← Quay lại trang sách

PHỤ LỤC Tư liệu lịch sử về nhân vật và địa lý-Pháp Nhã

Pháp Nhã, xuất thân là con nhà lương thiện ở đạo Hà Đông, trưởng thành trổ mã nhìn thuận mắt, thông tuệ hơn người, am hiểu bấm độn giải quẻ, tinh thông chiến trận. Lý Uyên làm quan nhà Tùy, tình cờ gặp nhau trên đường tiến về Trường An, mới kết giao thành bạn, cùng đàm đạo, “Kính bậc kỳ tài uyên thâm tường tỏ, vừa ý lẫn nhau mà kết tình hảo hữu.” Vừa lòng nên mới dẫn Nhã về phủ, sai các con ra hành lễ vái chào. Khi Lý Uyên khởi binh tại Thái Nguyên, Nhã lại ngồi trong lều chủ tướng, can dự chuyện cơ binh mật yếu, Lý Uyên nhất nhất làm theo mưu lược do Nhã bày cho, quyền thế của Nhã ngày một lớn. Sau này Lý Uyên xưng đế, ngỏ ý muốn phong quan cho Nhã, nhưng Nhã từ chối, liền phong cho Nhã làm trụ trì chùa Hóa Độ.

(Theo “Bản ghi chép về Đại Đường trong thời kỳ gây dựng đại nghiệp, bình ổn thiên hạ - Đại Đường sáng nghiệp khởi cư chú”)

Năm Trinh Quán thứ ba, có một vị tăng sĩ danh xưng là Pháp Nhã, thuở đầu lập quốc được ban ân huệ tự do ra vào trong cung cấm, sau này vua ban lệnh cấm tuyệt, cắt bỏ ân sủng này, Pháp Nhã mới sinh lòng oán thán, ngửa đầu nhìn trời mà nói ra những lời tà mị mê hoặc, bất kính, nên bị khép tội xử tử hình. Binh bộ Thượng thư Đỗ Như Hối đứng ra xét xử vụ án này, Pháp Nhã mới xin thưa, trước khi chết có vài lời rằng: “Pháp Nhã chỉ là đang bấm giờ gieo quẻ, hòng tìm thuốc trị bệnh truyền nhiễm, trước giờ không dám hồ đồ xưng lời mê hoặc, bất kính.” Dựa vào những lời này mà Pháp Nhã được tha, nhưng bị bãi bỏ tước vị, cắt giảm phân nửa tài sản, thả cho về quê.

(Theo “Cựu Đường Thư - Bùi Tịch liệt truyện”)

Trường Tiệp

Trường Tiệp, tục danh Trần Tố, là anh thứ hai của Huyền Trang. Thần thái hơn người, khôi ngô tuấn tú, dáng người cao lớn khỏe mạnh, nhiều điểm giống cha nhất, biết hiếu kính bề trên, thông minh ham học hỏi. Anh chị em tổng cộng bốn người, Trường Tiệp là con thứ ba, Huyền Trang là con út. Anh cả không thể kiểm chứng được tên và thân phận. Chị gái gả cho nhà họ Trương ở Doanh Châu (huyện Nhiêu Dương, tỉnh Hà Bắc hiện nay). Trường Tiệp từ nhỏ đã xuất gia tại chùa Tịnh Thổ ở Lạc Dương. Huyền Trang đến năm năm tuổi thì mất mẹ, mười tuổi mất cha, vì thế Trường Tiệp mới dắt đệ đệ tuổi còn nhỏ đến chùa Tịnh Thổ xuất gia, “vì không để Huyền Trang còn nhỏ đã phải chịu cảnh khốn cùng túng quẫn, mới dắt đệ đệ theo cùng, ngày ngày truyền giảng pháp lý uyên thâm, đồng thời cũng kiêm luôn việc uốn nắn, dạy cách đối nhân xử thế.”

Năm Vũ Đức nguyên niên, Lạc Dương loạn lạc, Trường Tiệp dắt Huyền Trang chạy nạn tới Trường An. Mùa đông cùng năm, hai huynh đệ vượt Tần Lĩnh đến chùa Đa Bảo ở Ích Châu. Trường Tiệp tinh thông Phật học và Lão Trang, giỏi ăn nói, rất có phong phạm danh sĩ, Toản Quốc Công tổng quản lộ Ích Châu khi ấy là Đậu Quỹ, cùng Thượng thư bộ Dân, quản giám Ích Châu lúc bấy giờ là Vi Vân Khởi đều rất kính trọng. Người đương thời truyền tụng, “xưa nghe Tuân thị tám rồng, nay thấy Trần môn song ký”.

Năm Vũ Đức thứ tư, Huyền Trang muốn rời khỏi Ích Châu đi vân du tham học, nhưng chế luật thời Đường sơ thực hiện chính sách cấm quan, người đi đường “bắt buộc phải có giấy thông hành”, tức công văn qua quan ải, phàm là tăng lữ vân du đều bắt buộc phải có để hỗ trợ việc kiểm soát quá trình thông quan. Người tự ý vượt quan ải trái phép, bắt được bị giam một năm. Trường Tiệp nghĩ đến an toàn của Huyền Trang, kiên quyết cấm Huyền Trang rời khỏi đất Xuyên. Thế nên Huyền Trang mới để lại một bức thư từ biệt, được sự trợ giúp của thương nhân qua lại đường thủy Trường Giang, một mình lên thuyền, đi xuôi sông xuống. Từ đó cùng Trường Tiệp lạc nhau, đến cuối đời Huyền Trang không hề gặp lại.

(Theo chỉnh lý “Tam Tạng pháp sư truyện”, “Đại Đường Tam Tạng Huyền Trang pháp sư hành trạng”, “Tục Cao tăng truyện”)

Thôi Giác

Thôi Giác, tên chữ là Tử Ngọc, người huyện Cổ Thành, Kỳ Châu, Sơn Tây, sinh vào thời Tùy. Cha của Thôi Giác tên Nhượng, mẹ họ Lưu, thường ngày làm việc nhân đức, mơ thấy thần núi Đại ban cho đôi ngọc, bảo hai vợ chồng nuốt vào, sau sinh hạ Thôi Giác. Sau đó được tiến cử hiếu liêm, năm Đường Trinh Quán thứ bảy nhập sĩ, làm huyện lệnh Trường Tử ở Lộ Châu, có thể “Ban ngày xử kiện dương gian, ban đêm xử án âm ti, phán xét cả người lẫn ma, hơn hẳn thần linh.” Sau khi Thôi Giác chết, bách tính lập miếu thờ cúng ở nhiều nơi, nói Giác xuống địa phủ làm phán quan, trông coi sổ sinh tử.

(Theo chỉnh lý “Liệt tiên toàn truyện” của Vương Thế Trinh thời Minh, “Chú đỉnh dư văn” của Diêu Phúc Quân thời Thanh)

Thôi Giác, tên chữ là Mộng Chi, thi nhân nổi tiếng thời Đường. Đã từng được nhận nuôi ở Kinh Châu, lớn lên đỗ tiến sĩ, được phong bí thư lang, làm huyện lệnh, tạo phúc cho dân, quan đến Thị Ngự. “Toàn Đường Thi” quyển năm trăm chín mươi mốt ghi lại chín bài thơ của Giác, đều là kiệt tác. Giác là bạn thân của Lý Thương Ẩn, trong bài thơ “Khóc Lý Thương Ẩn” có câu “Uổng mang vạn trượng tài cao vợi, một đời tham vọng vẫn chưa khơi” được coi là thiên cổ tuyệt cú.

(Theo chỉnh lý “Toàn Đường Thi”)

Thôi Giác trong truyện này là sự kết hợp của cả hai người nói trên.

Chuyện đầu tiên về Thôi Giác xuất hiện trong biến văn Đôn Hoàng “Đường Thái Tông du minh ký”, có từ thời Võ Tắc Thiên. Sau lần hoàn hồn từ cõi âm ti, Thôi Giác được Đường Thái Tông phong làm thứ sử Bồ Châu kiêm thái phỏng sứ hai mươi bốn châu Hà Bắc, sau đó làm lên tới chức ngự sử đại phu, ban cho túi tử kim ngư.

Những năm Thiên Bảo nhà Đường, An Sử phản loạn, Huyền Tông trốn về phía nam đến Xuyên Thục. Thôi Giác báo mộng cho Huyền Tông: “Không phải sợ, giặc không lâu sẽ bình.” Sau đó quả nhiên bình định loạn An Sử, Huyền Tông trở lại Trường An, nhớ Thôi Giác có công báo tin, đặc biệt lệnh xây một miếu ở Trường An, phong làm Linh Thánh Hộ Quốc Hầu.

Thời Thái Tông nhà Bắc Tống có công chúa cầu phúc Thôi phủ quân, cầu được ước thấy, được ban danh Hộ Quốc. Năm Cảnh Hựu thứ hai, Tống Nhân Tông gia phong Thôi phủ quân làm Hộ Quốc Hiển Ứng Công, năm Nguyên Phù thứ hai, Tống Triết Tông cải phong làm Hộ Quốc Hiển ứng Vương. Thời Tống Huy Tông lại gia phong làm Hộ Quốc Hiển Ứng Chiêu Huệ Vương. Kể cả là Đại Kim (Kim Triều) đối địch với nước Tống cũng không hề xa lánh, phong cho Thôi Giác làm thần núi Hành Sơn.

Cuối thời Bắc Tống, hai vua Huy, Khâm bị bắt làm tù binh, Khang Vương Triệu Cấu muốn lên bắc giảng hoà, nghỉ chân tại miếu Thôi phủ quân, gieo quẻ xem hung cát, Thôi Giác hiển linh, ngăn cản Cấu lên bắc, lại được yên ổn hơn trăm năm.

(Theo “Tam Triều Bắc Minh hội biên” của Từ Mộng Tân)

Việc này được ghi lại cặn kẽ hơn trong sách “Tĩnh Viêm lưỡng triều kiến văn lục” thời Nam Tống: “… Khang Vương liền nghe theo đề nghị của Tông Trạch, không đi sứ phương bắc nữa mà bí mật quay về. Được tin Khang Vương tự ý về nước, Quản Ly rất hối hận, phái kị binh giục đi tiếp. Khang Vương tránh né, đi đường mệt mỏi, mới dừng nghỉ tại miếu Thôi phủ quân, chợp mắt một lát. Không lâu sau chợt có người gọi: ‘Mau lên ngựa, truy binh đến rồi!’ Khang Vương nói: ‘Không có ngựa, biết làm thế nào?’, người kia nói: ‘Đã chuẩn bị ngựa, đại vương mau ra roi!’ Khang Vương nhìn quanh, quả nhiên có con ngựa đứng bên cạnh, liền nhảy lên ngựa, một ngày đêm chạy bảy trăm dặm không ngừng nghỉ. Thấy ngựa đứng yên không đi nữa, ngài mới xuống ngựa xem xét, bấy giờ mới biết ngựa mình cưỡi là ngựa đất của Thôi phủ quân.

Có công lớn như vậy, Thôi Giác được Nam Tống trọng đãi. Những năm Thuần Hi, Tống Hiếu Tông theo lệnh Tống Cao Tông phong Thôi Giác làm Hộ Quốc Hiển Ứng Hưng Thánh Phổ Hựu Chân Quân.”

(Theo “Nam độ ký”)

Còn có một công lao lớn hơn, theo “Trung hưng tiểu ký” của Hùng Khắc ghi lại: Sau khi con trai duy nhất là thái tử Nguyên Ý chết non, Tống Cao Tông không có con nối dõi, cho nên đành phải lựa chọn người kế vị trong các dòng họ. Trước khi Triệu Thận ra đời, mẹ Thận mơ thấy thần nhân mặc áo đỏ tự xưng Thôi phủ quân ôm một con cừu cho mình, nói “Coi đây là dấu hiệu”, sau đó liền có thai. Cao Tông nghe nói, cho rằng đứa bé này không tầm thường, nhận vào trong cung nuôi dưỡng. Năm Thiệu Hưng thứ ba mươi hai, Cao Tông nhường ngôi cho Triệu Thận, chính là Hiếu Tông, sau khi lên ngôi chăm lo việc nước, trở thành hoàng đế kiệt xuất nhất của Nam Tống.

Có ơn này, đế vương Nam Tống không tiếc sắc phong cho Thôi Giác, xây dựng nhiều miếu thờ, điện Hiển Ứng Quan ở thành Lâm An hoa lệ vô cùng, tên điện được ngự bút đề tặng, từ đường tráng lệ, tượng thờ trang nghiêm, hành lang quanh co, trang trí tinh xảo. Cao Tông, Hiếu Tông còn thường tới thăm, còn từng cho rằng điện chỉ được quét vôi, xem chừng vẫn tối tăm lắm, mới ban vàng để dát tượng, trang hoàng lại điện cho sáng sủa hơn. Khi đó khắp cả nước đều có miếu Thôi phủ quân, chỉ tính riêng vùng Sơn Tây, đông nam Tấn (Châu Tấn) và các khu vực xung quanh, gần như không huyện nào không có miếu, thậm chí một huyện có đến ba bốn miếu thờ.

Thời nhà Nguyên, Thôi Giác được phong làm “Linh Huệ Tế Thánh Quảng Hựu Vương”.

Năm Hồng Vũ thứ tư của nhà Minh, thái tổ Chu Nguyên Chương phong Thôi phủ quân làm thần, hàng năm đến tế.

Danh tiếng của Thôi Giác còn hơn cả đế vương, ngàn năm không diệt. Đến nay vẫn còn miếu thờ.

Chùa Hưng Đường

Đời Đường có nhiều chùa Hưng Đường, một ở phường Thái Ninh trong thành Trường An, vốn tên là chùa Võng Cực. Ngày 12 tháng 3 năm Thần Long nguyên niên, Thái Bình công chúa xây dựng chùa Võng Cực để cầu phúc cho mẫu hậu Võ Tắc Thiên. Ngày 7 tháng 6 năm Khai Nguyên thứ hai mươi đổi thành chùa Hưng Đường. Nhà thiên văn học nổi tiếng Tăng Nhất Hành khi ở Trường An đã cư ngụ trong chùa Hưng Đường.

Một chùa khác ở huyện Hấp, phủ Huy Châu. Năm Kiến Đức thứ hai, Đường Cao Tổ Lý Uyên ban sắc chỉ xây chùa Hưng Đường ở Tân Giang dưới chân núi Tây Can. Do chùa nằm ở bờ tây sông Luyện, dân bản xứ thường quen gọi là chùa Thủy Tây. Khi vân du Huy Châu, đại thi hào Lý Bạch từng đến chùa tham bái và để lại bài thơ “Đề Hưng An Thủy Tây Tự”: “Thiên Đài Quốc Thanh Tự, thiên hạ xưng tứ tuyệt. Ta đến Hưng Đường chơi, thấy cũng không khác biệt. Cây cao chạm tầng mây, đỉnh núi luôn phủ tuyết. Trước cửa có suối trong, đêm về soi ánh nguyệt.” Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ hai, Tống Thái Tông đổi tên chùa thành Thái Bình Hưng Quốc Tự, tên gọi này vẫn được dùng cho đến tận ngày nay.

Chùa thứ ba ở phía tây nam đỉnh núi Hoắc, huyện Hoắc Ấp, Tấn Châu (thành phố Hoắc Châu, tỉnh Sơn Tây ngày nay), chỗ giao giới giữa huyện Hoắc Ấp và huyện Triệu Thành, nay thuộc huyện Hồng Động, tỉnh Sơn Tây, có thôn Hưng Đường. Năm Đại Nghiệp thứ mười ba của nhà Tùy, Lý Uyên khởi binh diệt Tùy, binh kéo tới Hoắc Ấp, hổ nha lang tướng Tống Lão Sinh của nhà Tùy trú đóng ở Hoắc Ấp cố thủ không ra. Quân của Lý Uyên thiếu lương, lại có tin Đột Quyết và Lưu Vũ Chu sắp thừa cơ tấn công Thái Nguyên. Lý Uyên muốn về bắc, bị Lý Thế Dân can ngăn. Sau đó tương truyền được thần nhân chỉ điểm, bày kế dụ địch dùng khinh kị đánh tan Tống Lão Sinh, hạ được Hoắc Ấp.

“Cựu Đường Thư - Cao Tổ bản kỷ” có ghi: “Năm Đại nghiệp thứ mười ba, tháng bảy mùa thu, Cao Tổ dẫn quân mưu đồ Quan Trung… Phát binh từ Thái Nguyên… Hổ nha lang tướng Tống Lão Sinh nhà Tùy đóng quân Hoắc Ấp chống cự. Gặp lúc mưa dầm, vận chuyển khó khăn, Cao Tổ lệnh rút, Thái Tông can gián. Có lão phụ áo trắng đến cổng doanh trại nói: Ta là thần sứ núi Hoắc, yết kiến Đường hoàng đế, tháng tám mưa ngừng, đi ra đông nam Hoắc Ấp, ta sẽ trợ giúp. Tháng tám, Cao Tổ dẫn quân đến Hoắc Ấp, chém Tống Lão Sinh… Tháng mười một, công chiếm kinh thành.

“Những năm Vũ Đức, Đường Cao Tổ biết ơn thần, lệnh xây chùa dưới chân núi, ban tên Hưng Đường. Nhưng cũng có cách nói khác là năm Trinh Quán nguyên niên, Đường Thái Tông Lý Thế Dân hạ chiếu xây chùa Hưng Đường để báo ơn thần, phái năm trăm người xây dựng ba năm mới xong, trồng bốn cây du tùng ở hai bên cổng chùa. Thời Bắc Tống, chùa Hưng Đường được đổi tên thành Sùng Thắng Viện. Thời Hi Tông đời Kim bị hủy bởi chiến tranh, sau đó tái thiết, thời Nguyên, Minh khôi phục tên chùa Hưng Đường. Cuối thời Minh hoang phế, người đương thời có thơ: Bia mọc đầy rêu không thấy chữ, cây bụi Tùy Đường chẳng nhớ năm. Tăng xá đều bỏ hoang dột nát, núi mây trước một vệt tà dương.”

Thời Khang Hi nhà Thanh dù đã được tái thiết nhưng cũng không chống lại nổi thời gian, hiện đã bị phá hủy hết, chỉ còn lại Tàng Kinh Lâu xây dựng từ đời Thanh. Du tùng do Lý Thế Dân trồng cũng chỉ còn một cây, cao 14 mét, đường kính 3 mét, thân cây nghiêng về hướng tây bắc.