì hắn đội cái mũ ghi dòng chữ “Hoàn Tất Đi!” Tôi nghĩ hắn là quản lí chính của cái đứa phì nộn giật giải trong một chương trình tài năng gì đó. Cái thằng kia chắc phải có mười bốn người dưới trướng! Tôi nhớ lúc đầu mình nghĩ chăm sóc được hết đám người này là điều không thể, nhưng sau chuyến tham quan ngôi nhà đầu tiên, tôi nhận ra sếp bọn tôi đã tính đến tất cả.
Hắn biến nhà mình thành thiên đường trong mơ của dân sinh tồn. Hắn có đủ lương khô để nuôi cả một đội quân vài năm liền và cả một nguồn cung cấp nước vô tận nhờ cái máy lọc muối chạy thẳng ra biển. Hắn có tuốc bin gió, bảng pin năng lượng mặt trời và các máy phát điện dự phòng với nhiều thùng nhiên liệu chôn ngay dưới sân. Hắn có đủ liệu pháp an ninh để ngăn chặn thây ma cho đến mãn đời: tường cao, cảm biến dò chuyển động, và vũ khí, ôi mẹ kiếp, mớ vũ khí. Vâng, sếp bọn tôi đúng là đã đầu tư tử tế, nhưng thứ làm hắn tự hào nhất lại là việc mọi phòng đều được lắp đặt để có thể cùng lúc truyền hình trực tiếp lên mạng đến khắp mọi xó xỉnh trên thế giới 24/7. Đây là lí do thực sự cho việc mời hết bạn bè “thân cận” và “chí cốt” đến nhà. Hắn không chỉ muốn vượt qua đợt tai ương này trong tiện nghi và thoải mái, hắn muốn ai nấy đều biết hắn đã làm được điều ấy. Đó là khía cạnh danh tiếng, cách hắn đảm bảo được quảng bá cao cấp. Không chỉ có mỗi webcam trong gần như tất cả các phòng, ở đây còn có cả cánh báo chí mà anh thường thấy trên thảm đỏ Oscar. Thật tình tôi chưa bao giờ biết ngành truyền thông giải trí nó lớn đến mức nào. Chắc ở đó phải có đến hàng tá, tới từ đủ các tạp chí và kênh truyền hình. “Ông thấy thế nào?” Tôi nghe câu ấy rất nhiều. “Anh làm ăn sao rồi?” “Ngài nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra?” và thậm chí tôi thề là đã nghe thấy người hỏi “Cô đang mặc phục trang gì vậy?”
Đối với tôi, khoảnh khắc kì quái nhất là khi đứng trong phòng bếp với đám nhân viên và các vệ sĩ khác, cùng nhau xem bản tin về, đoán thử xem, chính chúng tôi! Máy quay ở ngay phòng bên cạnh, chĩa vào vài “ngôi sao” trong khi họ đang ngồi trên ghế bành xem một kênh tin tức khác. Thước phim được truyền hình trực tiếp từ Khu Thượng Đông ở New York; đám thây ma đang tràn ra Đại lộ số Ba, người dân đang đánh giáp lá cà với búa và ống đồng, quản lí hãng Đồ dùng Thể thao Modell đang phân phát số gậy bóng chày của mình và hét “Nện vào đầu chúng!” Có một tay mang giày trượt patin, tay cầm gậy khúc côn cầu có gắn một con dao thái thịt to tổ chảng phía đầu. Hắn phi với vận tốc chắc cũng gần ba mươi, với cái tốc độ đó đáng ra hắn có thể chặt bay được một hai cái thủ. Máy quay thâu gọn toàn bộ cảnh tượng. Một cánh tay thối rữa thọc ra từ cái cống thoát nước ngay trước mặt hắn, cái tay tội nghiệp kia văng thẳng lên trời, ngã dập mặt xuống, rồi sau đó la thét rầm trời khi cái tóc đuôi ngựa của hắn bị tóm lấy và kéo ngược vào trong cống. Đúng lúc đó máy quay trong phòng khách lia lại ghi hình phản ứng của đám người nổi tiếng. Có mấy người há hốc mồm ra, một số là thật, một số là diễn. Tôi nhớ mình ít coi trọng những kẻ giả khóc hơn cả con điếm hư hỏng khi nó gọi cái tay kia là “đần độn.” Ê, ít nhất nó nói trung thực. Tôi nhớ mình đứng ngay cạnh một người, Sergei, một tên to đồ sộ, mặt mũi rầu rầu, khổ sở. Những câu chuyện về việc lớn lên ở Nga của hắn đã thuyết phục tôi rằng không phải mọi đất nước Thế Giới Thứ Ba bẩn thỉu đều phải là nước nhiệt đới. Khi máy quay đang ghi lại phản ứng của đám người tốt đẹp kia, hắn lẩm bẩm một mình cái gì đó bằng tiếng Nga. Từ duy nhất tôi nghe được là “Romanovs” và tôi đang định hỏi ý hắn định nói gì thì tất cả nghe thấy còi báo động.
Có thứ gì đó đã kích hoạt cảm biến áp lực chúng tôi đặt bao quanh tường cách đây vài dặm. Chúng đủ nhạy để phát hiện một con zombie, và giờ đây chúng đang rung loạn hết cả lên. Điện đàm của chúng tôi liên tục kêu rè rè: “Có địch, có địch, góc tây nam… mẹ kiếp, có đến hàng trăm con!” Ngôi nhà này rất rộng, tôi mất đến mấy phút mới vào được vị trí bắn. tôi chả hiểu tại sao bên gác lại lo lắng đến vậy. Có đến vài trăm con thì đã sao. Sẽ không đời nào chúng trèo qua được bức tường. Rồi sau đó tôi nghe tiếng hắn la Chúng đang chạy! Ôi bố tổ, chúng nhanh quá!” Zombie chạy nhanh, điều này làm tôi chột dạ. Nếu chúng biết chạy thì chúng sẽ biết trèo, nếu chúng biết trèo, có lẽ chúng biết nghĩ, và nếu chúng biết nghĩ… giờ tôi bắt đầu sợ. Tôi nhớ khi lên đến cửa sổ phòng khách ở tầng ba, đám bạn của sếp tôi đều đang đổ xô vào lấy đồ trong kho vũ khí, chạy tán loạn như đám nhân vật phụ trong phim hành động năm 80.
Tôi tháo chốt an toàn và mở nắp ống ngắm. Đây là kính ngắm đời mới nhất, có kết hợp giữa khuếch sáng và hiển thị nhiệt. Tôi không cần đến cái thứ hai vì lũ G[27] không có thân nhiệt. Vậy nên khi thấy hình ảnh sáng xanh lá chói lòa của hàng trăm bóng người đang chạy tới, họng tôi nghẹn lại. Đây không phải thây ma.
“Đây rồi!” Tôi nghe tiếng họ hét. “Đó là ngôi nhà trên bản tin!” Họ mang theo thang, súng, trẻ con. Vài người trên lưng đeo bao da to. Họ đang lao về phía cửa trước, cánh cửa thép vững chắc có thể chặn được cả ngàn con thây ma. Vụ nổ đánh bật nó ra khỏi bản lề, quăng thẳng nó về phía ngôi nhà như cái phi tiêu khổng lồ. “Khai hỏa!” sếp tôi hét vào trong điện đàm. “Hạ gục chúng! Giết chúng đi! Bắnbắnbắn!”
Những “kẻ tấn công,” xin phép gọi tạm vậy do không có từ chuẩn xác hơn, dẫm đạp lên nhau để xông vào nhà. Sân nhà đầy xe đang đỗ, xe thể thao và mấy chiếc Hummer, và thậm chí có cả một con xe tải khủng của một tay cầu thủ NFL nào đó. Tất cả đều đang là mấy hòn lửa, nổ lật văng sang bên hay chỉ đơn giản là cháy ngay tại chỗ, đám khói dầu dày đặc bốc ra từ đống lốp làm ai nấy mù đường và ngạt thở hết. Chả còn nghe thấy gì ngoài tiếng súng, của ta và của họ, và bên ta không chỉ có mỗi đội an nình. Bất cứ vị tai to mặt lớn nào đang không ị đùn ra quần đều hoặc là muốn làm anh hùng, hoặc là thấy cần bảo vệ danh tiếng trước mặt người của mình. Rất nhiều người bắt đoàn tùy tùng của mình bảo vệ mình. Một số vâng lời, toàn mấy tay trợ lí riêng tội nghiệp tuổi mới đôi mươi cả đời chưa từng bắn phát súng nào. Họ không trụ được lâu. Nhưng cũng có một số người làm chân lon ton trở mặt và gia nhập phe bọn tấn công. Tôi thấy một tên tạo mẫu tóc trông rất ẻo lả lấy cái mở thư đâm vào mồm một mụ diễn viên và chứng kiến thằng “Hoàn Tất Đi” cố gắng vật lộn giằng lấy quả lựu đạn của thằng béo trong chương trình tài năng trước khi nó phát nổ trong tay cả hai, thật trớ trêu.
Chẳng khác gì một cái nhà thương điên, thật đúng như những gì anh hình dung về ngày tận thế. Một phần căn nhà đang bốc cháy, máu chảy khắp nơi, xác người hoặc các mảnh xác vung vãi trên khắp các thứ đồ đắt tiền. Tôi bắt gặp con chó tí tẹo của con điếm kia trong lúc cả hai đang cùng chạy ra phía cổng sau. Nó nhìn tôi, tôi nhìn nó. Nếu bọn tôi có nói chuyện thì chắc sẽ là, “Chủ mày đâu?” “Chủ mày thì sao?” “Kệ mẹ chúng nó.” Đó là thái độ của rất nhiều tay lính đánh thuê ở đây, là lí do suốt đêm tôi không nổ phát súng nào. Chúng tôi được thuê để bảo vệ đám nhà giàu chống lại zombie, không phải chống lại những người không giàu khác chỉ muốn tìm chỗ trú ẩn. Anh có thể nghe thấy tiếng họ la hét khi tràn qua cổng chính. Không phải “lấy rượu” hay “thịt lũ đàn bà”; đó là “dập lửa đi!” và “cho phụ nữ và trẻ em lên tầng!”
Trên đường ra bãi biển tôi vấp phải Ngài Tấu hài Chính trị trên đường ra bãi biển. Hắn và cái con mụ tóc vàng da nhăn nheo tôi tưởng là đối thủ chính trị của hắn đang hùng hục hành sự như thể ngày mai sẽ không đến nữa vậy, mà này, có khi đối với họ, ngày mai không có thật. Tôi ra đến chỗ bãi cát, tìm được một cái ván lướt sóng chắc còn đáng giá hơn ngôi nhà nơi tôi lớn lên và bắt đầu chèo về phía ánh sáng đằng chân trời. Đêm đó trên biển vô số tàu bè, rất nhiều người đang chạy trốn khỏi Dodge. Tôi hi vọng một trong số họ sẽ cho tôi đi nhờ đến xa được cỡ Cảng New York. Hi vọng tôi có thể dùng đôi khuyên tai kim cương hối lộ họ.
[Anh uống hết li rượu rum và ra hiệu lấy thêm li nữa.]
Đôi khi tôi tự hỏi, tại sao họ không chịu câm mẹ nó cái mồm lại? Không chỉ riêng gì sếp tôi mà tất cả cái lũ ăn bám được nuông chiều ấy. Họ có phương thức để tránh không bị hại, vậy sao không dùng nó; đi đến Nam Cực hay Greenland hay cử ở im chỗ họ đang ở nhưng tránh xa khỏi con mắt công chúng? Nhưng mà ngẫm lại, chắc họ không thể đâu, nó như kiểu một cái công tắc anh không thể tắt được vậy. Có lẽ chính nhờ cái công tắc ấy mà họ mới trở nên được như thế. Nhưng tôi thì biết cái quái gì?
[Anh bồi bàn mang thêm một li rượu nữa đến và T. Sean quăng cho anh ta một đồng xu bạc.]
“Cứ có là phải khoe.”
ICE CITY, GREENLAND
[Ở trên mặt đất, ta chỉ có thể nhìn thấy được các ống phễu, những ống thông gió khổng lồ được chạm khắc cẩn thận để liên tục mang không khí tuy lãnh lẽo nhưng trong lành xuống mê trận kéo dài ba trăm kilomét ở bên dưới. Trong số một phần tư triệu những người từng sống trong kì quan kiến trúc thiết kế bằng tay không này, rất ít còn ở lại. một số người ở lại để khuyến khích ngành du lịch thương mại dù nhỏ nhưng đang phát triển. Một số ở đây với tư cách người coi sóc, sống dựa vào khoản trợ cấp đến từ Chương trình Di sản Thế giới mới được cơ cấu lại của UNESCO. Một số người như Ahmed Farahnakian, cựu Thiếu tá của Lực lượng Không quân Quân đoàn Vệ binh Cách mạng Iran, thì lại không còn chốn nào để nương thân nữa.]
Ấn Độ và Pakistan. Cũng như Bắc với Nam Triều Tiên hay NATO với Khối Warszawa cũ. Nếu có hai phe nào định dùng vũ khí hạt nhân công kích nhau, đó chắc chắn phải là Ấn Độ và Pakistan. Ai cũng biết điều đó, ai cũng trông chờ điều đó, và đó chính là lí do tại sao điều đó không xảy ra. Vì mối họa này đã quá hiển hiện, suốt mấy năm qua nhiều cơ quan bộ máy đã được đưa vào hoạt động để phòng tránh nó. Đường dây nóng giữa hai thủ đô được lắp đặt, các đại sứ gọi nhau bằng tên cúng cơm, và các đại tướng, các chính trị gia và tất cả những ai tham gia vào qui trình này đều được huấn luyện để đảm bảo rằng ngày họ lo sợ sẽ không bao giờ đến. Không ai có thể tưởng tượng được rằng — tôi dứt khoát là không