Phần 2 đàn bà, ma-ri-sến, phi líp nhỏ, cải lương, tân nhạc
Phần 2
đàn bà, ma-ri-sến, phi líp nhỏ, cải lương, tân nhạc
ỘT NHÀ TƯ TƯỞNG ĐÃ NÓI: “Kiếm được một em ma-ri-sến hoàn toàn nhất, ở Việt Nam thời buổi bây giờ, khó khăn hơn cả kiếm một vị lãnh tụ anh minh của dân tộc”. Thật là lời vàng ý ngọc, đáng được Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục chọn làm đề thi tú tài. Chế độ “Cơm thầy cơm cô” mà văn hào Vũ Trọng Phụng từng diễn tả đã chấm dứt. Đã chấm dứt tại bên này và cả bên kia dòng Bến Hải. Tôi xin lưu ý quý vị cách mạng xã hội rằng, quý vị nên quên giai cấp ma-ri-sến, phi líp nhỏ đi. Họ cóc cần quý vị làm cách mạng cho họ nữa.
Ngoài Bắc, con sen, thằng nhỏ nào xuất sắc đều lần lượt trở thành chiến sĩ trung kiên của giai cấp vô sản, lãnh tụ tiên phong của xã hội chủ nghĩa, nay sang Tầu, mai sang Nga rối rít. Những con sen, thành nhỏ kém xuất sắc thì cũng trở thành cán bộ cần vụ, phục dịch các đồng chí đặc táo rất nhiều công tác chống Mỹ cứu nước như đánh giầy, chùi cầu tiêu, lau nhà, rửa xe, đi mua thuốc lá vân vân... Những con sen, thằng nhỏ tối tăm, nhờ ơn Bác và Đảng, bị đẩy đi lao công công trường hay được xua về Nam làm dân công bằng thích. Họ là chiến sĩ dân công. Xã hội chủ nghĩa, quả nhiên, tiến vọt. Cách mạng ở xã hội chủ nghĩa chỉ đổi thay tí hình thức, ngụy tạo bằng danh từ thơm tho. Còn nội dung thì, con sen và thằng nhỏ vẫn là con sen và thằng nhỏ. Đói rách hơn xưa. Phục vụ kỹ hơn xưa. Không có thì giờ tỏ tình ở máy nước nữa!
Trong Nam, người ta trọng khoa bảng và lính khố xanh, khố đỏ. Nên chỉ thấy ông Vũ Văn Mẫu, ông Vương Quang Trường làm bộ trưởng và ông Đỗ Mậu làm cách mạng chống tổng thống Ngô Đình Diệm! Nhờ Mỹ quốc truyền bá tư tưởng dân chủ thật lực, nước ta có mấy kỳ bầu cử. Khá đông thằng nhỏ đã vùng lên, tranh cử tận tình và đều đắc cử vinh quang. Mãn nhiệm kỳ, chúng đã giầu sụ, bèn đối lập hoặc lập hội ái hữu, nhí nhố ngôn ngữ phi líp nhỏ. Cũng nhờ Mỹ quốc, ma-ri-sến tạo nổi một thế đứng huy hoàng, cóc cần cách mạng vô sản, xã hội chủ nghĩa của ông Mác, ông Lê, ông Mao, ông Hồ. Mỗi chiến sĩ bảo vệ tự do, dân chủ Mỹ là một chiến sĩ cách mạng của ma-ri-sến Việt Nam, giai cấp thiệt thòi nhất, chưa kịp hưởng chính sách Thanh Niên Cộng Hòa của lãnh tụ Ngô Đình Nhu, Cao Xuân Vỹ.
Từ ngày thủ tướng nhà nghề Phan Huy Quát đặt bút ký lia lịa và lính Mỹ lên bờ Đà Nẵng, Vũng Tàu, Nha Trang, Mỹ Khê.... ma-ri-sến khởi sắc rất ư ngoạn mục. Gái quê ra tỉnh là biến thành gái bán ba hay me Mỹ. Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng thua xa kỹ nghệ lấy Mỹ hôm nay. Tiếc rằng hôm nay không có Vũ Trọng Phụng. Các em ma-ri-sến lần lượt giã từ chủ hay trốn chủ, đi theo tiếng gọi cách mạng của đồn đỏ, đồn xanh. Trí thức khoa bảng đánh đĩ với đồn xanh, ma-ri-sến đánh đĩ với đồn đỏ. Cùng đánh đĩ nhưng ma-ri-sến có liêm sỉ hơn trí thức. Các em ma-ri-sến sạch sẽ, lành lặn đã kết duyên với quan Mỹ, lính Mỹ. Khối em may mắn được chồng dìu về quê hương Hiệp Chủng Quốc để làm mẹ Mỹ tương lai. Các em dưới điểm trung bình thì cặp bồ với lính Đại Hàn và đám dân sự dơ dáy Phi Luật Tân. Chỉ còn một số ít các em quê, thột, chột, rỗ huê, sứt môi, méo miệng là bất hạnh, bị cách mạng đôn đỏ bỏ rơi tàn nhẫn.
Tôi không phải là nhà xã hội học nên chẳng cần tìm hiểu ngọn ngành nguyên nhân “diệt vong” của nên ma-ri-sến. Người ta đang chống Mỹ, bên ngoài phòng viết của tôi. Chống Mỹ đủ kiều, đủ lối. Sự mỉa mai là họ khoác đầy mình đồ Mỹ để đòi Mỹ “go home”! Một bọn phún Giao Chỉ của những con mẹ chuyên bắt nạt chồng vừa biểu dương tinh thần... phún Giao Chỉ. Khi tứ sắc, xì dzách hết hấp dẫn, những con mẹ có nhan sắc của “chị Doãn” của Vũ Trọng Phụng, thứ “nhan sắc của người đàn ông không đẹp trai” bèn la lối nhân phẩm phún Giao Chỉ! Họ đổ vạ Mỹ (lại Mỹ, tụi Mỹ bất hạnh thật) biến phún Giao Chỉ thành đĩ hết trọi. Dĩ nhiên, Mỹ cần rút khỏi Việt Nam. Để có hòa bình và phụ nữ... hoàn lương, dùng nước vỏ lựu, hoa mào gà chữa bệnh đĩ! Nhân phẩm phụ nữ Giao Chỉ là hình thức. Hòa bình lập tức mới là nội dung của những con mẹ được liệt vào hạng bà già lông vịt, bà già giết giặc! Trí thức yếm thắm, trí thức đội gạo, trí thức thỏ đế, trí thức chồn cáo, trí thức thông cảm đã biết khai thác thêm lá đa của vợ con. Nền hòa bình, tôi đoán chắc, theo kiểu phún đòi hỏi, nó sẽ hăm lắm đây.
Phải chi, những con mẹ vô công rồi nghề không đòi hỏi hòa bình lập tức, tôi, có thể, nghĩ rằng họ cay cú cuộc cách mạng giải phóng ma-ri-sến bằng đô la xanh của Mỹ. Cuộc cách mạng made in USA đã làm giai cấp trưởng giả bối rối vì thiếu... ma-ri-sến. Cái “chợ người” họp ở bùng binh Bến Thành sau cuộc cách mạng nhân vị, cuộc đảo chính hụt 1960, cuộc cách mạng thành công 1963, cuộc chỉnh lý 1964 vẫn còn nguyên. Hàng ngày, chúng ta gặp ở đó, những người đàn bà đủ cỡ tuổi, ngồi xếp hàng như nô lệ Châu Phi, chờ bọn nhà giàu đến mặc cả, dắt về làm những công việc rửa cầu tiêu, lau nhà, giặt quần áo, nấu bếp để ăn cơm thừa canh cặn và bị mắng chửi tối tăm mặt mũi. Từ ngày lính Mỹ đổ bộ lên những bờ biển Việt Nam, “chợ người” bị dẹp. Bây giờ, dưới chân liệt nữ Quách Thị Trang, không hề có cảnh tượng chửi bố cách mạng nữa. Chưa một lãnh tụ anh minh nào đem vinh quang, hạnh phúc cho ma-ri-sến nước tôi, trừ lính Mỹ. “Chính phủ của dân nghèo” Nguyễn Cao Kỳ cũng cóc đủ khả năng giải phóng ma-ri-sến. Trước 1-11-63, cố đạo nhất. Sau 1-11-63, sư mô nhất. Qua năm 1965, sến nhất, tắc xi nhì, Thời huy hoàng “not for rent” Giao Chỉ của tắc xi chấm dứt mau lẹ. Bây giờ, nhất sến nhì cha tam sư tứ tướng. Tướng càng ngày càng mất giá khi hòa bình càng ngày càng ló dạng. Sư thì tự xuống thang. Cha khôn ngoan nên giá trị chỉ tụt từng nấc. Nhưng sến vô địch. Tìm sến khó hơn tìm sư. Ngài có thể kiếm một ông sư lý tưởng cỡ ông Hộ Giác chứ khó kiếm ra một em sến lý tưởng của tiền cách mệnh 1963. Ai dám ngờ ma-ri-sến Việt Nam biến thành me Mỹ và từ me Mỹ biến thành những phật tử, những con chiên ngoan đạo thất thế giới!
Lịch sử me Tây chỉ có một “cô tư Hồng” nàng me Tây mà cụ Yên Đồ Nguyễn Khuyến “chơi” một phát ca ngợi “Ngàn năm công đức của bà to”. Lịch sử me Phi, me Đại Hàn, me Thái Lan, me Nhật, me Úc-đại-ly, me Tân-tây-lan chẳng đáng nói. Riêng lịch sử me Mỹ, thưa ngài, cô Mai Lan, trang nữ lưu dạy Mỹ nói tiếng Việt và làm mối gái Việt cho Mỹ, có thể kể cho ngài nghe tên tuổi những me Mỹ phi thường, con nhà lành, học thức số dzách. Ngay lãnh tụ Đại Việt chống Cộng ra rít Đinh Xuân Cầu mà cũng gã con gái cho Mỹ nữa là... Tôi đã đánh vật với tự điển Lê Bá Kông, đọc cuốn tiểu thuyết của văn sĩ phún Mỹ. Cuốn tiểu thuyết cóc có chi ghê gớm, lại đọc từ hơn mười năm rồi, nên quên béng tên của phún văn sĩ này. Nhưng tôi nhớ một câu: “Thượng đế sinh ra loài người như một vườn hoa.. Có hoa trắng, hoa đen, hoa cứt lợn...” Diễn tư tưởng thật lớn, thật nặng thì loài hoa là mũi lõ mắt xanh, da vàng mũi tẹt, tóc quăn da nhọ nồi. Tình không biên giới là thứ tình của mũi lõ mắt xanh với hím mũi tẹt lòng heo mắm tôm! Đấy, Mỹ nó chả thực hiện cuốn phim “Sayonara” thối cóc chịu nổi để ca ngợi tình không biên giới đó ư?
Ma-ri-sến Việt Nam đâu có làm đĩ. Các em làm me Mỹ tức là mẹ Mỹ. Đàn bà Việt Nam là mẹ của thế giới. Mẹ Tầu, mẹ Tây, mẹ Ấn Độ, mẹ Nhật, mẹ Mỹ vân vân... Tôi chống bọn đàn bà răng vàng giết giặc xúc phạm danh dự của me Mỹ. Nhân phẩm của me Mỹ còn nguyên, cóc cần đứa nào bảo vệ sốt cả. Nếu ngài sống chung ngõ với cặp vợ chồng Mỹ-Việt, ngài sẽ bằng lòng lắm khi thấy các em sến, nhân danh cách cử xử tồi tệ của Mỹ với Việt Nam, chửi chồng Mỹ như chó, vác guốc đập lên đầu chồng Mỹ tóe máu. Các em sến yêu nước vô cùng- Khi ở Mỹ, bọn thượng nghị sĩ ngoác miệng chửi Việt Nam, các em sến trả đũa bằng cách bắt chồng Mỹ lau nhà, chùi cầu tiêu. Tận mắt tôi, tôi đã chứng kiến một em sến vác gậy đập vỡ tan kính xe hơi của chồng Mỹ. Thằng chồng Mỹ khốn nạn bị đuổi ra khỏi nhà. Em sến khóa cửa lại. Nó ngồi khóc như bố nó chết. Tội nghiệp ghê đi! Đại khái, chính phủ tôi không thể bắt Mỹ ngừng lối chơi cha đểu cáng trên mọi lãnh vực, trên quê hương tôi. Thì đã có me Mỹ trả thù cho dân tộc. Phải chi ma-ri-sến Việt Nam kết duyên với các lãnh tụ Nga, Mỹ, Tầu cộng, Anh, Pháp, nước tôi đã có hòa bình công chính từ khuya. “Gái nước Nam làm gì?” Tôi xin trả lời người xì cút quá cố Hoàng Đạo Thúy: Gái nước Nam mệnh phụ phu nhân thì mãi làm áp phe, bắt ghen, cờ bịch và trình diễn thăm dân cho biết sự tình, gái nước Nam vợ chính khách thỏ đế thì nhốt chống trong phòng ngủ, đi đòi hòa bình lập tức; gái nước Nam ma-ri-sến thì trở thành me Mỹ, vừa bắt nạt Mỹ trả thù cho dân tộc vừa bắt đôn đỏ, đôn xanh mà giúp các tay tổ Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Hữu Hanh chấn hưng kinh tế.
Tôi không ngụy biện. Bởi vì, riêng 500.000 lính Mỹ sống trên đất nước tôi khoảng thời gian 5 năm, chính phủ tôi đã thắt túi tiền giùm họ bằng cách đóng cửa nhà nhảy đầm, chê mở sòng bài, chê lập khu giải trí, chê khuyến khích các hãng du lịch tổ chức mánh khóe móc bạc Mỹ, để họ phải sang Hồng kông, Thái lan, Tân gia ba, Phi luật tân, Nhật bản mà vung đô la, nếu thiếu ma-ri-sến, điếm, ma cô là mất toi một khoản ngoại tệ nhỏ. Tôi tính sơ cho ngài coi. Trung bình, một lính Mỹ tiêu bủn sỉn nhất cũng 50 đô la một tháng. Như vậy, 500.000 lính x 50 đôla = 25.000.000 đôla. 5 năm có 60 tháng. Tính ra, nước tôi đã mất 25.000.000 đôla x 60 tháng = 1.500,000,000 đôla. Con số vĩ đại này, chính phủ tôi chê. Để ngửa tay chờ Mỹ nó nhỏ giọt ngoại tệ! Nước tôi có ông giám đốc Nha Du Lịch chỉ lo ăn cắp đĩa, chén và nước ngọt ở nhà hàng Majestic thì mỏi tiền Mỹ thế quái nào nổi. Tôi thiết tưởng, một khoản nhỏ ngoại tệ do kỹ nghệ me Mỹ gỡ gạc cũng đã là một chiến công của gái ma-ri-sến nước Nam. Và tôi long trọng yêu cầu Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia nên dành một phút ghi ơn các em ma rí sến. Trong khi các mệnh phụ phu nhân, các nghị sĩ, dân biểu và vợ, con gái họ đem ngoại tệ qua nước người vung phí thì me Mỹ lại bòn ngoại tệ cho tổ quốc. Chẳng đáng chép vào sử sách truyền cho muôn đời hay sao? Nhà chép sử Phạm Văn Sơn nên ghi nhớ nếu như kinh tế sử bỏ quên các em me Mỹ.
Ma-ri-sến, tôi phục “quý vị” lắm, Thời đại đấu hót cải lương, tân nhạc của “quý vị” với các công tử phi líp nhỏ tại công trường “La Fontaine des amours” đã chấm dứt. Thời đại vàng son của những thành chuyện bắt “người tình không chân dung” ở máy nước để thực thi chính sách vừa lành vừa bổ đã chấm dứt. Thời đại thơ mộng dưới ánh đèn khuya hát đối những ca khúc “thời trang nhạc tuyến” với nam đồng nghiệp, đã chấm dứt. Đâu rồi, tiếng Liêu Trai lúc điện đường tắt ngóm “Buồn luồn vào phông ten, gánh nước nữa đêm”? Đâu rồi, tiếng khí phách lúc chờ nước chảy vô thùng “Giã từ nhà mẹ hai bàn tay trắng. Đi vào nhà chủ trắng hai bàn tay”? Đâu rồi, cảnh nên thơ nàng gánh đôi thùng chạy trước, chàng gánh đôi thùng chạy sau, ti tỉ điệu ái tình vi vút “Đi trên đường một chiều. Anh đi trước em sau”? Đâu rồi, đâu rồi lâu đài âm thanh ca cộng đồng điệp khúc “Gánh nước về, gánh về, gánh nước về, gánh về” mà nhịp đòn gánh kĩu kịt thay nhạc đệm, để lại quang cảnh buồn tênh cho cái máy nước chảy tồ tồ không ai tắt?
Tôi đã đi trong giờ giới nghiêm, trên những con đường nhiều máy nước công cộng. Đèn vẫn là đèn năm xưa. Sáng hơn một chút. Những cái máy nước hoen rỉ, tương tư ma-ri-sến, phi líp nhỏ tưởng thê lương hơn chinh phụ chờ chồng. Không phải Sàigòn Thủy Cục cấp cơ man điện kế đâu. Không phải gì cả, trừ cuộc cách mạng do lính Mỹ chủ trương. Tự nhiên, tôi nghĩ tới cảnh đổi đời như chuyện con sông kỷ niệm bị lập phẳng của Trần Tế Xương. Tôi khe khẽ ngâm:
“Sông kia rầy đã lên đồng
Nơi thì nhà cửa nơi trồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
Tôi rất tiếc không có tài nhại thơ của Hoàng Hải Thụy. Cuộc dâu biển đã làm tôi cảm khái, vung vít tài mọn:
“Sến kia rầy đã lên bà
Đứa thì me Méo đứa là me Phi
Đêm nghe nó đấu To Be
Giật mình cứ tưởng con ki sủa nhằng”
Hỡi các em ma-ri-sến trên cuộc đời! Các em đã tạo nên những khoảng trống buồn tênh cho mỗi gia đình đông con. Tôi thương các em, tiếc các em (cuộc cách mạng nào mà chẳng đem lại những nối tiếc muôn vàn sau khi thành công rực rỡ) và sắp khốn khổ khốn nạn vì các em đây.
- Thưa cậu...
- Gì?
- Tôi nghỉ việc từ hôm nay.
- Chị đuổi sở à?
- Không, tôi nghỉ việc.
- Tại sao đang làm tốt, giữa chủ và công nhân đồng lao cộng tác trong thời buổi kiệm ước huy hoàng này, chị lại xin về?
- Thưa cậu, tối qua cháu coi ti vi...
- Thằng ca sĩ nào khiến chị buồn, chị giận vợ chồng tôi, hả? “Đừng bỏ tôi một mình chị Ba!”
- Dạ, thưa cậu, tôi xin về hoan hô “Luật Người Cầy có Ruộng”. Tôi sắp trở thành điền chủ. Tôi sẽ được làm chủ ba mẫu ruộng.
- À ra thế...
Người đàn bà từ quê ra tỉnh vừa tị nạn Cộng sản vừa kiếm cơm áo đã tìm được lối thoát cho cuộc đời mình. Tôi chớp mắt. Hình dung một cánh đồng lúa chín. Hình dung một bần cố nông biết chắc chắn cánh đồng lúa chín thuộc về mình. Hình dung một ước mơ ngàn kiếp đã ửng vàng. Tôi muốn suy tôn những kẻ soạn thảo “Luật Người Cầy có Ruộng” một phát. Và tôi bèn đả đảo ông già vợ tôi. Ông này kỳ thấy mồ. Ông đương kiện nhà nước cái tội vi hiến. Cứ theo bài ca “Toàn dân hân hoan Luật Người Cầy Có Ruộng” thì ông già vợ tôi và “bọn địa chủ ngoan cố” thật là... ngoan cố. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lái cái máy cầy veo veo. Dân miền Tây chiêm ngưỡng như một kẻ ban phát hạnh phúc cho đám bần cố nông. Thế mà ông già vợ tôi cứ chống niềm hân hoan của tổng thống. Mai mốt lúa vàng đầy đồng, xuất cảng gạo lúa nhất thế giới, ông già vợ sẽ biết tay... “Luật Người Cầy có Ruộng”. Bây giờ, chúng ta chịu khó ăn gạo Mỹ để làm cuộc cái cách ruộng đất vĩ đại.
- Thưa cậu...
- Chị Ba thân mến, tôi cũng đã coi những vở kịch của chương trình Người Cầy Có Ruộng. Tương lai của chị sẽ rực rỡ như đoạn kết của bất cứ vở kịch nào của chương trình Người Cầy Có Ruộng. Vâng, chị nên về đồng.
- Cám ơn cậu.
“Luật Người Cầy có Ruộng” quyến rũ mất một ma-ri-sến lý tưởng nhất của gia đình tôi. Luật ấy đã “cướp” của vợ chồng con cái tôi năm trăm mẫu ruộng. Tôi cóc cần ruộng miễn nhà nước bồi thường tiền truất hữu thật lẹ. Nhưng phải đợi đến tết Ma rốc, chừng râu tôi dài quá rốn, mới có tiền. Tôi cũng cóc cần. Tôi là điền chủ sáng suốt. Tôi kết duyên mí lỵ con gái ông đại điền chủ Trần Thất Thời năm 1963. ông đại điền chủ đã thất thời từ năm 1946. Ruộng của ông, “cậu” Hai Hoán tức anh ba tàu Lâm Thành Nguyên, hoàng tử Cái Dầu, Châu Đốc đã truất hữu khuya rồi. Sau “cậu” Hai Hoán là các “cậu” Vẹm. Tôi không hiểu nước non gì nữa mà ông già vợ tôi cứ chống “Luật Người Cầy có Ruộng”? Nhờ ông tí. Nông dân miền Nam khá đến đít rồi. Tôi rất ghét những thằng kỳ thị Nam Bắc nhưng, ông Nguyễn Bảo Trị, ông Nguyên Đức Thắng rồi ông Nguyễn Văn Chức mà lo lắng chuyện ruộng đất miền Nam thì buồn cười quá. Ông Nguyễn Văn Chức, có thể hiểu rõ ruộng đất ở Bùi Chu. Tôi cam đoan ông ta không hiểu ruộng đất Cà Mau, Đồng Tháp và không thể hiểu sự bình đẳng gần như coi nhau thân thích giữa tá điền và điền chủ. “Luật Người Cầy có Ruộng” chỉ dở ở mỗi chỗ biến điền chủ miền Nam thành “địa chủ gian ác”, và tá điền là đám dân bị bóc lột tận xương tủy!
Tôi đã nói tôi cóc cần ruộng đất. Tôi chỉ cần ma-ri-sến. Những nàng ma-ri-sến bất hạnh của nước tôi chưa kịp mang ân cách mạng đô la đó bèn được “Luật Người Cầy có Ruộng” an ủi, nâng đỡ. Tôi muốn nói với cái nhà chị Ngô Bá Thành một điều: Những nhà lãnh đạo miền Nam đã đòi quyền sống, đã bảo vệ nhân phẩm cho phụ nữ trước chị quá lâu. Chỉ cần thành phố trở về nông thôn. Là “về nguồn gốc cũ”. Chị nên về nông thôn, đòi quyền sống cho phụ nữ bằng cách tốc váy chửi đứa nào phá rối an ninh, đào cha bới ông đứa nào cướp lúa của nông dân chở vào mật khu, tôi nghĩ chị mới ái quốc thật lực. Những người đòi hòa bình lập tức cũng nên về nông thôn xa lắc mà yêu cầu cái sự buông súng. Hòa Bình kiểu thành phố, chán bỏ mẹ.
Với tôi, hòa bình tức khắc hay hòa bình từ từ, tôi không quan tâm bằng thiếu ma-ri-sến. Thiếu ma-ri-sến kể như thiếu hạnh phúc trên cõi đời này. Hình dung một nhà văn, một chủ nhiệm báo, một giáo sư đầu tắt mặt tối tại “sở”, về nhà phải rửa bát, lau phòng, tắm cho nhi đồng. Hình dung một trang nữ lưu cỡ Trần Kim Thoa, Nguyễn Phước Đại, đòi tự do ra rít mà về nhà rửa đít cho con. Hình dung một tổng trưởng, một nghị sĩ, một dân biểu xách gà mèn lấy cơm tháng. Đó, tôi không cần độc lập, tự do hòa bình, dân chủ. Chỉ cần ma-ri-sến. Những em sến ưa son phấn đã đi lấy Mỹ. “Hỡi em liên tử đô thành nội, Ai điểm trang mà em phấn son”? Những em sến có tâm hồn nghệ sĩ đều lần lượt giã từ tôi. Bằng những câu ca não nuột: “Cậu ơi, quan hà xin cạn chén ly bôi. Ngày mai con đã đã đã đã đi xa rồi” hoặc “Đời một ma-ri-sến, ước mơ đã nhiều, chủ không cho còn mắng, đến khi cáu sườn, chỉ còn ẵm đồ mang theo...” Những em sến liêm sỉ, gồng mình chống bão tố cách mạng đô la đỏ thì hát khúc thời trang nhạc tuyển “Toàn dân hân hoan Luật Người Cầy Có Ruộng”, về quê với mộng ước bình thường “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” hay “người ta đi cấy lấy công, tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề”.
Ôi, các em ma-ri-sến, các em bỏ tôi một mình. “Đừng bỏ anh một mình, đừng bỏ anh một mình”. Bỏ tôi bơ vơ với chồng bát đĩa nhớp mỡ, với cái nhà đầy rác rưởi, sao đành, hỡi các em ma-ri-sến! “Con quỳ lạy Chúa trên trời, Sao cho con mướn được người sến yêu. Đời con đau khổ đã nhiều. Lau nhà rửa bát đủ điều đắng cay. Chúa ơi, Chúa ơi, Chúa ơi! Sến nường lại bỏ con rồi Chúa ơi, Chúa ơi! Thương con. A men...” Buồn ghê gớm, tôi nhại thơ Nguyễn Khuyến:
“Sến nương, thôi, đã thôi rồi
Em đi man mác ngậm ngùi lòng ta
Nhớ từ thưở lân la kết nghĩa
Ta phát tiền em rửa đĩa dơ
Đồng lao cộng tác hay ho
Tự do dân chủ bao giờ lãng quên
Hiềm vì nỗi đồng tiền khan hiếm
Em bỏ ta chạy kiếm bạc vàng
Me Phi me Mẽo giàu sang
Đuổi theo cách mạng phũ phàng thân ta
Thật cảm khái ô voa ông chủ
Nhưng não nề dưa khú cà thâm
Bữa cơm ta phải bưng mâm
Ăn xong rửa bát tay dầm nước dơ
Con đi ỉa, hê lô bố, gấp
Rửa đít giùm đậy nắp “bô” ngay
Làm xong nào đã ngơi tay
Vò chồng quần áo chất đầy trong thau
Lưng đã mỏi còn lau nhà nữa
Chổi lông gà quét cửa bụi đen...”
Mới than thân trách phận được hai mươi câu thì E-vơ, con rắn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũ, tức là vợ tôi, đi chợ về, đập cửa:
- Chị Ba ơi!
Tôi lê tấm thân ra mở cửa. Nhà tôi hỏi:
- Chị Ba đâu?
Tôi thều thào đáp?
- Về rồi, về với... “Luật Người Cầy có Ruộng” rồi...
Nhà tôi gắt:
- Anh nói cái gì?
Tôi thở dài:
- Chị Ba về quê nhận bằng khoán ruộng đất.
Nhà tôi buông cái giỏ thức ăn rơi cái bịch, nghẹn ngào:
- Chị Ba đã đi rồi?
Tôi gật đầu:
- Ừ, “sến đã đi rồi, nàng đi về đâu hay vẫn u hoài, sến ơi sến ơi, sến đã đi rồi”... Em đừng buồn. Chị Ba trở thành tân chủ điền, ta nên mừng chị ấy. Em hãy cùng anh hô to khẩu hiệu “Hoan hô Luật Người Cầy Có Ruộng”. Hoan hô đi em... Anh tình nguyện thế chỗ chị Ba tới khi mình bắt được em sến khác.
Nhà tôi thất vọng:
- Đang định... đẻ. May quá, vừa mới “thấy”.
Tôi nói:
- Không sao, rồi em sẽ đẻ. Hòa bình sắp về quê hương khổ sở của ta. Sẽ khối chính khách thời cơ thất nghiệp. Và vợ, con gái họ sẽ mở một kỷ nguyên mới cho nên ma-ri-sến. Me Mỹ, me Phi phải về nguồn, hùng hục tạo lại nhân phẩm bằng “Luật Người Cầy có Ruộng”
Nhà tôi lủi thủi bước vào, để nguyên quần áo đẹp, lăn ra giường khóc, thương tiếc chị Ba. Đấy, một người giúp việc ta sẽ được ta thương lại. Phải chi chị Ba chờ ra ứng cử dân biểu, vợ chồng tôi sẽ vận động giùm chị thành công.
Nhưng chị Ba, người ma-ri-sến lý tưởng cuối cùng của đất nước Việt Nam thân yêu, đã cóc cần gì hết. Nàng chỉ cần “Luật Người Cầy có Ruộng” thứ luật cách mạng xã hội (!) mà liên danh ứng cử thượng viện Kỳ Lân cứ đòi thi hành gấp. Chị Ba “về nguồn”, chị Ba đáp theo tiếng gọi “về làng ta”. Buồn ghê đi mất. Hai vợ chồng tôi đã bỏ nấu nướng nửa tháng liền. Mấy đứa con phải ăn bánh mì. Để nhìn thấy bánh mì, chúng nó bèn dậy trong tâm hồn cái tư tưởng “buồn nôn”.
- Làm thế nào đề bắt được một ma-ri-sến?
- Làm thế nào?
- Anh có cảm tưởng khó hơn làm thế nào để giết một tổng thống hay làm thế nào để trở thành một tổng thống.
- Thiếu sến là thiếu mọi lạc thú trên cõi đời. Không còn gì khổ sở bằng ăn cơm xong phải rửa bát.
- Phải tìm đủ cách bắt ma-ri-sến. Đưa anh một tờ giấy trắng. Vài tờ đi!
- Tính chi đây?
- Viết bố cáo tìn sến dán vung vít.
Tôi đã cong lưng nắn nót viết những cái “bố cáo tìm sến” hấp dẫn như những cái bích chương quảng cáo của một đại nhật báo rùng rợn nhất. Nguyên văn như vậy:
CẦN NGƯỜI HỢP TÁC
Nhà có hai vợ chồng ba đứa con. Đứa nhỏ nhất đã đi học. Có công tơ nước. Có la dô, ti vi. Muốn hợp tác trên tinh thần lao tư lưỡng lợi với bất cứ một em sến độc lập hay trong nghiệp đoàn sến nào. Hỏi số nhà 215D/17 Chi Lăng, Phú Nhuận. Lương trả đúng ngày hạn định bằng giấy bạc mới.
Những cái “bố cáo tìm sến” được dán ngay vào cánh cửa nhà tôi và ngoài tường, trên cổng cư xá. Chờ bốn hôm liền, chẳng có em ma-ri-sến nào tới. Nhà tôi càu nhàu:
- Đã bảo đừng “chơi” văn chương với sến, anh cứ sử dụng văn chương... bác học!
- Em lầm to. Bây giờ, ma-ri-sến tiến vọt rồi. Đấy, nền điện ảnh Việt Nan là do ma-ri-sến nuôi dưỡng. Phim “Chiều kỷ niệm” của Thẩm Thúy Hằng sến đóng góp hàng hai chục triệu bạc. Các tuần báo phụ nữ ở nước ta, bán cả trăn ngàn số mỗi kỳ phát hành, cũng nhờ độc giả ma-ri-sến ủng hộ nhiệt liệt. Các viện uốn tóc mở ra như nấm, đều trông chờ khách ma-ri-sến.
- Anh cứ viết lại đi!
- Viết ra sao?
- Như văn chương tuần báo phụ nữ ấy.
Đàn bà muốn là trời muốn. Tôi đành chiều vợ mà viết cái bố cáo thứ hai:
TÌM SẾN
Nhà ít con, có công tơ nước khỏi cần gánh nước ở phông ten về. Có bếp ga nữa. Có ra đi ô, ti vi để coi kịch và cải lương. Cần mướn sến giúp việc. Lương hậu. Hỏi số nhà 215D/17 Chi Lăng, Phú Nhuận.
Bố cáo dán lên, chưa ráo hồ thì vợ chồng tôi được hân hạnh tiếp một ma-ri-sến. Em sến trông không có gì “đặc sắc”. Nhưng em gõ cửa rất hùng hồn và bình tĩnh đối thoại. Câu mở đầu của em:
- Tôi đã đọc tờ giấy kiếm người làm của cậu.
- Dạ, vạn hạnh, vạn hạnh... Chữ nghĩa có sơ sót, xin chị bỏ qua.
- Khu này điện bình thường chứ?
- Điện tốt.
- Nhà cậu có xài “xuyệch von tơ” không?
- Không.
- Ồ, nhỡ nhầm hôm thứ sáu, điện yếu, coi cải lương ti vi hết thú.
- Tôi sẽ mua cái “xuyệch von tơ”.
- Có ti vi chạy “bin” không?
- Không.
- Cậu phải mua ngay đấy nhé! Đề phòng thứ sáu cúp điện tôi vẫn được coi cải lương.
- Tôi sẽ mua.
- Lương cậu trả bao nhiêu?
- Tùy chị,
- Năm ngàn, chưa kể tiền ăn sáng.
- Được.
- Tôi ngủ trưa hai tiếng, chiều chủ nhật xin phép đi chơi với bồ của tôi.
- Được lắm. Tôi rất ca ngợi ái tình. Trong khi chờ đợi tôi đủ khả năng mua ti vi chạy pin, chị chịu khó kiếm chỗ khác mà giúp việc.
Mức khôi hài của tôi chỉ đến đó là xẹp. Tôi bèn đóng cửa đánh rầm. Tự nhiên, tôi đâm ra thân nhà nước, nhà nước chịu đựng những đòi hỏi dân chủ của một đoàn thể nào đó, chắc cũng đau đớn như tôi. Tôi thở dài, bảo nhà tôi:
- Mình đành tự túc, tự cường, em ạ! Trông nhờ ở sự viện trợ lao động của ma-ri-sến dễ bị át giọng quá.
- Cũng tùy đứa chớ, bộ giống nhau cả sao?
- Không tùy gì cả. Sến kia rầy đã nên bà hết trọi. Tác phong của họ là tác phong năm bờ oăn trong đẳng cấp giá trị của xã hội. Cuộc đời rứt cảnh lầm than, mình nên mừng.
- Này anh...
- Gì em?
- Tại sao anh không làm tướng? Hay đại tá? Hay trung tá thôi?
- Anh sướng gấp mười lần tướng tá ham sao sáng và mai bạc mà chi. Em tưởng tướng tá vinh hoa phú quý lắm ư? Tướng thành phố nghèo mướp. Tá thì khỏi nói. Thời buổi kiệm ước, anh đã não lòng thấy các ông trung tá, đại tá bà cả đọi, cay đắng bắt lính lái Jeep ngồi chờ để riêng mình vô quán đớp tô phở thường. Vì túi các ông tá chỉ có một bớp! Tướng như ông Thắng, ông Chinh, ông Thanh, ông Đạm, ông Vỹ để đói rách à? Đấy ông tướng Lam Sơn ủng hộ gia đình Huỳnh Thái mười xín, móc ví hoài vẫn chỉ còn hai xín, đành khất chờ cuối tháng lĩnh lương trả nợ... ủng hộ.
- Nhưng...
- Sao?
- Em lại thấy mấy ông tướng hồi hưu có đông lính hầu quá xá. Lính mua quà sáng, lính lau nhà, lính lái xe, lính đi chợ, lính đưa con tướng đến trường, lính... bếp và cả lính vú em...
- Đó là tướng tam cúc. Cuộc đời đã loại dần họ. Nay mai, họ tháo tỏng nốt kỳ tái tranh cử vào thượng viện, hết mẹ nó quyền bất khả xâm phạm, nhà nước sẽ mời lính phục vụ riêng họ về phục nhân dân. Rồi chính vợ con họ sẽ làm công việc của ma-ri-sến! Em dốt nát, kiến thức kém, theo bà nguyên tổng trưởng Trần Ngọc Oanh, nhỡ anh làm tướng, em xúi anh làm bậy thì bỏ mẹ. Em ơi, làm tướng khó vô cùng, lại cầm chắc cái nghèo. Đấy bà trung tướng nọ vừa bị truy tố ra tòa về tội ký chi phiếu cả bảy triệu không tiền bảo chứng. Còn bà cựu thiếu tướng nọ thì bị người ta đăng bố cáo việc riêng trên báo coi như đồ bỏ!
Nhà tôi mắt sáng lên:
- A, Mình đăng báo tìm sến đi anh. Đăng báo Chính Luận, anh ạ! cả nước đọc mục Rao Vặt của Chính Luận,
Tôi gật đầu:
- Ý kiến tốt.
Vậy là tôi có bổn phận đóng góp cho chính khách Đặng Văn Sung vài quả rao vặt. Bèn phóng xe lên ngay Sàigòn.
Hai hôm sau, mẫu rao vặt của tôi xuất hiện trên báo Chính Luận:
TÌM NGƯỜI GIÚP VIỆC
Cần đàn bà, con gái giúp việc lặt vặt trong nhà. Lương cao. Hỏi ông Lương. Số nhà 215D/17 Chi Lăng, Phú Nhuận. Điện thoại 40.060. Có quyền gọi bất cứ lúc nào. Chủ nhà hoan hỉ tiếp đón.
Báo ra tối trước, sáng tinh mơ bữa sau, chuông điện thoại đã reo ầm ĩ. Tôi tung mền vùng dậy, chạy ra, chụp lấy.
- Alô...
- Tôi nghe đây.
- Phải nhà ông Lương không?
- Dạ.
- Ông đăng báo tìm người giúp việc, hả?
- Dạ.
- Tôi làm được không?
- Được quá.
- Nè, ông Lương Khoán.
- Dạ,
- Tôi giúp việc ông, ông dạy tôi viết văn cơ.
- Cô ở thi văn đoàn nào đó?
- Thi văn đoàn Áo Thung!
- Vậy tiếp tục nền văn nghệ Áo Thung đi đừng có giỡn một người đang đau khổ vì ma-ri-sến y hệt đau khổ vì bịnh trĩ như tôi.
Tiếng cười giòn giã ở đầu dây bên kia. Và máy cúp. Cuộc đời nhục mạ tôi, cuộc đời văn nghệ tạp lục trên nỗi niềm cay đắng của vợ chồng, con cái tôi. Chuông lại kêu.
- Alô, alô...
- Này, giỡn thế đủ rồi. Giỡn nữa tôi chửi thề đấy.
- A...
- Ơ cái con khỉ. Muốn văn nghệ Áo Thung thì lại đây giặt áo thung sẽ có văn nghệ.
- Ai ở đầu dây đó?
- Tôi.
- Tôi là ai?
- Là tôi.
- Có phải anh Lương không?
- Chính tôi.
- Hoa đây này. Anh điên hay dại mà nói năng tầm bậy tầm bạ vậy?
- À, chị Hoa, xin lỗi chị nhé!
- Thấy anh đăng báo...
- Ấy, vì đăng cả số điện thoại mà vừa bảnh mắt tôi đã bị trêu chọc. Mình mướn sến họ lại đòi rủ mình vào thi văn đoàn Áo Thung!
- Tôi dư một em sến. Để tôi “pát xê” xuống,
- “Thơm” không?
- Đi chợ, nấu bếp, giặt ủi tốt lắm.
- Nàng có đòi hỏi quyền sống kỹ không?
- Không.
- Vậy chị làm ơn “pát xê” ngay xuống đi.
Trưa hôm ấy, tôi được tiếp đón một em sến... méo mồm. Tôi buồn mười lăm phút. Rồi tự an ủi: thôi, những em sến nhan sắc mặn mà “đã bỏ ta ra đi như những dòng sông nhỏ”, như những “lần vẫy tay chào, thôi dòng đời đó, cuốn mình theo”; những em sến từ quê lên tỉnh thì để ta cô đơn mà hát “Toàn dân hân hoan Luật Người Cầy Có Ruộng” chỉ còn lại những em sến méo mồm, què chân chắc sẽ chẳng nỡ bỏ rơi ta. Nhưng em sến méo mồm này làm ta bàng hoàng:
- Nhà thầy không phải vi la à?
Ta đáp:
- Nghèo tiền, chưa mua nổi vi la.
Nàng sến méo mồm dội vào lòng ta gáo nước lạnh buốt.
- Không phải vi la thì không có phòng riêng cho bồi bếp. Tôi ngủ ở đâu?
- Ở bếp.
- Rỡn.
- Vậy mời chị đi ra cho nó được việc. Đứng lâu thêm chị dám đuổi tôi lắm à!
Nàng sến méo mồm phú lỉnh một cách sung sướng. Tôi trách chị Hoa đã không diễn tả căn nhà ngoại ô của tôi. Ôi, “căn nhà ngoại ô”, tên một bản nhạc máy nước, nguồn cảm hứng của một nhạc sĩ tài ba, ai biết đâu, ma-ri-sến méo mồm đã chê bai kịch liệt.
Tôi buồn riêng trong nỗi vui chung của dân tộc. Nếu cách mạng tháng tám, cách mạng nhân vị, cách mạng tháng mười một, cách mạng xe đạp và cách mạng... mõm chưa thực sự đem lại hạnh phúc cho đồng bào nghèo khổ của tôi thì, ít ra, những cuộc cách mạng anh đúng đó đã móc một giai cấp thiệt thòi nhất lên nấc thang giá trị tột đỉnh của xã hội Việt Nam hôm nay. Nghị sĩ Bùi Văn Giai vừa làm một cú trắc nghiệm... đàn bà lớn. Ông nghị đói rách của tôi đã bất chấp lời cảnh cáo của bà Hồ Xuân Hương, ông ta phóng tay - như lần phóng tay thử vú cô Tuyết của Xuân tóc đỏ - mó hang hùm mệnh phụ phu nhân. Tôi không biết nghị Giải có phân chất mùi hương... hang hùm bà lớn? Chỉ thấy bà lớn Trần Ngọc Oành oành oạch lý luận rằng mùi hương thơm lắm. Nhưng thơm ngát hay dậy mùi thơm phó mát Joséphine mà Napoleon nghiện nặng, tôi chả cần tìm hiểu. Cứ trắc nghiệm của ông nghị Giải đã chứng tỏ hùng hồn rằng, ma-ri-sến sáng giá hơn mệnh phụ phu nhân. Vì người ta dám lôi mệnh phụ phu nhận ra giễu cợt mà lại nói về ma-ri-sến một cách vừa não nùng vừa nghiêm túc.
Vợ chồng tôi nhìn nhau. Bốn con mắt vẫn mây sầu. Tôi, một giây phút bàng hoàng, bỗng thù oán cách mạng. Sau mỗi cuộc cách mạng là một trống rỗng. Đất nước tôi đã có đến cả Trần Ngọc Liêng, Ngô Bá Thành phu nhân làm cách mạng thì sến phải mất hết. Ma-ri-sến trở thành cách mạng cái hoặc đi theo cách mạng rồi! Ôi, ma-ri-sến, ta “hoài” các em như nho sĩ triều Nguyễn hoài Lê, như cần Lao giẻ rách hoài Ngô Đình, Ta đã đọc bài thơ của Tố Hữu. Thưở ấy Tố Hữu mới chỉ là nhà thơ xã hội, chưa biến hóa kiếp văn nô của chế độ mắc xít. Bài thơ diễn tả một chị vú em bỏ con thơ sau lũy tre xanh để chồng sắm vai trò gà trống lên tỉnh chìa hai vú sữa cho con chủ bú. Những đêm đen ra cổng, nhìn về phía quê nhà, nhớ con, nhớ chồng, chị vú em ứa lệ. Nghèo khổ đến bị bóc lột cả sữa nuôi con thì quả là cần thiết cách mạng. Ta đã yêu thơ Tố Hữu. Đến bài thơ anh cu ly xe tay “tư gia” tiễn đưa một mầm non phi líp nhỏ, ta đọc xong, phát khóc. “Thế là hết, chiều ni em đi mãi, Còn mong chi ngày trở lại Phước ơi”? Anh cu ly xe tay “tư gia” đau xót “a đi ơ” chú nhỏ:
...Ừ, đói khổ phải đâu là tội lỗi
Anh cứ nghĩ mà càng thêm hổ tủi
Cảnh cơ hàn khốn nạn của chúng ta
Nuôi đi em cho đến lớn đến già
Mầm hận ấy trong lòng xương ống máu
Để mai mốt thêm hăng hồn chiến đấu
Mà hôm nay em đã nhóm trong hồn.”
Những chị vú, con sen; những anh cu ly xe tay, thằng nhỏ vội tưởng bở. “Ừ, đói khổ phải đâu là tội lỗi”. Tội lỗi gì nhỉ? Vậy mà cuộc cách mạng vô sản lại dẫn dắt họ đến công trường tập thể, đến những con đường dân công đói khổ; khốn nạn hơn. Và, đứng trên nỗi đọa đầy ấy, anh cán bộ Vẹm Tố Hữu khuyến khích:
Hì hà hì hục
Lục cục lào cào
Anh cuốc em cuốc
Đá từ đất nhào
Nào anh bên trai
Nào em bên nữ
Thi sức thi tài
Xem ai nào hơn ai
Anh tài thì em cũng tài
Đường dài ta xẻ sức giai ngại gì.
Rốt cục, những phẫn nộ trong tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, trong thơ Tố Hữu được xóa bỏ để “cộng sản” thành một phẫn nộ vĩ đại và mù mịt gấp bội. Bây giờ, chị vú, con sen được đổi danh xưng. Vì danh xưng mới, mà phải thi đua tăng năng xuất cho “cách mạng chống Mỹ cứu nước”! Vô sản, người xấu số ở quê hương tôi, chế độ nào thì người cũng vẫn xấu số, dù người được các lãnh tụ cách mạng cắn gấu quần để nói phét “ở dân nghèo, vì dân nghèo, cho dân nghèo”. Người vô sản miền Bắc, hẳn phải hoài... phong kiến ghê gớm. Nhớ lại cảnh chợ người. Những khuôn mặt hắt hiu ngồi chờ đợi. Những cái vú căng sữa chờ những bàn tay nhà giàu bóp. Dòng sữa phọt ra. Sữa vàng. Chê. Vì có bệnh. Sữa trắng. Lại trắng xanh. Tốt. Lôi về tắm rửa sạch sẽ, thay đổi áo quần thơm tho. Cho ăn ngon bổ. Để sữa tốt nuôi cậu ấm, cô chiêu. Và cậu ấm, cô chiêu, nhờ sữa vô sản khôn lớn, xuất dương du học thành tài hay lưu lạc quê người làm cách mạng để hồi hương nắm gọn quyền hành lại tiếp tục điểm mặt vô sản, bóp vú thử sữa.
Thống khổ đến thế là cùng. Nhưng còn hy vọng chồng con trả nợ lúa non ở quê nhà, biết mong ngày tết đoàn tụ trong nước mắt. Chứ, giữa đường gặp gềnh dân công, ngày về tăm tối như ngày đi. Hỡi người vô sản, đồng bào tôi bên kia giới tuyến, các vú căng đầy sữa hy vọng của người chắc hẳn đã bị bóp lép xẹp, bởi những bàn tay của bọn chủ nhân ông Mác xít! Ở bên này, miền Nam tự do, dư dả sữa bò đặc, sữa bò tươi, nạn vắt sữa đã chấm rứt. Cách mạng đô la giải phóng chị vú, con sen trăm phần trăm rồi. Chỉ còn một số nhỏ, số phận hẩm hiu, đi lính bảo vệ quê hương nhưng lại được anh dũng chiến đấu tại tư thất các ông tướng hồi hưu có mác nghị sĩ. Họ được lau nhà, rửa bát, lái xe cho vợ tướng vườn đi chợ, đi bắt ghen, đi đánh tứ sắc, lái xe đưa rước con tướng vườn đi học, lái xe đưa nhân tình của tướng vườn đi sửa móng tay, lái xe đi mua quà sáng cho toàn gia đình tướng vườn ăn uống. Đặc biệt nhất, họ ghếch xế trước cổng một vi la nào đó, chờ tướng vườn xì phé. Hôm nào, tướng vườn ăn, tướng vui phát cho ít địa thì mừng rơn. Tướng mà thua, nghe chửi thề long ráy. Nhà của tướng vườn rộng, vợ con lính đến ở được. Vợ đặc trách phục vụ tướng bà. Dư thì biệt phái tới phục vụ bà con thân thích. Con lính tư thất sắm vai hầu hạ tướng con. Để bị bắt nạt! Huynh đệ chi binh thế là nhất rồi. Thỉnh thoảng, yêu lính tận tình, tướng vườn bợp tai đá đít lính. Lính đứng chịu đòn, xưng “con” bằng thích.
Về cái sự ma-ri-sến oai hơn mệnh phụ phu nhân ra sao, cứ đọc truyện của tôi sẽ rõ. Tôi đang oán chị Hoa, bạn của nhà tôi, đã không chịu trả “căn nhà ngoại ô” cho nàng sến méo mồm thì một em sến khác đến... nhận việc. Em này bị rỗ huê. Có thể, Mao Trạch Đông đã phát động chiến dịch trăm hoa đua nở trên mặt chị. Chị rỗ huê hỏi tôi:
- Thầy cần người giúp việc lắm, hả?
- Dạ, cần lắm.
- Tôi muốn coi cái bếp nhà thầy trước!
- Làm gì? Hãy nói tiền nong đã.
- Không, tôi muốn coi bếp.
- Làm gì?
- Xem nhà thấy xài bếp ga hay bếp than!
- Bếp ga đàng hoàng. Bếp nhãn hiệu Ý đại ly, có bốn lò, lại có cả chỗ làm bánh, nướng thịt.
- Có máy giặt không?
- Có.
- Tốt.
- Vâng, rất tốt.
- Nhà thầy mỗi ngày đi chợ bao nhiêu tiền?
- Tùy à...
- Trung bình bao nhiêu?
- Đề tôi hỏi vợ tôi.
Nhà tôi được mời ra làm một cuộc đối thoại ly kỳ, hấp dẫn. Tôi giới thiệu:
- Đây là vợ tôi.
Chị rỗ huê hơi cúi đầu:
- Chào cô.
Chị tấn công ngay.
- Cô chi tiền chợ mỗi ngày bao nhiêu?
Nhà tôi có vẻ khó chịu, Tôi vội giải thích:
- Để chị ấy biết tình hình bếp núc đó.
Nhà tôi đau khổ nói:
- Năm trăm một ngày.
- Cô tính luôn tiền gạo, nước mắm, muối hả?
- Chỉ tính tiền mua thức ăn.
- Hơi ít nhưng cũng được. Tôi làm ở Sàigòn đi chợ hai ngàn mỗi ngày quen rồi. Giờ mang năm trăm đi chợ kẹt đấy nhé! Giá cả tăng trăm phần trăm mà cái thằng cha Ngọc nó bảo tăng sơ sơ. Nói xạo quá. Tôi lãnh tiền của cô đi chợ chứ không bằng lòng để cô tự đi chợ.
Nhà tôi bỏ vào nhà. Tôi cười cầu tài:
- Chị tính rất sát. Ông Tồng Ngọc có nói giá sinh hoạt tăng trăm phần trăm vẫn sai. Phải tăng ba trăm phần trăm mới đúng. Trước tôi làm công cho hãng nọ, đặc trách đi mua hàng, chính tôi đã tự tăng lên ít phần trăm.
Chị rỗ huê khoái chí:
- Thầy thông cảm lẹ. Một tô bún xào vịt giờ năm mươi đồng. Tôi lãnh tiền của chủ đi chợ mới hy vọng được ăn xào vịt chứ.
Tôi nói:
- Bây giờ mời chị ra chợ ăn bún xào vịt cho nóng kẻo nguội tanh chết. Và gia đình tôi không có vinh hạnh được chị cộng tác.
Chị sến rỗ huê nhún vai cứ như minh tinh Thẩm Thúy Hằng trong phim “Chiều kỷ niệm” và xách đồ nghề ra đi. Chị ta chê gỡ một câu:
- Thầy xí giai hơn Thanh Tú nhiều!
Vâng, tôi xí giai. Lại cần cái yếu tố đẹp giai giống kép hát cải lương mới mượn được ma-ri-sến! Mẹ kiếp, mình nên đi tập hát vọng cổ. Tôi buồn thêm mười lăm phút. Vừa dứt cơn buồn thì có tiếng gõ cửa. A, một ma-ri-sến. Báo Chính Luận thật “ép phê” về món rao vặt.
- Thưa ông, em muốn hỏi đây có phải là nhà của văn sĩ Lương Khoán?
- Dạ đúng. Mà sao cô biết tôi là Lương Khoán?
- Thưa ông, em hằng theo rồi nhật báo Mùn Sầu, thấy ông ghi rõ địa chỉ nhà ông.
- Cô em đây muốn xin tôi chữ ký chăng?
- Dạ, em xin... giúp việc cho gia đình ông.
- Ủa!
- Hoàn cảnh em đau khổ vô cùng, xin ông đừng từ chối.
Tôi ngạc nhiên đến rụng rời:
- Em thơm thế này, đừng làm sến, phí mất. Ôi, giá em...
Nàng sến “hoàn cảnh đang khổ” của tôi hỏi:
- Giá em sao ạ?
Tôi muốn nói giá vợ tôi cho phép tôi kết duyên Tấn Tần với em thì tôi a la xô ngay. Vì em đẹp ra phết. Áp dụng chính sách tối làm vợ, sáng làm sến của Mẽo. Người Mỹ vô cùng thực tế. Ngài tưởng lính Mỹ nó ngu dại lắm đấy à? Nó gá nghĩa vợ chồng mí các em xấu xí là đề vừa đỡ phải chi tiền cho gái giang hồ, vừa hầu hạ nó. Làm giường, giặt quần áo mờ người đề vênh vang vài hộp nước Coca Cola hay cái tủ lạnh mua ở PX. Rốt cuộc, cách mạnh đô la cũng chó má như cách mạng vô sản.
- Giá em sao ạ?
- À, à, giá em đừng có hoàn cảnh đau khổ. Chắc em đau khổ vì văn nghệ?
Đôi mắt em sến văn nghệ - tạm gọi thế - sáng rực. Em thú thật:
- Thưa anh (anh rồi, sướng chưa) em ở lục tỉnh, thuộc thi văn đoàn Tỉnh Lỵ. “Đường lối lấy căn bản tư tưởng làm manh chiếu nghệ thuật, không bè phái, không địa phương, không đàn anh đàn em, tất cả mọi người đều bình đẳng, trước khi đi đến đỉnh danh vọng của văn nghệ”.
Tôi tròn xoe mắt:
- Em “chế” ra câu này đấy à?
Em văn nghệ tỉnh lỵ (xin đổi danh xưng) đáp:
- Không, thưa anh, đây là vấn đề văn nghệ tỉnh lỵ.
Tôi nói:
- Em ạ, văn nghệ thủ đô các anh chỉ trải báo mà ngủ đầu đường chứ cóc có chiếu văn nghệ. Làm thế nào đi đến đỉnh danh vọng của văn nghệ đây, em ơi!
Em muốn anh tặng cái chiếu trải giường dệt bằng cói hay bằng ni lông, anh sẽ mua tặng em. Chứ, mười năm mắn “dzăng nghệ”, anh chả biết chiếu nghệ thuật trải ở chỗ mô. Anh cần sến. Tôi đang cần sến, cô biết không? Muốn làm thơ hãy đi tìm thi hào Phổ Đức. Muốn viết văn thì mua cuốn “Nghệ thuật viết văn” của ông Pen Club Phạm Việt Tuyền.
- Ông nhất định không giúp nên văn nghệ tỉnh lỵ?
- Tôi cóc có tài. Sáng bảnh mắt đã thi văn đoàn Áo Thung, giờ lại thi văn đoàn Chiếu Rách, ôi, cái thân tôi, kiếm sến chẳng xong, nói gì thì văn đoàn Áo Thung, Bí Tất, Quần Xà lỏn!
Em gái văn nghệ tưởng tôi điên, phú lỉnh gấp. Cả ngày hôm ấy, tôi thường trực tại gia tĩếp những em sến tài tử. Chọn ba chục ông nghị sĩ mà bỏ phiếu, ngon ơ. Chỉ cần nhắm mắt, xé ba lá phiếu, giúi vào thùng phiếu. Thế là dân tộc có ba mươi anh chị ái quốc nặng nề. Nhưng chờ sến, luôn luôn, vất vả hơn chọn nghị sĩ. Tôi thất vọng, bảo nhà tôi:
- Thôi ta áp dụng chính sách tự lực, tự cường.
Tự nhiên, tôi học được một bồ kinh nghiệm sến. Tổng kết tình hình ma-ri-sến như sau: Các em khoái chủ nhân dành cho một căn nhà nhỏ. Nghĩa là, chủ nhân phải có vi la. Lý do giản dị nhưng đầy tính cách tình yêu: thỉnh thoảng, bồ tèo từ phương trời cát bụi trở về, ngủ lại một đêm, trao đổi văn hóa đề sớm mai lên đường. Hoặc kép ghé thăm em chiều mưa được im lặng “ước mơ một chiều thêu nắng, anh đến “chơi” quên niềm cay đắng và quên đường về”. Các em thích bếp ga, máy nước nóng, mang tiền đi chợ. Đặc biệt, các em ghét trẻ con ồn ào, ưa quấy khóc. Thỉnh thoảng, gặp một em ưa văn nghệ thì rất phiền. Cái yếu tố quan trọng quyến rũ sến là phải hao hao giống thần tượng nam ca sĩ vọng cổ. Tôi đã hân hạnh tiếp đón một ma-ri-sến độc giả tiểu thuyết của tôi. Thời buổi bây giờ, chủ nhà đừng hòng dở cái trò khám xét “hành lý'“ của sến. Em sến đã xách rương vào nhà tôi, lừng lững như một bạn đường xa. Em làm việc ngoan ngoãn, chăm chỉ. Một ngày âm u, nhà tôi nói nhỏ:
- Này anh...
- Gì?
- Em đã bảo anh đừng viết tiểu thuyết đường xưa lối cũ, anh cứ viết.
- Thú thật, anh không thể khều mặt trời hay vừa viết vừa khuân tảng đá. Văn chương của anh nó chảy ào ào, ầm ầm róc rách...
- Do đó, con sến nhà mình đã say mê đọc anh,
- Nó đọc anh à?
- Ừa, nó gối đầu giường cuốn “Tình đẫm lệ yêu” của anh.
Vạn hạnh. Vạn hạnh. Em sến chỉ biết tên ông chủ là Lương chứ không biết ông là “nhà văn” Lương Khoán, giải thưởng truyện ngắn Tiếng Chuông. Tôi tưởng nhà tôi xỏ ngọt tôi. Bèn mở cuộc điều tra. Buổi trưa nóng nực, tôi giả vờ lên gác. Thấy em sến cắm bàn là chờ ủi quần áo, nằm ngửa coi cuốn “Tình đẫm lệ yêu” tiểu thuyết “bét xeo lơ” của tôi. Tôi cảm động quá, hỏi:
- Nè, Ba...
- Dạ.
- Mày mê tiểu thuyết của thằng cha nào vậy?
- Thằng Lương Khoán thầy à... Nó viết số dzách! “Giả” viết mấy bức thư tình mùi vô cùng. Con đâm yêu thằng cha Lương Khoán!
- Mày mua hay may mướn?
- Con mua từ lâu, hồi con còn mần ở nhà hàng trên Sàigòn lận. Sư bố thằng Lương Khoán, đọc nó con khóc hoài à...
- Ừ, sư bố nhà nó chứ, nó viết lạ quá. Nè...
- Dạ.
- Chưa hết tháng nhưng thầy vẫn trả lương tháng rưỡi, mày sửa soạn dời đây đi.
- Tại sao?
- Tại vì mày vừa chửi thầy!
- Đâu có.
- Hề hề, tao là Lương Khoán.
- Thầy “dziết dzăng”, hả?
- Ừa.
- Thầy cho “em” ở lại, thầy ơi! Em thể trọn đời sẽ chung tình và không ăn lương.
- Không được.
- Ủa!
- Ủa cái nỗi gì? Thầy đang nói phét với cô là thầy sắp chiếm giải Văn học Tổng thống 1970, gửi bản thảo dự thi đàng hoàng. Thầy đã nhờ các ông Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan cho điểm tốt, chắc ẵm cái bằng văn chương về trang trí nhà cửa và cuộc đời thì mày phá đám.
- “Em” phá đám cái chi?
- Mày mê tiểu thuyết của thầy, tức nhiên, mày đã xếp hạng thầy là văn sĩ của ma-ri-sến. Thầy lạy mày vạn lạy, mày đi đi cho thầy kiếm tí công danh. Nếu phúc nhà thầy to, thầy sẽ trúng giải và đêm lãnh giải tại Phủ Tổng Thống, thầy mời mày đi... vỗ tay.
- Thầy có đọc diễn văn không?
- Có chứ.
- Thầy định nói gì?
- Về văn học thời đệ Nhị Cộng Hòa và ma-ri-sến! Thầy lấy sến “làm căn bản tư tưởng” đề ngồi lên “manh chiếu nghệ thuật”. Quả thật, Ba thân mến, nhà văn nghệ như thầy mà thiếu sến đọc kể như đói. Trí thức hôm nay mãi đeo yếm thắm lên chùa, chế độ thì lo mần vẻ ngớ ngẫn, viết khẩu hiệu kệch cỡm, văn hóa mãi “đố vui nóng máy” và khích lệ “va dơ lin” những người làm cho văn học nghệ thuật sống lay lắt, rau cháo qua thời, ấy là sến. Hỡi sến, các em cần thiết vô cùng. Thiếu các em đời sống tẻ nhạt và báo bổ phụ nữ ngày mai, phụ nữ mới, phụ nữ cũ, phụ nữ tân tiến, phụ nữ diễn đàn vân vân sẽ ngỏm. Những kép hát Hùng Cường, Thành Được khó trở thành thần tượng. Và phim “Chiều kỷ niệm” của tiền sĩ Nguyễn Xuân Oánh ai thèm coi? Và sư thành phố thuyết pháp, đào đâu nổi phật tử tham dự?
Em sến văn nghệ, độc giả ái mộ tiểu thuyết “Tình đẫm lệ yêu” của tôi cảm xúc nặng. Em đành rưng rức nước mắt, xê ra để tôi hy vọng ẵm giải văn học tổng thống. Từ đó, tôi viết về sến rất... có chiều sâu. Vì đau khổ bởi sến, tương tư sến, thèm muốn sến, văn chương tôi sáng giá vô cùng. Tôi dự định viết hai trường thiên tiểu thuyết. Cái thứ nhất tôi tặng anh thợ vẽ Hĩm, nhan đề “Ai đau khổ và bệnh trĩ”. Cái thứ hai tôi tặng quý bà thành phố, nhan đề “Ai đau khổ vì thiếu sến”. Hai bộ trường thiên này nhất định sẽ đưa tôi vào văn học sử. Và, người bê tôi vào văn học sử không ai ngoài phê bình gia Nguyễn Đình Tuyến.
Nhưng cái số vợ chồng tôi là số khổ vì sến. Rất nhiều bạn bè thương tôi, mất công tìm sến cho vợ chồng tôi. Tôi xin gửi nơi đây lòng biết ơn quý bạn. Một hôm, chị Tiến đích thân dắt tới một em sến. Vào buổi sáng, em sến ra buổi chiều. Em chống đối “hiến pháp” của chủ. Em pha sữa cho con tôi, đổ nửa bình, sữay nữa bình nước nóng. Tôi nhẹ nhàng giải thích rằng, pha thế ngọt quá, uống khô cổ và không thích hợp kiệm ước. Em sến nổi sùng, tốc quần chửi đứa nào chế ra danh từ kiệm ước mà nguyền rủa. Rồi em cút. Sáng sau, chị Hoa lại gởi đến một em sến. Em này làm trọn ngày. Ngủ thẳng cẳng suốt đêm. Mãi tám giờ em mới dậy. Em vi phạm điều lệ lần thứ nhất, vợ chồng tôi đồng ý bỏ qua. Em cười:
- Tôi ngủ mê mệt à... Thầy phải mua cho tôi cái đồng hồ rẽ!
Đồng hồ rẽ chưa kịp mua, em đã bỏ lại cái giỏ ni lông, chuồn vội. Hỏi ra thì em giận chồng lấy vợ bé, chống đối tiêu cực bằng cách đi... ở đợ, Đêm nằm ngủ cô đơn, nhớ chồng quá, em bèn trở về mái nhà xưa.
Và mái nhà tôi trở nên hiu quạnh. Ông già vợ tôi, tuy mãi lo kiện “Luật Người Cầy có Ruộng” lâu lâu, vẫn nhớ dắt lên vài em sến. Những em sến này đều chê đời sống văn minh kỹ thuật, lần lượt về lục tỉnh cày sâu cuốc bẫm. Tôi nhớ, có lần ông dẫn từ Trà Vinh lên một em sến Việt gốc Miên. Con bé làm việc chăm chỉ, ngoan ngoãn. Nó lãnh lương của bà ngoại... ghẻ tôi hai tháng tại Trà Vinh rồi. Đến tháng thứ ba, nó dở chứng. Đau ốm lu bù. Đưa thuốc không chịu uống. Dẫn đi bác sĩ thì chê. Nó viết sẵn một cái thư bỏ vào phong bì, đại ý, mượn lời ông anh nó làm thiếu úy, dọa vợ chồng tôi phải cho nó về, nếu không, anh nó sẽ xách súng hỏi tội. Thư này kèm theo bức thư gửi cho bạn nó, nhờ gửi tới địa chỉ nhà tôi. Bất đồ, tôi vớ được. Và tôi cho nó... giải nhiệm ngay. Giữ nó, một ngày đẹp trời nào đó, nó viết thư tố cáo cảnh sát nhà mình oa trữ truyền đơn Cộng sản thì bỏ bố!
Đã hơn một lần, vợ chồng tôi phải ra bót cảnh sát để đối chứng vụ ma-ri-sến thưa vợ chồng tôi hành hung em. Chuyện thế này: Em sến thuộc dân Duy Xuyên, Quảng Nam, ngớ ngẫn hơn tổng trưởng Trần Văn Lắm. Mới đến nhận công tác buổi chiều, buổi tối em sến ngớ ngẫn đã ngồi ì trước máy truyền hình. Gia đình tôi đi ngủ sớm. Kệ em sến coi. Chừng chán mắt hay hết chương trình em sẽ tắt máy đi ngủ. Đang thiu thiu, có tiếng đập cửa phòng. Tôi vùng dậy, mở cửa:
- Gì thế?
- Thưa thầy...
- Sao? Hai giờ sáng rồi còn chưa ngủ!
- Thưa thầy, tôi chờ hoài mà không có diễn tuồng.
- Chị ngồi xem máy... trắng à?
- Dạ.
- Bỏ mẹ tôi rồi. Sao không tắt máy?
- Tắt mô?
- Thôi cút đi!
Sáng sau, sến ngớ ngẫn lau nhà, cứ núi giẻ dơ mà miết cái đàn piano, nước nhễu cả xuống phím. Cái đàn của con gái tôi, hiệu Yamaha, mới mua gần nữa triệu bạc! Tôi đau ruột quá, bợp nhẹ một cái cảnh cáo. Nếu là con tôi, chắc tôi sẽ cho ăn no đòn. Nhưng nhân vị của sến bự lắm, bợp nhẹ nhàng thôi. Bợp mạnh em sến giả lăn đùng, cảnh sát tới lập biên bản, y sĩ nhà nước chứng thương, báo chí khai thác, đăng tít “Thời dân chủ mà còn diễn trò ác ôn” thì thân bại danh liệt. Tôi có người bạn bị báo đã kích tơi bời vì ma-ri-sến vu oan giá họa. Giai cấp vô sản luôn luôn được bảo vệ, dù cô ỉa đái lên sự thật. Thí dụ: vĩa hè Lê Lợi biến thành các sạp hàng, ai mở miệng nói gì mỹ quan của thành phố, đòi dẹp bỏ; ai mỉa mai thủ đô và e người ngoại quốc chê cười, lập tức “dân nghèo” dâng kiến nghị và sẵn sàng có nghị sĩ, dân biểu, nghị viên mị dân rẻ tiền tranh đấu quyết liệt. Do đó, cạnh nền văn học vĩa hè là... cầu tiêu. Cụ Mai Thọ Truyền hẳn đau lòng con quốc quốc!
Nàng sến ngớ ngẫn thù cái bợp tai nhẹ, đã bỏ buổi chợ, đi cớ bót. Tôi và vợ tôi ra bót. Ông thẩm vấn bóp ngánh (chả biết có phải trưởng chi) dở giọng cách mạng:
- Tôi cho ông hay, ông đầm đìa lỗi. Một người đàn bà khổ sở, lặn lội từ miền T rung, miền đất cày lên sỏi đá, vô đây ở đợ mà tại sao ông nỡ hành hung người ta? Tôi sẽ chở người ta đến chẫn y viện lấy giấy chứng thương. À, ông dám cầm cục sắt đập vào gáy chị này à?
- Vâng, tùy ông, ông muốn làm gì thì làm.
- Tôi sẽ dẫn ông về ty.
- Ông dẫn tôi về âm ty càng tốt.
- Ông chê dân chủ, ông là...
- Là gì?
- Quân phiệt.
- Ông cảnh sát ví von hay đấy. Thưa ông, các ông “quại” tụi lỏi sinh viên, học sinh bằng thích một cách công khai, nên ví sao đây?
- Ông là gì?
- Tôi là chủ nhiệm một tờ báo xoàng, quen miệng gọi là báo Đối Lập.
- Thưa ông bà chủ nhiệm, từ nãy, tôi đóng kịch để diễn vở “Cảnh sát bạn dân” trên ti vi đấy ạ! Báo Đối Lập rất ác liệt, coi tổng thống như pha. Chị kia,
Em sến ngớ ngẩn giật mình:
- Ông chủ nhiệm đây đâu thèm đánh chị cho đau tay.
Tôi đỡ lời:
- Thưa