Chương 12 Cáo trạng dưới chốn âm ti địa phủ
Quan ải Thái Bình, nơi giáp giới giữa Giáng Châu và Tấn Châu.
Màn đêm dần buông, những ngọn núi bị bao phủ bởi làn sương mù mông lung, ánh nắng bị chặn lại bên kia Hoàng Hà, cả một vùng đồng không mông quạnh trống trải không có bóng người. Quan ải Thái Bình là một nút giao quan trọng trên đường từ Hà Đông đi đến bến đò Long Môn vượt Hoàng Hà, luôn luôn là vùng giao tranh của binh gia. Sau khi trải qua vô số cuộc chiến, pháo đài tại vùng quan ải này đã đổ nát tan hoang, mái tường sạt lở, những lỗ thủng trên tường thành đủ để một con chó thoải mái chui vào chui ra.
Mà lúc này đấng vương giả chí tôn của thiên hạ đang chậm rãi đi lại trên tường thành đổ nát.
Lý Thế Dân, vị hoàng đế trên lưng ngựa một tay sáng lập đế quốc Đại Đường này, năm nay mới ba mươi mốt tuổi, chỉ lớn hơn Huyền Trang một tuổi, đang ở độ tuổi hoàng kim của đời người. Hắn mặc trên người một chiếc áo bào cổ tròn màu đỏ tía, đội mũ màu đen cánh mềm, dưới chân cũng là đôi ủng cao màu đen. Tướng mạo anh tuấn, trên vành môi có một hàng ria mép vểnh lên, càng tỏ ra oai hùng quyết đoán, cả người giống như một ngọn thương thẳng tắp. Cuộc đời chinh chiến trước kia đã rèn luyện hắn thành một người khỏe mạnh rắn rỏi, cánh tay, thậm chí cơ mặt đều tràn đầy sức mạnh.
Cách hắn không xa, các trọng thần gồm Hữu bộc xạ Bùi Tịch, Tả bộc xạ Đỗ Như Hối[*], Thượng thư bộ Lại Trưởng Tôn Vô Kỵ[*], Bí thư giám Ngụy Trưng đi theo, nhìn hắn dạo bước trên tường thành. Bên cạnh Bùi Tịch còn có một lão hòa thượng mặc áo cà sa màu đỏ. Dưới thành là mười sáu vệ cấm quân do Hữu vũ vệ đại tướng quân Ngô Quốc Công Uất Trì Kính Đức[*] dẫn đầu, hơn một ngàn người bảo vệ quan ải Thái Bình chu đáo không một kẽ hở.
[*] 50 Tên thật là Uất Trì Cung (尉遲恭), Kính Đức là biểu tự, được biết đến với vai trò là một võ tướng và công thần khai quốc của nhà Đường.
[*] 49 Trưởng Tôn Vô Kỵ, biểu tự Phù Cơ (辅机), là đại công thần trong triều đại nhà Đường trải qua ba đời hoàng đế nhà Đường, từ Đường Cao Tổ Lý Uyên, Đường Thái Tông Lý Thế Dân tới Đường Cao Tông Lý Trị.
[*] 48 Đỗ Như Hối (585 - 6 tháng 5 năm 630), tên chữ Khắc Minh, người huyện Đỗ Lăng quận Kinh Triệu (nay là Trường An, thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc), là đại thần thời Đường sơ. Ông là một trong những mưu thần chủ yếu phò Lý Thế Dân.
Cách quan ải ba dặm là hành dinh của Lý Thế Dân, lều trại liên miên, người hô ngựa hí. Lý Thế Dân cũng là vạn bất đắc dĩ, không phải hắn thích ở vùng hoang vu, lần này tuần thú đạo Hà Đông, hắn mang theo năm ngàn cấm quân, cộng thêm thái giám, cung nữ đi theo, còn có hoàng thân quốc thích, đại thần trong triều và tôi tớ của họ, nô bộc do châu huyện cung ứng, nhân mã tổng cộng chừng bảy tám ngàn người. Sau khi rời Giáng Châu, đến thành gần nhất là Tấn Châu cách khoảng một trăm sáu mươi dặm, trên đường không hề có thành thị lớn nào có thể chứa được nhiều người ngựa như vậy. Đến vùng giáp giới giữa hai châu, Lý Thế Dân chợt nhớ ra cách đó không xa có quan ải Thái Bình, liền ra lệnh hạ trại dưới quan ải.
“Giờ đây Trẫm có thiên hạ, nhưng nửa đêm nằm mơ lại thường thấy mình vẫn sống những năm tháng trên lưng ngựa như ngày xưa.” Lý Thế Dân cảm khái: “Các khanh xem, tòa quan ải Thái Bình này vẫn còn giữ lại những vết tích của Trẫm ngày xưa!”
Bùi Tịch cười nói: “Bệ hạ nói đến chuyện ngày trước tấn công quan ải Thái Bình, đột phá bến đò Long Môn đánh thẳng vào trong quan ải đúng không ạ?”
Bùi Tịch năm nay năm mươi chín tuổi, khuôn mặt phúc hậu, nụ cười hiền từ, là tể tướng đầu tiên của Đại Đường. Mặc dù sau đó nhiều lần thay đổi người, nhưng không lâu sau lại làm tể tướng. Không có nguyên nhân nào khác, chỉ vì Đại Đường vừa lập quốc, thiếu tiền, thiếu lương thực, thiếu chiến mã, thiếu vải vóc, cái gì cũng thiếu. Mà năng lực lớn nhất của Bùi Tịch chính là quản tiền. Từ thời Vũ Đức đến thời Trinh Quán, Bùi Tịch đều quản lý số tiền của ít ỏi trong quốc khố đâu vào đấy. Lý Uyên quen biết Bùi Tịch từ khi còn nhỏ, không rời được Bùi Tịch. Sau khi Lý Thế Dân lên ngôi để cho Trưởng Tôn Vô Kỵ làm tể tướng một thời gian, nhưng lại phát hiện ra toàn bộ văn võ trong triều, bản lĩnh quản tiền không ai bằng Bùi Tịch, thế là lại đề bạt Bùi Tịch làm tể tướng.
“Đúng thế!” Lý Thế Dân cười nói, chỉ chỉ một lỗ thủng cách đó không xa: “Còn nhớ không? Lỗ thủng này chính là năm đó Trẫm chỉ huy xe bắn đá bắn thủng, sau đó Trẫm là người đầu tiên nhảy qua lỗ thủng vào trong thành. Đúng rồi, Vô Kỵ, người theo sát sau Trẫm là ngươi đúng không?”
Trưởng Tôn Vô Kỵ là em vợ của Lý Thế Dân, lớn hơn Lý Thế Dân hai tuổi, hai người cùng lớn lên với nhau, luôn rất hợp nhau. Trưởng Tôn Vô Kỵ cười cười: “Thần là người thứ ba, theo sát bệ hạ là Lưu Hoằng Cơ[*].”
[*] 51 Lưu Hoằng Cơ (582 - 650; chữ Hán: 刘弘基). Người Trì Dương Ung Châu, là công thần khai quốc nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.
Lý Thế Dân kinh ngạc một lát, đột nhiên chỉ hắn cười ha hả: “Vô Kỵ này, Trẫm cũng không biết ngươi thành thật hay là xảo trá, không ngờ lại còn chơi trò này với Trẫm.”
Các quần thần trong lòng cũng hiểu, nhất thời đều trở nên căng thẳng. Lão hòa thượng khẽ cau mày, nhưng lại không nói một lời.
Lưu Hoằng Cơ là ái tướng tâm phúc của Lý Thế Dân. Khi Lý Thế Dân vẫn còn là nhị công tử con quan lưu thủ Thái Nguyên đã thân thiết với Lưu Hoằng Cơ đến mức “ra ngoài cùng cưỡi ngựa, vào nhà ngủ chung phòng”. Năm Trinh Quán nguyên niên, Lý Thế Dân vừa lên ngôi, Nghĩa An quận vương Lý Hiếu Thường phản loạn, Lưu Hoằng Cơ ngày thường vẫn qua lại mật thiết với Lý Hiếu Thường nên bị liên lụy. Lý Thế Dân nhanh chóng dẹp loạn Lý Hiếu Thường, lại rất giận Lưu Hoằng Cơ, bèn hạ lệnh cách chức xoá tên.
“Bệ hạ!” Ngụy Trưng đột nhiên nghiêm mặt nói: “Triều ta niên hiệu Trinh Quán, Trinh Quán là cái gì? Trời đất thường sinh dị tượng để nhắc nhở con người, gọi là Trinh Quán. Bệ hạ lên ngôi ba năm, dẹp yên thiên hạ, mở rộng chính đạo. Từ năm Đại Nghiệp[*] thứ bảy đến giờ, mười bảy năm loạn thế, trời đất giống như lò lửa, đào thải rất nhiều anh tài nhân kiệt, có một số người dĩ nhiên là tội không thể tha, nhưng một số người lại là vô tình bị liên lụy. Bệ hạ đổi niên hiệu Trinh Quán, tự nhiên nên mở rộng thánh thính, tái luận công tội từng người. Thần cho rằng Lưu Hoằng Cơ bị cách chức vị không phải do tội của hắn lớn mà là bởi vì bệ hạ trọng tình nghĩa với hắn nên hận cũng càng sâu sắc hơn. Quân trị thiên hạ, có thể không trọng pháp luật mà lại trọng tư tình được sao?”
[*] 52 Tùy Dạng đế Dương Quảng lên ngôi, lấy niên hiệu Đại Nghiệp từ năm 605 đến 617.
Lý Thế Dân yên lặng.
Lưu Hoằng Cơ kỳ thực không hề phạm tội lớn, chẳng qua là Lý Thế Dân cảm thấy bất mãn với Lưu Hoằng Cơ, tình cảm giữa ta và ngươi sâu sắc như thế, ngươi lại lén lút kết giao với tên phản tặc Lý Hiếu Thường này, nhất thời tức giận mới xử trí Lưu Hoằng Cơ.
Nhưng Ngụy Trưng nói như vậy, nhớ tới giao tình với Lưu Hoằng Cơ, Lý Thế Dân không khỏi thở dài, phất tay: “Huyền Thành nói đúng, cho Hoằng Cơ phục chức thôi!” Hắn nhẹ nhàng đặt tay lên tường thành: “Trẫm nhìn thấy tường thành này lại nhớ ngày xưa cùng Thái thượng hoàng kề vai chiến đấu, đánh thẳng đến Long Môn. Những ngày đó, những chuyện đó giống như đèn kéo quân chạy qua trước mắt Trẫm. Đúng vậy, Huyền Thành nói đúng, Trinh Quán là dẹp yên thiên hạ, mở rộng chính đạo. Vậy thì sau khi về kinh sẽ thương nghị lại một lượt tội danh của những quan lại đã bị xử, cố gắng ghi nhận công lao của họ, đặc biệt là những tướng sĩ từng ra sức vì thiên hạ Đại Đường ta, có thể cho họ được lưu danh là tốt nhất.”
“Bệ hạ nhân từ!” Trưởng Tôn Vô Kỵ và Ngụy Trưng cùng khom người thi lễ.
Trong lòng Bùi Tịch lại đột nhiên kinh hãi, còn chưa bình tĩnh lại, Lý Thế Dân đã mỉm cười hỏi ông ta: “Bùi khanh, Trẫm nhớ năm đó khanh không theo Trẫm đi đường Long Môn này đúng không?”
“Đúng thế!” Bùi Tịch bất đắc dĩ phải đáp: “Năm đó thần và Lưu Văn Tĩnh cùng dẫn quân vây khốn thành Bồ Châu, kiềm chế Khuất Đột Thông. Nhưng thành Bồ Châu quá vững chắc, đánh mãi không hạ được, bệ hạ mới hiến kế chia quân, cùng Thái thượng hoàng từ Long Môn vượt qua Hoàng Hà, tiến vào Trường An.”
Vừa nghe thấy cái tên Lưu Văn Tĩnh[*] này, Đỗ Như Hối, Trưởng Tôn Vô Kỵ và Ngụy Trưng đều yên lặng.
[*] 53 Lưu Văn Tĩnh (568-619) tự là Triệu Nhân, tài cao học rộng, có tài thao lược. Là khai quốc công thần trong thời đại Đường sơ. Đương thời Vũ Đức nguyên niên, ông làm lên tới chức vụ tể tướng.
Lý Thế Dân gật đầu, lộ vẻ suy tư: “Lưu Văn Tĩnh… Đã rất nhiều năm chưa từng nghe cái tên này, người này công lao che trời, tội cũng khó tha, hồi kinh… cũng xem xét lại một chút!”
Sắc mặt Bùi Tịch lập tức trắng bệch như tờ giấy, trời đất núi sông trong nháy mắt mất hết màu sắc, trong lòng chỉ lật qua lật lại một suy nghĩ: Bệ hạ… thật tàn nhẫn. Thì ra ý đồ hắn nhắc tới Lưu Hoằng Cơ chính là ở đây… Cuối cùng hắn cũng phải động thủ với ta rồi.
Quần thần đều rất hờ hững, nhìn ông ta hoặc là thương xót, hoặc là châm chọc, không ai nói một lời. Bùi Tịch nhìn lão hòa thượng cầu xin cứu viện, sắc mặt lão hòa thượng không thay đổi, khóe miệng dường như có hàm ý cười cợt.
Trong lòng Bùi Tịch, Lưu Văn Tĩnh tuyệt đối là một chiếc gai cắm vào xương tủy, khi còn sống là thế, sau khi chết vẫn không đổi. Lúc Lý Uyên trấn giữ Thái Nguyên, Lưu Văn Tĩnh là huyện lệnh Tấn Dương, cùng Bùi Tịch tâm đầu ý hợp, hai người cùng hoạch định đại sự phản Tùy của Lý Uyên. Khác nhau ở chỗ Lưu Văn Tĩnh là bạn bè cùng vào sinh ra tử của Lý Thế Dân, còn Bùi Tịch là bạn từ nhỏ của Lý Uyên.
Sau khi Lý Uyên làm hoàng đế, luận công lao Bùi Tịch đầu tiên, Lưu Văn Tĩnh thứ hai. Lưu Văn Tĩnh tài hoa hơn người, nhưng lòng dạ hẹp hòi, rất bất mãn vì địa vị của Bùi Tịch ở trên mình. Mỗi lần bàn việc lớn trên triều, Bùi Tịch ủng hộ, hắn nhất định phản đối, Bùi Tịch phản đối, hắn lại nhất quyết ủng hộ. Ngăn cách giữa hai người càng ngày càng sâu. Đến một lần, Lưu Văn Tĩnh và em trai hắn là Lưu Văn Khởi uống rượu, đều đã uống say, Lưu Văn Tĩnh rút đao chém cột, kêu to: “Phải chém Bùi Tịch!”
Chuyện này làm Bùi Tịch tức giận, biết cục diện của hai người đã là một mất một còn. Lúc đó trong nhà Lưu Văn Khởi xảy ra chuyện ma quái, Lưu Văn Khởi mời pháp sư tới, nửa đêm xõa tóc ngậm đao làm phép diệt trừ yêu nghiệt. Bùi Tịch liền mua chuộc anh trai một tiểu thiếp thất sủng của Lưu Văn Tĩnh, kiện Lưu Văn Tĩnh nuôi tử sĩ, có ý đồ mưu phản.
Lý Uyên hạ lệnh thẩm vấn, Lưu Văn Tĩnh lại ngông nghênh nói: “Khi mới khởi nghĩa, thần là tư mã. Bây giờ Bùi Tịch đã là bộc xạ, quan tước thần được ban tặng lại không khác gì mọi người. Đánh đông dẹp bắc, người nhà không được nhờ, quả thật lòng có chút bất mãn.”
Lý Uyên giận dữ nói: “Lời này của Lưu Văn Tĩnh rõ ràng có ý tạo phản.”
Khi đó đa số các đại thần trong triều đều cho rằng Lưu Văn Tĩnh chỉ là bộc lộ sự ấm ức, Lý Thế Dân cũng cố gắng bảo vệ hắn, nhưng cuối cùng Bùi Tịch lại nói một câu: “Tài năng mưu lược của Lưu Văn Tĩnh quả thật ở trên mọi người, nhưng tính cách đa nghi âm hiểm, không khống chế được tâm tình, lòng bất mãn đã hiển lộ. Hiện nay thiên hạ mới định, bên ngoài có kình địch, nếu tha cho hắn tất sẽ để lại hậu hoạn.”
Thế là Lý Uyên hạ quyết tâm chém đầu Lưu Văn Tĩnh và Lưu Văn Khởi.
Đây là một cái gai lớn nhất trong lòng Bùi Tịch. Ông ta biết Lý Uyên vì thể diện của mình (Bùi Tịch) mới giết Lưu Văn Tĩnh, các đại thần trong triều không hề phục, đặc biệt là Lý Thế Dân. Năm đó Lý Thế Dân chỉ là Tần Vương, bản thân cũng không cần để ý đến hắn nhiều, nhưng bây giờ tên Lý nhị lang này đã là hoàng đế rồi… Nếu hắn muốn lật lại án cho Lưu Văn Tĩnh thì mình sẽ như thế nào?
Trong lòng Bùi Tịch ngày càng rét lạnh không thôi, cái lạnh len qua da thịt, ngấm vào tận xương tủy, toàn thân đều buốt giá.
Trong lúc Bùi Tịch đang ngơ ngác, Lý Thế Dân đã xuống tường thành, chậm rãi đi đến đại doanh dưới sự bảo vệ của Uất Trì Kính Đức. Núi hoang đồng vắng, ánh trăng lạnh chiếu xuống đỉnh núi xanh đen, xa xa truyền đến tiếng dã thú gầm rú trong núi, gió thổi qua cỏ dại phát ra tiếng xào xạc.
Đại doanh xa xa bắt đầu yên ắng lại. Bận rộn cả ngày, quân lính và mọi người phần lớn đều đã đi ngủ, chỉ có đội tuần tra canh gác đang diễu binh, bước chân đều tăm tắp đi qua trước cửa doanh trại, tiếng giáp sắt vang lên chói tai.
Bùi Tịch đi theo phía sau, rảo bước đuổi kịp lão hòa thượng, nói nhỏ: “Pháp Nhã sư phụ, ngài phải cứu lão phu mới được!”
Lão hòa thượng này không ngờ lại là Pháp Nhã, sư phụ của Không Thừa. Pháp Nhã cười cười: “Giờ này ngày này, chẳng phải đại nhân đã biết trước từ khi diễn ra binh biến Huyền Vũ Môn hay sao? Đại kế đã định ra, khi chuyện tới trước mắt cần gì phải hoang mang lo sợ?”
Bùi Tịch lau mồ hôi trên trán, nói nhỏ: “Kế hoạch này có thể thành công hay không còn chưa biết được! Cứ cho là thành công thì có cứu được tính mạng ta hay không?”
Pháp Nhã thản nhiên nói: “Trận cờ này đã tiến vào giai đoạn cờ tàn thu quân, trên đời không một người nào có thể phá vỡ được nữa. Lão nạp đảm bảo đại nhân không chết.”
Bùi Tịch nghe tâm cũng bình tĩnh hơn một chút, một cơn gió thổi qua mới phát hiện trước ngực và sau lưng đều đã ướt đẫm mồ hôi.
Đúng lúc này Lý Thế Dân đi phía trước bỗng khựng lại, đột nhiên chỉ lên trời phía đông, hỏi: “Các khanh, đó là cái gì?”
Mọi người kinh ngạc ngẩng đầu. Trên bầu trời tối tăm, trăng lạnh nghiêng nghiêng, dãy núi im lìm, giữa không trung lại có hai thứ giống đèn đuốc chậm rãi bay tới, nhìn như hai ngôi sao đang lưu động.
“Chẳng lẽ là sao băng?” Trưởng Tôn Vô Kỵ nói.
“Không phải.” Đỗ Như Hối lắc đầu: “Tốc độ của sao băng rất nhanh, xẹt cái là qua, không thể chậm như vậy được. Có lẽ là người ở đâu đó thả đèn Khổng Minh.”
Lý Thế Dân cười: “Hôm nay không phải giao thừa, cũng không phải Nguyên tiêu, thả đèn Khổng Minh làm gì? Nào, chúng ta cùng xem xem.”
Mọi người cùng ngửa cổ quan sát. Hai đốm lửa thăm thẳm đó thoạt nhìn khá xa, lại cưỡi gió mà đi, bay thẳng về phía mọi người. Đến lúc tới gần, mọi người lập tức hoảng sợ, lông măng dựng ngược. Đây đâu phải đèn Khổng Minh, rõ ràng là hai người!
“Bảo vệ bệ hạ!” Uất Trì Kính Đức hét lớn một tiếng, rút roi thép trên lưng ra. Cấm quân hai bên ào ào tràn tới bao quanh mọi người trong ba tầng ngoài ba lớp. Vòng thứ nhất tay cầm mạch đao[*], vòng thứ hai đưa tay giương nỏ, vòng thứ ba thì cầm trường cung, binh tiễn mũi thép đặt lên dây cung. Cấm quân tùy giá xuất hành lần này chủ yếu là kiêu kỵ vệ binh tinh nhuệ nhất trong cấm quân và quân tinh nhuệ được Uất Trì Kính Đức điều động từ mười lăm vệ khác hợp thành, có thể nói là đội quân tinh nhuệ nhất của Đại Đường, chỉ sau mấy nhịp thở, trận địa phòng ngự hoàn chỉnh đã được thiết lập.
[*] 54 Mạch đao là một loại đao chuôi dài của đời Đường.
“Đừng vội động, để xem xem.” Lý Thế Dân dù sao cũng đã trải qua sóng to gió lớn, trầm tĩnh vô cùng, xua tay ngăn Uất Trì Kính Đức.
Lúc này hai người bay trên trời đã cách bọn họ không đến một dặm. Hai người này kỳ lạ vô cùng, vạt áo khẽ bay, dáng vẻ ung dung, chậm rãi bay trên trời, có điều không biết vì sao toàn thân lại được bao phủ ánh sáng giống như ngọn lửa. Hai người này không thèm để ý đến quân đội đang bày trận chờ địch dưới đất, cứ bồng bềnh mà bay, thoáng cái đã đến khoảng cách trăm trượng, là phạm vi cung tên có thể bắn tới, mọi người có thể nhìn rõ ràng hơn, vì thế tất cả đều nổi da gà.
Hai quái nhân này thật sự kỳ lạ, trên mặt chúng không ngờ lại đeo mặt nạ quỷ dữ tợn, còn chỗ mắt miệng lại là những lỗ thủng trống rỗng, bên trong có ngọn lửa u ám. Hai người này dường như còn đang nhếch môi cười.
“Quỷ vật phương nào, dám quấy nhiễu thánh giá?” Uất Trì Kính Đức không đợi Lý Thế Dân hạ lệnh, lập tức quát: “Bắn!”
Ba trăm cây nỏ cùng bấm lẫy, ba trăm mũi tên nỏ ào ào bay đi như vũ bão. Loại nỏ này tầm bắn có thể lên tới ba trăm bước, lực xuyên thấu cực mạnh, tiếng xé gió vù vù nhất thời át hết mọi âm thanh, vô số mũi tên nỏ dày đặc đến nỗi che khuất bóng dáng hai người đó.
Có tiếng phụp phụp vang lên, chỉ dựa vào mắt nhìn cũng thấy được có ít nhất ba mươi mũi tên nỏ xuyên qua hai thân ảnh. Bóng dáng bọn chúng lảo đảo, lượn vòng giữa không trung một lát. Khi mọi người cho rằng bọn chúng sắp rơi xuống, thì chúng vẫn nghênh ngang bay về phía trước như cũ.
Lúc này tất cả mọi người đều kinh hãi. Trên người bọn chúng ít nhất cắm mười bảy mười tám mũi tên, nếu là người bình thường thì sớm đã chết mười bảy mười tám lần rồi, nhưng… bọn chúng lại không có phản ứng gì!
Lý Thế Dân cũng có chút hoang mang, quay lại hỏi mọi người: “Các khanh, đây… đây rốt cuộc là chuyện gì? Trên đời này làm sao lại có người bất tử?”
“Bắn tiếp!” Gã tướng quân bách chiến sa trường Uất Trì Kính Đức này xưa nay không tin tà ma, trường cung thủ buông dây cung, những mũi tên nặng nề bắn ra, phầm phập xuyên qua hai người đó thủng lỗ chỗ, nhưng hai người đó vẫn không nói một lời, cưỡi gió mà đi.
“Ngô Quốc Công khoan đã!” Pháp Nhã vội vàng ngăn cản Uất Trì Kính Đức, nhỏ giọng nói với Lý Thế Dân: “Bệ hạ, hai yêu vật trên trời này, lão tăng cho rằng có lẽ không phải phàm nhân!”
“Không phải phàm nhân?” Lý Thế Dân sững sờ.
Mặc dù thời này trừ loại người điên như Thái sử lệnh Phó Dịch, gần như tất cả mọi người đều tin thần phật quỷ quái, không ít đại thần ở đây trong nhà còn từng xảy ra chuyện ma quỷ, nhưng lại chưa có ai thật sự từng thấy.
Pháp Nhã cười gượng: “Lão nạp cũng không nói rõ được, chỉ cảm thấy bọn chúng trên người dày đặc quỷ khí, không phải thứ ở nhân gian.”
Lý Thế Dân và mọi người yên lặng, thầm nghĩ, chuyện này còn cần ngươi nói nữa sao? Nếu là thứ ở nhân gian thì đã bị bắn chết từ lâu rồi. Có điều Pháp Nhã đi theo nhà họ Lý từ khi Lý Uyên còn làm quan lưu thủ Thái Nguyên, hết mực trung thành. Lão hòa thượng này mưu trí thâm trầm, sở học hỗn tạp, gần như không gì không biết, không đâu không hiểu. Lý Thế Dân cũng rất tin cậy ông ta, lập tức hỏi: “Đại sư, đã là quỷ vật, vậy có phương pháp khu trừ không?”
“Có!” Pháp Nhã nói: “Chỉ cần là vật trong luân hồi tam giới, quỷ cũng thế mà thần cũng thế, bần tăng đều có biện pháp trấn áp nó!”
“Vậy mau mau làm đi!” Lý Thế Dân mừng rỡ.
“Tuân chỉ!”
Pháp Nhã đang định cất lời, đột nhiên hai quỷ vật trên trời bỗng cười ha hả: “Thiên tử Đại Đường, bọn ta từ âm ti địa phủ đến bái yết, nghênh đón bọn ta lại là vô số mũi tên hay sao?”
Nói xong hai quỷ vật này từ từ hạ xuống đất, không ngờ lại cao hơn sáu thước, người mặc áo bào đen, trên mặt đeo mặt nạ dữ tợn, hốc mắt và trong miệng phun ra ánh sáng mơ hồ, đứng giữa nơi hoang vu, ánh trăng soi mặt đất, càng tỏ ra quỷ khí lạnh lẽo làm người ta sợ hãi. Đặc biệt là trên người chúng còn cắm mười mấy mũi tên càng làm mọi người cảm thấy quái dị.
Cấm quân lập tức yểm hộ Lý Thế Dân lui lại khoảng cách năm mươi trượng, bày trận chờ địch.
Lý Thế Dân nhíu mày, phất tay lệnh cho quân lính trước mặt mở ra một lối đi, tiến về phía trước dưới sự bảo vệ của cấm quân, chắp tay nói: “Hai vị xưng hô thế nào? Từ âm ti tới gặp Trẫm là có ý gì?”
“Ha ha ha!” Một trong hai quỷ vật cười nói: “Bọn ta không có danh xưng, là quỷ sai dưới trướng Viêm Ma La Vương ở ngục Nê Lê, phụng mệnh Viêm Ma La Vương đến đây gặp thiên tử Đại Đường. Trong ngục Nê Lê có một vụ kiện, mong bệ hạ ngày rằm tháng tư này tới ngục Nê Lê biện giải.”
“Ngục Nê Lê? Viêm Ma La Vương?” Lý Thế Dân không hiểu ra sao, quay sang nhìn Pháp Nhã.
Pháp Nhã đương nhiên biết, thấp giọng giảng giải cho Lý Thế Dân về ngục Nê Lê và Viêm Ma La Vương. Mọi người không khỏi xôn xao, Trưởng Tôn Vô Kỵ phẫn nộ quát: “Quỷ sai thật to gan, dù Viêm Ma La Vương của các ngươi quản hạt âm ti, nhưng thiên tử Đại Đường ta chính là chí tôn nhân gian, sao lại chịu các ngươi cai quản?”
Quỷ sai cười lạnh: “Xin hỏi Trưởng Tôn đại nhân, trên đời này có ai là không phải chết?”
Trưởng Tôn Vô Kỵ cứng họng.
“Chỉ cần là sinh linh lục đạo, bất kể sinh từ thai hay sinh từ trứng, từ phượng hoàng thiên long cho tới côn trùng, chỉ cần chưa tu được quả vị La Hán, sau khi chết ắt phải vào ngục Nê Lê, sau khi phán xét theo sổ sinh tử lục đạo mới lần lượt đưa về chốn luân hồi. Thiên tử Đại Đường dĩ nhiên là bậc chí tôn chốn nhân gian, nhưng cũng không thoát khỏi sinh lão bệnh tử, sao lại không chịu ách cai quản của vương ta đây?” Quỷ sai đó lạnh lùng nói.
Lý Thế Dân thấy trước mắt mờ đi, cảm thấy hình ảnh này rất quái dị, lại như đang ở trong mơ. Hắn đưa tay chặn Trưởng Tôn Vô Kỵ lại, hỏi: “Theo lời ngươi, có một vụ kiện trong ngục Nê Lê cần Trẫm đến biện giải? Đó là vụ kiện gì?”
“Có hai người là cố thái tử Kiến Thành và Tề Vương Nguyên Cát đã hết dương thọ năm Vũ Đức thứ chín, sau khi chết vào ngục Nê Lê. Viêm Ma La Vương vốn muốn phán quyết đưa vào luân hồi nhưng hai người này không phục, nói hai người chúng ta chết oan chết uổng, nghiệt duyên trên dương thế chưa tận, liền viết cáo trạng kiện ngươi đưa tới trước án của Viêm Ma La Vương. Vì vậy Viêm Ma La Vương lệnh bọn ta đến đây đưa tin cho bệ hạ, nhất định phải đến ngục Nê Lê biện giải.”
Quỷ sai vừa nói xong, mọi người lập tức rì rầm.
Lý Kiến Thành! Lý Nguyên Cát! Tại triều Trinh Quán, hai cái tên này rõ ràng là cấm kỵ. Lý Thế Dân tự tay bắn chết Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát thì bị Uất Trì Kính Đức bắn chết. Sáu con trai của Lý Kiến Thành, ngoài con trưởng chết sớm, năm người còn lại đều bị Lý Thế Dân hạ lệnh chém đầu, năm con trai của Lý Nguyên Cát cũng đồng thời bị giết, nam đinh của hai gia tộc bị hắn chém tận giết tuyệt, cũng có thể nói là trên tay Lý Thế Dân thấm đẫm máu tươi của huynh đệ ruột thịt. Lý Thế Dân hiểu rất rõ ràng, bề tôi của hắn cũng vậy, bất kể vị quân vương này về sau vĩ đại thế nào, có thể cai trị thiên hạ trù phú ra sao, nhưng luận về luân lí hay thiên lí, cả đời hắn sẽ bị chính bản thân mình, người đời và lịch sử xét hỏi.
Nếu nói Lưu Văn Tĩnh là cái gai lớn nhất trong lòng Bùi Tịch thì Kiến Thành và Nguyên Cát chính là cái gai tồn tại vĩnh hằng trong lòng Lý Thế Dân, đâm vào tim gan, đâm vào xương tủy, đâm vào sử sách trăm ngàn năm sau.
Lúc này tất cả mọi người đều kinh ngạc, hoàng đế, đại thần, tướng quân, binh sĩ… ai cũng không dám mở miệng, ai cũng không biết nên nói gì. Tất cả mọi người đều run lên, nỗi sợ hãi dâng trào trong lòng, chỉ hy vọng mình chưa từng trải qua giờ khắc này, chưa từng tới nơi đáng sợ này, chưa từng nghe những lời kinh khủng như vậy. Bọn họ sẵn sàng cắt đứt tai mình.
“To gan!” Uất Trì Kính Đức cực kỳ giận dữ, tay cầm roi thép định chạy tới đập nát hai tên quỷ sai đó.
“Ngô Quốc Công, không được!” Pháp Nhã vội vàng giữ hắn lại, nói nhỏ: “Hãy xem lão hòa thượng dùng Phật pháp trấn áp chúng, ngài ngàn vạn lần không nên tiến lên.”
Uất Trì Kính Đức tỉnh ngộ, hai quỷ vật này ngay cả cung nỏ cũng không sợ, chẳng lẽ lại sợ roi thép của mình hay sao?
“Đại sư cẩn thận!” Hắn nhỏ giọng dặn dò.
“Không sao!” Pháp Nhã phất áo cà sa, bước nhanh về phía trước, đến giữa đồng hoang khoanh chân ngồi xuống, hai tay chắp lại, miệng lẩm nhẩm đọc, đột nhiên hét lớn một tiếng: “Âm ti nhân giới, đạo có bất đồng. Quỷ vật tầm thường, còn không tiêu tán! Biến!”
Pháp Nhã phất tay, một làn ánh sáng màu vàng lướt qua, hai quỷ vật lập tức toàn thân bốc cháy, thân hình cao lớn vùng vẫy trong ngọn lửa và phát ra tiếng kêu the thé, rồi nổ tung. Ngọn lửa tan đi, hai quỷ vật biến mất không còn thấy đâu nữa.
Uất Trì Kính Đức đích thân cầm roi thép đi tới, thấy dưới đất còn sót lại một đống tro giấy, những đốm lửa vẫn còn chưa tắt hẳn. Hắn dùng roi thép gạt gạt, trên một tờ giấy đã cháy một nửa viết vài chữ: “… Tỉ như tam thiên đại thiên thế giới, tất cả cỏ cây hoa lá, lúa đay tre sậy, đá núi bụi bặm, một vật một số, là một sông Hằng. Cát ở sông Hằng, mỗi hạt là một thế giới. Bên trong một thế giới, mỗi bụi là một kiếp, bên trong một kiếp, tích vô số bụi, đến khi đủ kiếp…”
“Bệ hạ…” Hắn quay đầu lại, đang định nói thì thấy ánh mắt Lý Thế Dân ngơ ngác nhìn ngọn lửa đã tắt dưới đất.
Giờ thìn hôm sau, đội ngũ mang theo nghi trượng[*] sáng ngời nhổ trại xuất phát, bầu không khí trên đường vô cùng nặng nề, tất cả mọi người đều sợ hãi bất an trong sự yên lặng của Lý Thế Dân. Đội ngũ bảy tám ngàn người mà không một ai dám lớn tiếng, chỉ có tiếng vó ngựa, tiếng bước chân và tiếng bánh xe cót két.
[*] 55 Khí cụ dùng cho nghi vệ, hay dùng khi vua quan đi đường, như tàn, cờ xí, quạt, binh khí…
Đường Hà Đông gập ghềnh khúc khuỷu, mở giữa thung lũng sông Phần Thủy, xa xa sông Phần Thủy cuồn cuộn chảy, dường như giội rửa bớt nỗi bất an trong lòng đám người. Phía trước chính là thành Tấn Châu, chỉ có vài chục dặm đường mà đến tận hoàng hôn mới đi tới ngoài thành.
Thứ sử Tấn Châu Triệu Nguyên Giai sớm đã dẫn bô lão toàn thành ra ngoài thành ba mươi dặm nghênh đón. Triệu Nguyên Giai là hiền tế của Bùi Tịch, cũng biết tình hình nhạc phụ lúc này không thuận lợi, đúng lúc hoàng đế ghé thành Tấn Châu, hắn tìm mọi cách nịnh bợ khiến hoàng đế vui lòng, hy vọng có thể thay đổi ấn tượng của hoàng đế đối với chính mình và nhạc phụ.
Xa giá chậm rãi đi tới. Lý Thế Dân cùng Trưởng Tôn Vô Kỵ ngồi trong xe đang trò chuyện, đột nhiên nghe thấy tiếng hô thanh thế to lớn: “Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế…”
Lý Thế Dân giật mình, lệnh thái giám vén rèm xe lên, lập tức chết sững. Một đám người mặc áo vàng, tóc hoa râm quỳ hai bên đường, cũng khoảng chừng bốn năm trăm người. Hắn nhìn kỹ hơn, phát hiện họ đều là những cụ già sáu bảy mươi tuổi trở lên, trên người mặc áo sa màu vàng, run rẩy quỳ lạy, cũng không biết là vì thể lực suy nhược hay là gió gần tối hơi lạnh.
“Chuyện gì thế này?” Lý Thế Dân hỏi.
Thái giám lập tức chuyển lời xuống, một lát sau, một vị quan văn khoảng bốn mươi tuổi, mặc quan phục màu đỏ, hông đeo túi ngân ngư[*] vội vã đi tới bên cạnh xa giá, quỳ xuống: “Thần thứ sử Tấn Châu Triệu Nguyên Giai tham kiến bệ hạ!”
[*] 56 Túi ngân ngư là vật mà quan viên thời Đường, Tống thường đeo để chứng minh thân phận.
“A, ra là Triệu ái khanh, bình thân!” Lý Thế Dân biết hắn là hiền tế của Bùi Tịch. Bùi Tịch có ba ái nữ, nhị nữ gả cho Triệu Nguyên Giai: “Trẫm hỏi khanh, tại sao bên đường lại có nhiều người già quỳ như vậy?”
Triệu Nguyên Giai tươi cười hớn hở: “Đây đều là các bô lão thành Tấn Châu, nghe nói bệ hạ tuần thú Hà Đông đều muốn được thấy thiên nhan, vì thế hạ thần tự ý cho họ mặc áo sa vàng đến nghênh đón.”
Lý Thế Dân lập tức nổi nóng, một bụng phiền muộn đang không có chỗ trút, vỗ mạnh xuống xe, quát: “Ngươi thân là thứ sử thay Trẫm trông coi một phương, lẽ thường nên làm chuyện kính lão. Ngươi xem, ngươi xem đi, ở đây có người nào không phải bảy tám mươi, đều đáng tuổi phụ hoàng của Trẫm rồi, ngươi bắt họ đi ba mươi dặm, quỳ dưới đất cả nửa ngày, chỉ là để nghênh đón Trẫm?”
Triệu Nguyên Giai ngây người, vội quỳ xuống đất, không ngừng khấu đầu.
Lý Thế Dân càng nói càng giận: “Phụ thân ngươi đâu? Phụ thân ngươi đâu? Hắn có đến quỳ nghênh đón Trẫm không? Bắt hắn đi ba mươi dặm, quỳ cả nửa ngày trời, ngươi có nhẫn tâm làm vậy không? Kính phụ mẫu ta cũng phải kính bô lão khác, ngươi đọc thi thư nhiều năm như vậy để làm gì?”
Triệu Nguyên Giai than thở khóc lóc, quỳ lạy không thôi.
Lý Thế Dân còn định phát hỏa tiếp, Trưởng Tôn Vô Kỵ vội vàng khuyên ngăn: “Bệ hạ, Triệu Nguyên Giai là lỗi vô ý, chỉ bảo như vậy hẳn cũng nhận ra sai lầm rồi. Nếu trách cứ quá mức, sợ rằng Bùi tướng và Triệu công quá cố cũng sẽ hổ thẹn.”
Lý Thế Dân cố nén giận, hừ một tiếng: “Gã Triệu Nguyên Giai này trước kia khí tiết thế nào, ngay cả phu nhân hắn cũng là nữ tử tiết liệt, tại sao bây giờ lại u mê đến mức độ này?”
Trưởng Tôn Vô Kỵ im lặng. Triệu Nguyên Giai cũng là một danh nhân trên quan trường thời Đường sơ, hắn vốn xuất thân sĩ tộc, phụ thân từng làm Bộc xạ triều Tùy, trước kia lấy con gái nhà họ Thôi - đệ nhất sĩ tộc Hà Đông. Thôi Thị chú trọng lễ nghi, Triệu Nguyên Giai rất kính trọng Thôi Thị, cho dù ở nhà yến ẩm cũng không dám nói cười tùy tiện, tiến lùi đi đứng, quần áo trang sức đều hợp lễ nghi.
Không ngờ Tùy Mạt đại loạn, Vũ Văn Hóa Cập tạo phản, Triệu Nguyên Giai buộc phải trốn về Trường An, nhưng không may trên đường đi gặp phải thổ phỉ, Thôi Thị bị giặc cướp bắt đi. Tướng cướp muốn nạp nàng làm thiếp, Thôi Thị không nghe, hắn ta trói nàng lại định giở trò cưỡng bức. Thôi Thị khôn khéo, giả vờ đáp ứng để tướng cướp cởi trói ra. Nàng cầm thanh bội đao chĩa về phía tướng cướp nói: “Muốn giết ta cứ việc. Muốn tìm chết thì cứ tới ép ta!” Tướng cướp giận dữ, loạn tiễn bắn chết Thôi Thị. Sau đó Triệu Nguyên Giai bắt được tên tướng cướp giết hại thê tử mình, đích thân lăng trì hắn, tế bái trước linh vị Thôi Thị.
Bùi Tịch nghe nói việc này, cảm động trước sự tiết liệt của Thôi Thị và tình nghĩa của Triệu Nguyên Giai, liền gả nhị nữ cho hắn.
Lý Thế Dân cũng không định dây dưa với Triệu Nguyên Giai nữa, phất tay đuổi hắn tránh ra, lệnh hắn chuẩn bị xe đưa các bô lão về thành cẩn thận.
Xa giá tiếp tục đi về phía trước, đến cổng thành, Lý Thế Dân lại kinh ngạc, thấy cổng thành giăng đèn kết hoa, dùng lụa đỏ vàng trang trí rực rỡ, kéo dài hai dặm.
Lý Thế Dân cố nén tâm tình không vui mà vào thành. Triệu Nguyên Giai sớm đã yêu cầu hai đại hộ trong thành nhường lại dinh thự. Hai hộ mở lối thông nhau, mấy trăm gian phòng miễn cưỡng mà tính thì cũng đủ để hoàng đế ở tạm. Dù vậy cũng thôi, nhưng trên đường Lý Thế Dân đi qua, khắp nơi đều có mùi sơn mới, mấy trăm gian phòng đều trang hoàng xa hoa.
Lý Thế Dân lại giận, hỏi: “Triệu Nguyên Giai đâu?”
Thái giám ra ngoài hỏi, về bẩm: “Thưa Bệ hạ, Triệu thứ sử nuôi mấy trăm con dê, mấy ngàn con cá, đang mang biếu từng hoàng thân.”
Choang! Lý Thế Dân giận dữ đập tan chén trà, quát: “Tìm hắn về đây cho Trẫm!”
Lúc này Bùi Tịch vừa mới sắp xếp xong chỗ ở, viên thái giám hầu cận Lý Thế Dân có giao hảo với ông ta lập tức đưa tin tới. Bùi Tịch toát mồ hôi lạnh khắp người, kéo Pháp Nhã chạy tới chính gian nơi Lý Thế Dân ở. Trên đường gặp Triệu thứ sứ cũng đang vội vàng chạy tới, nhìn thấy Bùi Tịch, hắn khom người thi lễ: “Nguyên Giai bái kiến nhạc phụ đại nhân.”
“Miễn đi, miễn đi!” Bùi Tịch toát mồ hôi, nói nhỏ: “Ngươi làm cái gì thế? Sao lại làm long trọng như vậy?”
Triệu Nguyên Giai sầu não: “Nhạc phụ đại nhân, tiểu tế không hề có ý thất lễ! Tất cả nghi thức đều theo đúng quy chế tiên triều, bệ hạ tuần thú, sao có thể thiếu lễ số?”
“Ngươi…” Bùi Tịch ngẩng mặt thở dài, trong bụng đắng ngắt.
Mấy người đến chính sảnh, Lý Thế Dân vẫn đang nổi giận đùng đùng, vừa thấy Triệu Nguyên Giai liền quát tháo: “Triệu Nguyên Giai, Trẫm hỏi ngươi, một tháng trước Trẫm đưa công văn tới đạo Hà Đông có nói thế nào?”
“Bệ hạ phát công văn lệnh các nơi chuẩn bị tiếp giá, tất cả công việc lấy đơn giản làm đầu, không được xa hoa, càng chớ quấy nhiễu dân.” Triệu Nguyên Giai nói chính khí lẫm liệt.
“Thế còn ngươi?” Lý Thế Dân giận dữ.
“Thần không hề làm gì vượt quá lễ số.” Triệu Nguyên Giai nói: “Do đây là lần đầu tiên, qua hai đời đế vương triều ta mới tuần thú Hà Đông, không hề có tiền lệ để làm theo, tất cả công việc thần đành phải lấy tiên triều làm chuẩn. Bệ hạ ra lệnh không được nhiễu dân, thần cũng không dám trắng trợn quấy nhiễu, hết thảy lấy đơn giản làm đầu.”
“Tiền triều…” Lý Thế Dân tức đến vẹo mũi: “Ngươi coi Trẫm như Tùy Dạng Đế? Dạng Đế nam tuần, mấy triệu dân phu phải đi đào kênh, có phải ngươi cũng muốn đào một con kênh xuyên qua núi này cho Trẫm đi thuyền rồng không? Dạng Đế không quý sức dân, dẫn đến thiên hạ đại loạn, có phải ngươi cũng muốn vắt kiệt sức dân, làm cho bách tính thiên hạ nhổ nước bọt vào mặt Trẫm không?”
Triệu Nguyên Giai lập tức hồn phi phách tán, vội vàng quỳ xuống: “Thần tuyệt không có lòng này!”
Bùi Tịch cả người đầy mồ hôi, nhưng đương sự là hiền tế của mình, không tiện giải thích, đành phải ra sức nháy mắt với Trưởng Tôn Vô Kỵ. Trưởng Tôn Vô Kỵ thở dài: “Bệ hạ, việc này cũng không hoàn toàn trách Triệu thứ sử được, Thái thượng hoàng và bệ hạ đều chưa từng tuần thú Hà Đông lần nào, đặc biệt là ba năm bệ hạ lên ngôi còn chưa từng rời khỏi đạo Kinh Kỳ, quan địa phương cũng không có kinh nghiệm tiếp giá! Triệu thứ sử là người công chính, mặc dù hơi câu nệ lễ số nhưng cũng chưa đến mức dám vắt kiệt sức dân.”
Lý Thế Dân hầm hừ, chỉ Triệu Nguyên Giai nói: “Trẫm tuần du Hà Lạc, đi qua nhiều châu, phàm có gì cần đều do quan phủ cung ứng vật tư, không dám sử dụng một xu một hào của dân. Ngươi bắt bô lão trong châu đi chịu lạnh Trẫm đã không nói, thế còn dê cá của ngươi là ở đâu ra? Còn không phải lấy từ trong nhà bách tính? Ngươi trang hoàng nhà cửa đình viện, tiền đó ở đâu ra? Không phải từ kho quan phủ thì chính là từ mồ hôi nước mắt dân chúng! Tơ lụa và dân phu ngươi dùng để trang hoàng cổng thành từ đâu mà có? Thuế thu phải nộp lên trên đều có định mức, ngươi dám cắt xén hay sao? Còn không phải lại lấy của dân? Đây là hủ tục làm vong Tùy, triều ta sao có thể làm theo?”
Triệu Nguyên Giai cực kỳ xấu hổ, khấu đầu nói: “Thần… đã hiểu nỗi khổ tâm của bệ hạ!”
Lý Thế Dân lập tức đưa ra quyết định, miễn chức Thứ sử Tấn Châu của Triệu Nguyên Giai, lệnh quan phủ bồi thường những thứ trưng thu của người dân theo đúng định giá, đồng thời lệnh Đỗ Như Hối gửi công văn cho các châu huyện ven đường, coi đây là bài học.
Lý Thế Dân ở lại Tấn Châu hai ngày, thị sát dân sinh xung quanh, coi như hài lòng, biết Triệu Nguyên Giai không phải một kẻ ngu ngốc, trong lòng cũng bớt giận hơn, hôm rời khỏi Tấn Châu cố ý mời Bùi Tịch và Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng ngồi long liễn.
Bùi Tịch được sủng ái mà lo sợ, nhiều lần khước từ, đãi ngộ này không phải người thường có thể hưởng thụ. Ngay cả hai trọng thần tâm phúc là Phòng Huyền Linh[*], Đỗ Như Hối cũng chỉ khi có việc thương nghị mới nhận được trọng đãi cùng ngồi long liễn, bình thường chỉ có Trưởng Tôn Vô Kỵ được hưởng.
[*] 57 Phòng Huyền Linh vốn tên là Kiều (乔), Huyền Linh là biểu tự. Một vị quan lại đời nhà Đường, nổi tiếng là một mưu sĩ, về sau làm chức quan Tư mã, Tể tướng và Tể phụ của Đường Thái Tông Lý Thế Dân.
Lý Thế Dân lệnh Trưởng Tôn Vô Kỵ kéo ông ta lên, cười nói: “Bùi khanh là trọng thần số một triều Đường, Vô Kỵ cũng hết mực trung thành với Trẫm, cùng ngồi long liễn, trừ hai ngươi ra còn ai có tư cách này?”
Bùi Tịch lại toát mồ hôi lạnh, lần này thậm chí còn kinh sợ hơn lần ở quan ải Thái Bình nhiều. Lời này của Lý Thế Dân hiểu từ mặt chữ là coi trọng ông ta, nhưng hàm ý trong đó Bùi Tịch rất rõ ràng: “Ngươi là người của Thái thượng hoàng, Vô Kỵ là người của Trẫm!”
“Ôi, lần này Trẫm trách phạt Nguyên Giai, Bùi khanh cũng chớ để trong lòng.” Lý Thế Dân than thở: “Triều ta mới lập, căn cơ không sâu, dân chúng khó khăn, nếu quan địa phương không biết quý sức dân, ngày sụp đổ cũng không còn xa nữa!”
“Bệ hạ xử lý rất đúng, thần không có một chút oán hận nào.” Bùi Tịch cẩn thận nói: “Thần mấy năm nay biết rõ những gian nan của triều ta, chỉ riêng lương thực, nếu không có mấy kho lớn Tiền Tùy để lại, chỉ dựa vào địa tô của châu huyện thì căn bản là thu không đủ chi. Sức dân giống như núi lửa, một khi đè ép quá, mạnh mẽ như Tiền Tùy cũng diệt vong trong sớm tối. Đã có vết xe đổ, thần làm sao dám không cẩn thận hết mức.”
“Bùi khanh nói rất hay!” Lý Thế Dân luôn luôn tán thưởng năng lực của Bùi Tịch. Theo hắn, vị trí tể tướng này chưa chắc đã cần người quá giỏi, nhưng nhất định phải điều hòa được quan hệ trên dưới trong triều, khiến mọi người liên kết thành một sợi dây vững chắc, năng lực của Bùi Tịch về mặt này vượt xa người khác: “Nguyên Giai mặc dù vẫn tận trung chức trách, nhưng lại có một chút cố chấp, ảnh hưởng quá nhiều bởi phong cách quan chức Tiền Tùy. Trẫm bãi chức cũng là để hắn xem xét lại mình một phen. Trẫm đã hạ chỉ, lệnh Thứ sử Bồ Châu Đỗ Sở Khách đến Tấn Châu nhậm chức.”
“Thần nhất định sẽ quản giáo nghiêm khắc.” Bùi Tịch gật đầu. Ông ta cũng biết tật xấu của Triệu Nguyên Giai, hắn thuộc dạng mọt sách, nhưng không giỏi suy đoán ý đồ của quan trên, lần này vỗ mông ngựa lại vỗ nhầm vó ngựa. Chỉ cần mình không ngã thì có thể làm hắn phục chức, lần này bãi quan cũng không có gì đáng ngại.
“A, Bùi khanh này, Nguyên Giai là phu quân của nhị nữ nhà khanh đúng không nhỉ?” Lý Thế Dân hỏi, “Nhà khanh có mấy khuê nữ?”
Bùi Tịch kinh hãi, gắng gượng cười nói: “Thần có ba khuê nữ, nhị nữ gả cho Nguyên Giai.”
“Còn đại nữ?” Lý Thế Dân cười hỏi.
“Đại nữ gả cho tam tử của Đoàn Chí Huyền.” Bùi Tịch đáp.
Đoàn Chí Huyền là đại tướng tâm phúc của Lý Thế Dân, hết mực trung thành với Lý Thế Dân, đã tham gia binh biến Huyền Vũ Môn, năm Trinh Quán nguyên niên được phong làm Tả kiêu vệ Đại tướng quân Phàn Quốc Công. Ông ta trị quân nghiêm cẩn, Lý Thế Dân đánh giá là “Chu Á Phu[*] cũng không hơn.” Mình gả con gái cho con trai của Đoàn Chí Huyền, Lý Thế Dân sao có thể không biết? Trong lòng Bùi Tịch có một dự cảm chẳng lành.
[*] 58 Là nhà quân sự và thừa tướng của Hán triều trong lịch sử Trung Quốc, con trai quan đại thần khai quốc nhà Hán, Chu Bột. Ban đầu, ông được phong chức Quận thủ Hà Nội, sau được tấn tước Điều hầu.
Lý Thế Dân gật đầu: “Vậy còn tam nữ?”
“Ơ…” Bùi Tịch lập tức đỏ mặt, lúng túng không nói nên lời.
“Bệ hạ!” Trưởng Tôn Vô Kỵ nhắc khéo: “Bùi tam tiểu thư bốn năm trước đã không rõ tung tích.”
“Sao?” Lý Thế Dân nhíu mày: “Không rõ tung tích? Chẳng lẽ là gặp chuyện bất trắc gì?”
Bùi Tịch không biết làm thế nào, ông ta cũng biết Lý Thế Dân không thể không rõ chuyện này, chỉ nói thật nhỏ: “Tam nữ của thần… Năm Vũ Đức thứ chín bị một tăng nhân mê hoặc, không ngờ lại bỏ đi theo hắn… Thần từng sai người truy tra, có điều… Liên quan đến thể diện, không tiện nói với người ngoài.”
Lý Thế Dân ngẩn ra, đột nhiên cả giận nói: “Yêu tăng phương nào? Không giữ thanh quy giới luật, lại đi dụ dỗ tiểu thư quan gia?”
Bùi Tịch đầu đầy mồ hôi, đỏ bừng mặt: “Thần cũng không biết pháp danh của hắn. Ngày đó, trong nhà thần làm pháp sự, mời đại sư ở chùa Trang Nghiêm đến, tăng nhân này cũng trà trộn vào, không biết phải làm sao…!”
Môi ông ta run rẩy không nói tiếp được nữa. Lý Thế Dân gật đầu cảm thông, cũng không vặn hỏi thêm.
Ngoài mặt Bùi Tịch ra vẻ trầm tư, nhưng trong lòng lại đang dậy sóng, chỉ có một suy nghĩ duy nhất: “Hắn biết rồi… Hắn biết rồi… Trường Tiệp ơi… Trường Tiệp, nếu toàn bộ kế hoạch này phải chịu đổ sông đổ biển chỉ vì ngươi, lão phu nhất định phải băm ngươi ra làm trăm mảnh mới hả mối hận này!”