Chương 5
Chương 5
ăm 406, triều Đông Tấn
Đôi tay khéo léo của nàng lướt qua bức tranh. Từng lớp sóng luân phiên trên dòng Dương Tử chảy giữa những ngón tay nàng. Những cánh buồm và những con thuyền ngược xuôi về hai phía, trong khi những đô thành, làng mạc, đền miếu, cầu cống, đồi và các đỉnh núi nàng dùng để chấm phá tô điểm. Trên bức tranh, chỉ có sự trù phú của bờ Nam được thể hiện. Bờ Bắc, dù không xuất hiện, nhưng lại ở khắp nơi. Dòng Dương Tử là biên giới, khung cảnh như chốn bồng lai của bờ Nam được thu gọn trong một cái nhìn luôn cố định bên bờ Bắc.
Dọc theo dòng sông, chiến tranh và hòa bình luân phiên, tựa như tiếng đánh đàn chậm rãi và tiếng khẩy đàn dứt khoát trên cây đàn cổ cầm, tựa như mưa gió thất thường đánh dấu bốn mùa. Nhờ sử dụng cọ lông đuôi sóc, ngay cả chiến tranh cũng được vẽ rất mềm mại. Các chiến binh, chân bị cắt rời, tay áo xắn lên, hàm râu quai nón xồm xoàm, đôi mắt tóe máu là những hình dáng nhỏ bé trong câu chuyện. Trong số những người lính phương Bắc, người man di mang giáp đính lông cọp và cưỡi những con ngựa trang hoàng bằng đầu người chết. Dưới chân thành, một số người đang đẩy máy phá thành đâm vào cổng, những người khác đang đào hầm dưới đất dẫn thẳng vào trung tâm thành. Con phố bị chinh phạt toát lên vẻ sầu thương, nhưng vẻ này mất hết khi nhìn sang cảnh tiếp theo: những ngư dân quăng lưới trên sông, những cánh chim tung cánh, những thung lũng trổ hoa. Thời gian khắc nghiệt trôi qua biến cái chết thành sự sống, biến nỗi buồn thành niềm hân hoan, thành những tia nắng nhảy múa dọc theo bờ sông.
Một dải bờ đá dốc đứng hiện ra. Những con sóng ném vào bầu trời rồi rơi xuống vụn nát trong vách đá. Nếu nhìn vào con nước đang cuồng loạn của dòng sông, người ta có thể đoán biết hai bờ Nam Bắc đang lại gần nhau nhìn nhau khinh bỉ qua một khúc sông hẹp. Qua được khúc sông, những con sóng không còn cuồn cuộn, những thác nước phẳng lì đổ chầm chậm trên một mặt nước rộng. Bắc Nam lại xa cách nhau và nhìn nhau từ xa. Mùa đông đã đến bên bờ Bắc. Gió bấc mang theo tuyết và sương giá bị ấm dần lên khi đi qua sông Dương Tử rồi trở thành từng cơn gió nhẹ lúc chạm được đến bờ bên kia. Mùa hè nhấn chìm bờ Nam. Những cơn mưa không dứt của mùa mận xanh quét qua những cánh đồng, bốc hơi lên cao trên mặt sông rồi tuyên chiến chinh phạt phương Bắc.
Xa ngoài thành Kinh Châu, dưới chân núi Bắc, sông tạo thành vịnh, nơi những con thuyền đủ sắc màu qua lại. Một con đường leo đến tận đỉnh núi dẫn vào chùa Đại Bi trong mây phủ. Trên những bậc thang bằng đá và gỗ nghìn năm, một người trẻ tuổi vác cây đàn cổ cầm ngước mắt nhìn cả cánh rừng bạt ngàn. Được vẽ xiên xiên, người này lúc thì có vẻ đang leo núi, lúc lại có cảm tưởng như đang đi xuống. Chàng đi đâu? Đó có phải là một người hành hương lên chùa? Dáng chàng cao và mặt chàng nhìn về phía núi. Dù vẻ mặt chàng không thấy được, nhưng dáng vai cong cong và phía sau gáy vững chắc cho thấy chàng đang lo ngại nhưng vẫn kiên trì. Dưới chân chàng là khoảng trống. Lang thang giữa trời và đất, chàng đang tìm một căn nhà, một ngọn lửa, một niềm hy vọng. Bà Mẹ Trẻ thở dài. Hôn phu nàng đã xa rồi và tham vọng của chàng đặt cả gia đình vào nguy hiểm. Giống như chàng trai trẻ đang bị đè nặng bởi một tương lai vô định này, nàng không biết liệu mình sẽ về với ánh sáng hay vực thẳm nữa.
Bà Mẹ Trẻ tiếp tục vẽ bức tranh. Một bến thuyền tấp nập chiếm lấy không gian. Những con thuyền ngư dân neo đậu quanh những con thuyền chiến và thuyền thương nhân. Trên bờ, từng đám phu khuân vác đang làm việc. Những chiếc xe thồ, xe ngựa đi về phía Kinh Châu. Những thành cao mới cháy sém chiếm lấy khoảng không. Những lá cờ trắng và đỏ thêu tên “Lưu” phấp phới giữa những lỗ châu mai và phần phật trong gió. Được sáu cánh cổng có lính canh cẩn mật bao quanh, đô thành được gia cố theo dáng của một con rùa mang chiếc mai cứng cáp. Bên trong bờ thành, nơi những hẻm phố nhỏ hẹp, một đám đông nhộn nhịp qua lại rồi tụ tập giữa những ngã tư, trước các cửa tiệm, ở lối vào các đền chùa. Đi ngựa hoặc đi bộ, họ là người dân trong thành, khách viễn du, lính tráng, người hành hương, ăn mày, nghệ nhân.
Thành Kinh Châu, tòa thành quân sự nổi tiếng, đã lấy lại vẻ xưa kia. Từ khi tổng đốc cho hội về những chức quan quý tộc và các đại thần trong triều đình, Kinh Châu, cửa sông, đã trở thành cửa vào quyền lực. Tất cả những ai có ý muốn xây dựng sự nghiệp trong quân ngũ, tất cả những ai muốn được mặc áo lụa, tất cả những ai mơ về một gia tài kếch sù đều vê đây an gia lập thất trong niềm hy vọng được ở gần người thủ lĩnh và lấy được lòng phu nhân của ông.
Sự nhộn nhịp ở dưới phố đã ngưng và cái tĩnh lặng sang trọng của giai cấp cao hơn trong thành đã đến. Dinh thự của tổng đốc không còn là nơi sầu não của các tòa nhà tan nát và cỏ dại. Những khu vườn đã nở hoa ở nơi những xác người từng la liệt. Một cung điện đã được dựng theo bản vẽ của Bà Mẹ Trẻ, phô ra những mái nhà oai vệ, nơi ở của người đại diện cho tinh thần bờ Nam Trung Hoa.
Một ngôi nhà, ông nội đã nói, cho thấy tính quy củ mạnh mẽ của chủ nhân. Ngược lại, các tòa nhà sẽ nuôi dưỡng đạo đức và tinh thần của con người. Bà Mẹ Trẻ đã muốn rằng lối vào của dinh thự sẽ tương xứng với phần đầu: cánh cửa chính, dành riêng cho chồng nàng và các quan lại, được hai hàng sư tử bằng khoáng vật cùng binh lính mặc trang phục xanh vàng canh giữ. Cánh cửa mở lối vào hai phòng tiếp khách như hai bờ môi trên miệng. Một con đường lát đá có viền khắc tạo thành “mũi” dẫn tới những tòa nhà làm việc, tức “hai mắt”, rồi dẫn tới một sân lớn bao quanh bởi các tòa nhà tầng trong đó là những phòng đầy kinh thư và giấy tờ. Thư khố là “trán”.
Khu nhà trung tâm được chia làm hai nửa. Ở chỗ “lá phổi” có một sân tập và một chuồng ngựa. Ở chỗ “tim” có một điện thờ nơi chồng nàng thờ phụng tổ tiên và các thần thánh phù hộ độ trì. Trong khi khắp nơi trong dinh thử có những cây ăn quả, hòn non bộ và bông hoa thì trong điện thờ chỉ có địa y xanh và những cây tùng trăm tuổi tỏa hương thơm nhã nhặn. “Kín đáo, phong phú, thanh tao và thành kính phải ở trong tim mỗi người”, cha nàng từng nói vậy.
Một bức tường cao ngăn cách khu vực việc công với khu vực dành cho gia tộc. “Bụng” gồm có các tòa nhà có tre và lựu bao quanh. Một hành lang hai bên đầy tranh vẽ nối các tòa nhà này lại với nhau và uốn lượn qua những bụi hoa để người ta có thể đi dạo mà không bị ướt mưa. Nếu Bà Mẹ Trẻ phải đi ra ngoài, nàng sẽ không bao giờ đi lối cổng chính. Một chiếc xe ngựa bốn bánh sẽ đến đón nàng ở cổng bên hông. Có trướng phủ kín màu xanh đen, chiếc xe sẽ chở nàng đi lại bí mật trong thành mà không ai biết người ngồi trong là ai.
Bà Mẹ Trẻ gọi yêu khu sau nhà là “chân”, vì chân luôn chạm đất và mang lại cho thân thể sức mạnh của đất. Quanh phòng ngủ, nàng đã trồng một khu vườn diễn đạt lại cái mênh mông của thiên nhiên. Những lối mòn rải sỏi đủ màu sắc lấy từ dưới lòng sông Dương Tử bao quanh các “núi” là những hòn non bộ được khéo léo chồng lên nhau thể hiện những bờ đá dốc đứng và những đỉnh núi xa xôi. Tán cành của những cây liễu rủ, cây trẩu, cây mận, cây đào, cây thích lùn làm người ta liên tưởng tới một khu rừng rậm rạp. Những thác nước đổ xuống từ trên cao trở thành thượng nguồn. Một cây cầu tía bắc ngang qua hồ nước, qua những thân sen cao mảnh và những lá súng to bản rồi dẫn tới một tòa nhà ba tầng có mái vòm.
Bà Mẹ Trẻ được vẽ một cách kín đáo trên bức tranh, một bóng người gần như bị nhòe mờ vì những đường nét chằng chịt và những mảng màu phóng khoáng. Đó là một phụ nữ ngồi bên hiên cái điếm nghỉ trên mặt nước chơi đùa với chiếc quạt nan. Bóng nàng soi xuống mặt hồ làm lũ cá chép vây lại. Chỉ khi quan sát kĩ cái bóng trên mặt nước, người ta mới phát hiện ra một điều bí mật. Những nếp gấp của chiếc áo lụa đôi chỗ bị căng lên, làm lộ ra cái bụng đang ngày một to lên.
Bà Mẹ Trẻ đã mang thai! Tất cả các ngự y đã soi đồng xu của mình, tất cả các nhà chiêm tinh đã xem kĩ các chủ tố đều tiên đoán đó sẽ là một hoàng tử. Nàng tự vẽ chân dung của mình để thể hiện niềm hạnh phúc này.
Không như cô con gái Huệ Viên lâu nay vốn không có tên, Nghĩa Phù, con trai nàng, được cha đặt tên từ trước khi ra đời. Cuộn trong bụng nàng, cuốn lấy dạ dày nàng, nó làm Bà Mẹ Trẻ buồn nôn và những cơn chóng mặt trong hạnh phúc. Một đoàn ngự y ra vào mỗi ngày bốc cho Bà Mẹ Trẻ cả chục thang thuốc uống từ sớm đến tối. Những món quà các các tổng đốc quân sự, lời chúc phúc của Hoàng đế và Hoàng hậu, sự ân cần của các chiến binh và người đưa tin triều đình qua lại mỗi ngày làm Bà Mẹ Trẻ vốn quen một mình cảm thấy khó chịu. Mang trong mình đứa con trai nối dõi của thống soái, nàng không còn biết trốn đi đâu. Nghĩa Phù đã ra đời để thay đổi cuộc đời nàng. Chính đứa bé này sẽ mang cho nàng hạnh phúc và nỗi buồn, sự bình tâm và lo lắng.
Trên bàn trang điểm, cuộn tranh nằm bất động dưới sức nặng của những viên ngọc thạch. Bà Mẹ Trẻ thở dài chầm chậm. Tóc nàng đã được cuốn lại thành một búi đơn giản. Trên chiếc váy đỏ là một chiếc áo xanh nàng mặc như áo khoác khi làm việc. Nàng bặm môi, cúi xuống, đưa tay trái qua phải để cầm lấy viền bên phải. Cầm một cây cọ cực mịn, nàng bắt đầu vẽ đứa con gái Huệ Viên đang chơi trong vườn. Nét cọ khẽ chạm trên giấy để lại những nét màu. Các điểm, đường nét giới hạn nhau rồi trở thành khuôn mặt, nếp áo. Nét cọ vẫn tiếp tục chạy và làm hiện lên sống mũi, đôi mắt. Bà Mẹ Trẻ bắt đầu vẽ đôi lông mày và mái tóc khi giọng nói lo lắng của bà quản gia vang lên sau lưng:
- Thưa phu nhân, ngự y không cho phu nhân vẽ nữa ạ! Phu nhân đang làm gì vậy?
Cây cọ dừng giữa không trung.
- Thưa phu nhân, con xin phu nhân hãy đi nghỉ đi ạ!... Chúng ta có một tin dữ.
- Một con hầu của thống soái Kiến Khang đã mang thai, - một người đàn ông nói.
Nàng nhận ra giọng nói của người quản quân.
- Các ngự y đã khẳng định là con trai!
Bà Mẹ Trẻ ngoái đầu lại và buông cây cọ.
- Hãy mau nghỉ ngơi, thưa phu nhân, - người quản quân thúc giục, - đừng làm mình mệt. Giọt máu trong bụng phu nhân là tương lai nhà chúng ta!
Ngập tràn cảm xúc buồn bã xen lẫn thất vọng và oán hận, nàng không nhúc nhích.
Một con hầu đến, giọng nó giải tỏa bớt bầu không khí:
- Quý cô đã học xong. Cô đang tìm phu nhân ạ!
Nàng ngẩng lên. Che giấu cảm xúc của mình, nàng trả lời:
- Tốt. Hãy chuẩn bị trà và bánh ở nhà Thủy. Ta đến ngay.
Nàng đứng dậy rồi ra lệnh cho các nàng hầu đang chờ ở cửa lau sạch các chén đĩa màu.
Vịn vào tay bà quản gia, Bà Mẹ Trẻ đi chầm chậm theo đường mòn khảm đá. Mùa xuân đã đến, ong bướm lượn quanh những cây hồng đào và lê trắng. Mặt trời đổ lên mặt nàng những đốm vàng. Bị chói, nàng nheo mắt. Trên hồ, một đôi vịt hoàng gia đang rỉa lông. Thấy nàng, chúng nghểnh cổ lên rồi vỗ cánh bơi lại gần. Hầu nữ đã rút bớt những bức trướng giữa những cột nhà để nó trở thành một hành lang mở có góc nhìn rộng rãi về phía vườn. Căn phòng được trang hoàng đơn giản với hai bàn thấp sơn đen, một tấm chắn gió có vẽ cảnh mà Bà Mẹ Trẻ cho thay đổi luân phiên theo mùa và một chậu dài có cổ mảnh mai lúc nào cũng có một nhành hoa. Đêm trước, nàng cho thay nước để đặt vào đó một nhánh hoa lê. Vậy mà những cánh hoa trắng cũng đã rụng cả trên nền đất rồi.
Nàng nằm trên chiếu lụa, dựa bụng mình lên gối, tì khuỷu tay lên một chiếc bàn được làm riêng cho nàng rồi ngả đầu vào bàn tay. Trên thềm, một bếp lò nhỏ đã được đưa tới. Một nàng hầu thổi than hồng để đun nóng nước suối, một nàng khác tán nhỏ trà. Cả hai vận đồ xanh tối, dáng họ chìm vào lũy tre trong vườn.
Bà Mẹ Trẻ đã chán những nét đẹp đó. Hoa và cây cối thi nhau làm nàng vui, tỏa hương thơm nhẹ nhàng. Nàng nhìn chúng mà trong lòng như lửa đốt. Cái đẹp nhắc cho nàng nhớ thời gian đang trôi đi, và mùa xuân tuổi trẻ của nàng đã kết thúc. Nhưng mùa xuân vĩnh cửu thì tạo ra những cái đẹp khác để thay thế nàng, tươi mới hơn, thơm hơn, quyến rũ hơn. Xuân đến xuân đi, nàng không còn là người phụ nữ như xưa nữa. Con tim đã bớt ngây thơ, đôi mắt đã mở to hơn, nàng phải chịu đựng số phận mà chồng nàng đã định đoạt như một cánh bướm bị gắn lên tường.
- Mẹ! Mẹ!
Bà Mẹ Trẻ ngước mắt lên rồi khuôn mặt bừng sáng. Từ xa, trên con đường mòn đầy rêu và cánh hoa hồng, cô con gái Huệ Viên vừa đi vừa nhảy nhót. Nó như đang chạy. Bà quản gia nắm chặt lấy tay nó và cứ phải kéo nó lại. Cơn gió thổi giọng nói ầm ầm của bà ta đến:
- Phu nhân đang mệt lắm. Đừng có chạy tới chỗ phu nhân. Cô sẽ làm phu nhân đau…
Bị nắm lấy cánh tay, Huệ Viên đu trèo như một chú khỉ. Bất ngờ nó thoát ra rồi phóng lên cầu la lớn:
- Mẹ! Hôm nay con viết được bốn mươi chữ! Thầy khen con giỏi lắm!
Bà quản gia chạy theo sau con bé.
- Đứng lại tiểu thư ơi! Đến đây nào!
- Mẹ! Mẹ!
Tiếng Huệ Viên la hét với nàng còn ngọt ngào hơn tiếng hót của chim vàng anh. Bà Mẹ Trẻ cuối cùng cũng cười mỉm rồi mở rộng vòng tay. Nàng cảm thấy thèm thuồng được cảm nhận sức nóng của cái cơ thể nhỏ bé kia.
Thoắt cái Huệ Viên đã ôm lấy nàng.
- Mẹ! Con nhớ mẹ quá!
Bà Mẹ Trẻ ôm chặt lấy nó rồi hít hà mùi thơm của con hoẵng con. Khi một đứa bé nhảy ào đến chỗ mẹ nó, đó là lúc nó muốn được hưởng sự bảo bọc âu yếm của mẹ. Khi một bà mẹ trẻ ôm đứa con vào lòng, bà ôm cả cuộc đời nhảy nhót trong từng mạch máu và uống lấy sự ngây thơ trong ánh mắt đứa bé, cái ánh mắt làm bà quên mọi ưu phiền trên thế gian. Huệ Viên là một điều kỳ diệu và Bà Mẹ Trẻ luôn thấy rất khó tin. Sinh ra trong chuồng ngựa giữa một cuộc thảm sát, nó đã sống sót giữa chiến tranh, giữa cái đói, giữa bệnh tật. Nó đã trở thành một cô bé nhỏ nhắn, với hàm răng và đôi chân chắc khỏe, rất giống cha nó. Nó có nước da màu thẫm, đôi mắt to, miệng chúm chím và tính nết của nàng. Huệ Viên là một viên lửa long lanh và rực rỡ.
- Cha đi đâu rồi mẹ? - Nó la lên. - Bao giờ cha về?
- Cha con là một anh hùng phải theo đuổi những cuộc phiêu lưu. Cha sẽ về khi nào cha thắng trận mới.
- Cha cho con cái này nè!
Huệ Viên xòe bàn tay rồi giơ ra một con rùa bằng ngọc thạch. Bà Mẹ Trẻ cầm lấy nó rồi đem nó ra chỗ sáng.
- Nó để nhắc con rằng chiến cuộc sẽ sớm kết thúc và cha sẽ về với rất nhiều quà.
- Con không muốn con rùa, con muốn cưỡi ngựa với cha!
Bà Mẹ Trẻ bảo con bé ngồi xuống, đưa trà cho nó uống, đưa bánh cho nó ăn rồi hỏi han việc học của nó.
Huệ Viên nhìn bụng mẹ rồi mặt mũi tối sầm. Nó ngoảnh mặt đi rồi cúi gằm mặt.
- Tại sao Nghĩa Phù nấp trong đó? Tại sao em không ra chơi với con?
Rồi nó quay mặt lại.
- Mẹ, con muốn có em gái!
Năm 410
Bà Mẹ Trẻ cởi áo cho con bú. Nghĩa Phù mút và nhìn nàng không chớp mắt. Bà Mẹ Trẻ phát điên vì giây phút này, khi thế giới cũng chẳng còn tồn tại nữa, chỉ còn mình nàng và Nghĩa Phù, cùng một hơi thở. Vì lý do đó, nàng không bao giờ muốn giao con trai cho vú nuôi. Nó đã bốn tuổi và nàng tiếp tục cho nó bú như một đứa bé sơ sinh.
Phải chăng các thánh thần thổi luồng sinh khí từ người mẹ sang cơ thể của đứa con. Phải chăng nàng già đi để đứa con được lớn lên? Nghĩa Phù là điều thần kỳ thứ hai trong cuộc đời nàng. Nó có làn da trắng trẻo, mũi bẹt dài, đôi mắt như hạt hạnh nhân, khuôn mặt như trăng tròn và tất cả những nét quý phái của giới quý tộc Trung Nguyên. Đến với cuộc đời này vì vinh quang và sự giàu có của cha, nó mang lại cho mẹ cơn đau và niềm kiêu hãnh.
Nghĩa Phù sinh ra trong thành Kinh Châu bốn mươi mốt ngày trước đứa em là Nghĩa Chân, con trai một nàng thiếp yêu của thống soái thành Kiến Khang. Từ lúc đó, những nàng thiếp đã làm thành một phe thù địch, âm mưu chống lại nàng và người vợ cả là nàng Tăng, không sống ở kinh đô. Còn trẻ, đẹp và tham vọng, những tỳ thiếp này gọi hai nàng đầy khinh miệt là “những nông dân trong thành Kinh Châu”. Chúng không chấp nhận sự hợp thức của Nghĩa Phù, kết tội Bà Mẹ Trẻ đã dan díu với một lính canh. Chúng chọc ghẹo nàng Tăng mỗi khi nàng đến Kiến Khang yết kiến triều đình, chúng cho nàng ăn đồ nguội lạnh và bắt chuột bỏ vào phòng nàng. Cách đây một năm, nàng Tăng đã lìa đời trong oán hận và giận dữ, làm Bà Mẹ Trẻ mất đi người đồng minh duy nhất dưới chồng, người chẳng hiểu gì về những cuộc tranh chấp của đàn bà. Sau cái chết này, nàng đã được thăng lên thế chỗ vợ cả và từ đó được hưởng đặc ân triều đình. Nghĩa Phù được ấn định àm người thừa kế của thống soái. Vì Nghĩa Phù, Bà Mẹ Trẻ phải đối mặt với thị phi nhiều hơn bao giờ hết.
Ở thành Kinh Châu, đứng ngồi giữa tiếng sột soạt của áo quần và những lời xiển dương êm tai, Bà Mẹ Trẻ phải hít thở sự cô đơn và im lặng. Dù nàng đã quyết không dính đến triều chính, nàng vẫn bị những thái giám và tướng lĩnh lo ngại những âm mưu của phe Kiến Khang tấn công. Những người hầu cận trung thành này cúi lạy khiêm nhường dưới chân nàng và kể cho nàng tất cả những chuyện soi mói nghe được ở kinh đô. Lời họ nói, được kể chậm rãi, giống như những ngụm thuốc độc chạy dọc theo cổ nàng làm chân tay nàng bủn rủn.
Trên ngôi vị vợ cả và mẹ của người thừa kế thống soái, nàng phải đi cùng những đứa trẻ về kinh đô mỗi dịp lễ trong triều. Không hề giấu giếm sự hung dữ của mình, các tỳ thiếp soi mói nàng, vạch lá tìm sâu, chê bai những bộ áo của nàng, nữ trang của nàng và từng bước đi của nàng trước một bầy nàng hầu. Bà Mẹ Trẻ phải giữ nguyên nụ cười và chỉ được khóc lúc đêm thâu đến. Ở sân chầu, Hoàng đế và Hoàng hậu hết lời dành cho nàng những vinh dự và quà cáp. Những món quà này làm nàng đau khổ: bực tức và cay cú, đám tỳ thiếp chỉ muốn nàng chết. Từ đó nàng phải cẩn trọng từng miếng ăn để tránh bị đầu độc. Thỉnh thoảng nàng giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì có cảm giác những kẻ ám sát lảng vảng đâu đó…
Nghĩa Phù đã thôi bú. Nó dựa đầu trên đùi mẹ nằm ngủ.
- Mẹ! Mẹ!
Huệ Viên kéo rèm rồi nhảy tót vào phòng. Vừa thấy Nghĩa Phù, nó đứng yên, lăn vào vòng tay mẹ. Nó bĩu môi lay thằng em.
- Dậy đi, đồ lười nhác, tới giờ học đàn cổ cầm rồi.
Những nàng hầu mang bàn thấp đến rồi đặt trước mặt Huệ Viên và Nghĩa Phù hai cây đàn được làm riêng cho chúng.
Bà Mẹ Trẻ bắt đầu bài học bằng một tràng dài cầu nguyện. Bắt chước mẹ, Nghĩa Phù và Huệ Viên chắp tay lại. Một ngày nào đó có lẽ nàng sẽ giải thích cho chúng tràng cầu nguyện này là lời xin tha tội gửi đến tất cả những kẻ vô tội bị chồng nàng, tức là cha hai đứa trẻ, giết chết.
Một làn hương mỏng manh thoát ra khỏi lư hương chạm vàng. Làn hương có hình cung tròn uốn lượn rồi biến thành một nữ thần mặc váy đuôi dài, rồi thành một đoàn quân ngựa phi nước đại để trở thành những cuộn mây khổng lồ rồi bay vút đi trong hình dáng một bầy ngỗng trời. Hương là chữ viết của linh hồn bay đi giữa cái hữu hình và vô hình. Mùi hương nhè nhẹ là niềm sảng khoái của nỗi cô đơn. Giống như hương, âm nhạc là một thể tự do, Bà Mẹ Trẻ dạy những đứa con. Nàng đi theo linh hồn bay lên đến tận trời.
Nghĩa Phù và Huệ Viên bắt đầu lên dây đàn. Từng cặp dây được khẩy lên. Một dây đàn lên hoàn chỉnh khi nó phát ra âm hòa hợp với dây nghịch của nó. Khi Nghĩa Phù lên ba tuổi, Bà Mẹ Trẻ dạy nó chơi đàn cổ cầm để nó có được các đức tính theo lời dạy của cố nhân. Biết rằng nó sẽ được thừa hưởng vị trí của cha, nàng muốn nó trở thành một bậc nhân từ và đúng đắn.
- Chữ “Cầm”, cây đàn bảy dây, cũng là chữ “Cấm”, điều bị cấm, - nàng dạy các con. - Một người giống như một cây đàn có bảy dây lụa rung lên mỗi ngày. Đàn phải được lên dây, người phải được dạy và biết sửa chữa. Cấm, điều cấm là sự thấu hiểu cái không. Khi ta cấm những ý nghĩ sai trai, những ham muốn dư thừa và những hành động xấu xa, con người đi vào con đường Thiện nhờ nhận ra con đường Ác…
Bên ngoài, mùa xuân đã bừng nở sắc xanh, sắc hồng, sắc đỏ, sắc da trời và sắc tím. Bên trong, bóng những bụi tre đung đưa trên sàn nhà loang loáng bóng mặt trời. Gió thổi, để lại trên đồ đạc những cánh hoa muôn màu. Huệ Viên lên tám. Vẻ cao phổng làm nó như đã lên mười và thừa hưởng những nét kiêu kỳ của cha nó.
- Cầm có phải là Thanh, sự trong sạch không mẹ? - Con bé hỏi.
Bà Mẹ Trẻ khuyến khích nó nói tiếp. Huệ Viên bắt chước giọng cha nó khi ông đang bàn việc quân:
- Một khi linh hồn đã bám bẩn như một mặt hồ bị khuấy bùn thì lỗ tai trở thành Trọc và không nghe thấy âm thanh tinh tế của đàn cổ cầm nữa. Khi một linh hồn đã khép kín và bình thản thì lỗ tai nghe ra tiếng mặt hồ trong xanh phản chiếu mọi động tĩnh của thiên nhiên. Đó là lý do vì sao người chơi đàn cổ cầm phải tập cho tâm bình ổn, phải rửa sạch tay, phải đốt hương trầm và suy tư trước khi chạm vào bảy dây dần.
Bà Mẹ Trẻ khẽ gật đầu đồng ý. Nàng rất hài lòng. Huệ Viên là một đứa trẻ thiên bẩm, có thể đọc thuộc lòng Kinh thư của Khổng Tử từ lúc còn nhỏ. Đã nhiều lần chồng nàng thầm tiếc tại sao con bé không phải là nam nhi để thừa hưởng chức tước của mình. Bên cạnh chị mình, Nghĩa Phù há miệng cười sảng khoái. Nó ngưỡng mộ chị nhưng cũng sợ chị. Huệ Viên vừa chăm sóc em vừa chọc ghẻo tính ẻo lả của nó. Con bé luôn tìm cách nổi bật hơn khi chúng cùng ở bên mẹ.
Huệ Viên và Nghĩa Phù là hai ngọn cây nở hoa mỗi ngày. Huệ Viên cao lớn và mạnh dạn như một cây dừng nhỏ trong khi Nghĩa Phù mảnh dẻ và nhạy cảm như một bông hoa mẫu đơn. Bà Mẹ Trẻ sợ chúng bị một trận gió lốc nào đó đánh gục! Nàng canh chừng từng bữa ăn, giấc ngủ. Nàng luôn lo chúng có bị lạnh, bị sốt, bị say nắng, dầm mưa hay không. Nàng biết một ngày nào đó Huệ Viên sẽ kết hôn và rời xa nàng đi về nhà chồng, rồi Nghĩa Phù sẽ phải theo cha trên những cuộc chiến tàn khốc. Những giờ bình an được học đàn này có lẽ là những khoảnh khắc hạnh phúc cuối cùng mà nàng có với con mình. Chúng sẽ sớm trưởng thành, sẽ rời xa nàng, nàng không còn gặp lại chúng nữa.
Bà Mẹ Trẻ quay mặt đi, âm thầm chùi nước mắt. Rồi nàng tiếp tục lời dạy:
- Hôm nay ta sẽ dạy các con bản Hoa lan trong thung lũng, một khúc nhạc do Đức Khổng Tử soạn. Ngày xưa, khi bị đuổi khỏi quê hương, Đức Khổng Từ lang thang từ vùng đất này đến vùng đất khác cùng những đồ đệ đi tìm một đức vua anh minh biết nghe theo lời dạy của mình. Không có ai quan tâm tới những gì ông nói. Một ngày nọ, khi đi ngang thung lũng, ông phát hiện ra một loài hoa lan nở giữa bụi rậm. Ông dừng lại, chơi một khúc cổ cầm trước hoa. Các con nói xem, tại sao ông lại soạn khúc nhạc này?
Tranh thủ lúc học đàn cổ cầm, Bà Mẹ Trẻ dạy các con những bài thơ cổ, dậy đạo đức Khổng giáo, dạy các nguyên tắc Lão Tử và kinh Phật. Cả hai đứa bé là một dải lụa trắng tinh mà nàng muốn vẽ lên những bức tranh đẹp nhất trong cuộc sống.
Nghĩa Phù mở to mắt. Huệ Viên nhanh nhẹn trả lời:
- Giống như loại hoa quý phái nở trong rừng hoang, Khổng Tử bị các ông vua ghẻ lạnh nhưng vẫn tiếp tục truyền bá các bài học thông thái trong dân chúng.
- Con của mẹ giỏi lắm!
Bà Mẹ Trẻ không giấu được niềm sung sướng.
Nàng chơi khúc nhạc hai lần rồi nói hai đứa con chơi lại.
Huệ Viên bắt đầu trước rồi Nghĩa Phù chơi theo. Hai cây đàn vang lên như hai con hoẵng chạy nhảy ở bìa rừng.
Tiếng đàn rõ ràng, sáng sủa vẽ nên những cây cối um tùm trong thung lũng.
Đến khoảng lặng, những bờ đá dốc đứng lại hiện ra.
Những âm thanh bềnh bồng vẽ ra một màn sương mờ lang thang ám vào những hang động.
Những âm thanh xoắn mạnh gợi những dòng nước quanh co xuyên qua rừng.
Các nốt nhạc tung lên như thác nước đổ trong gió.
Những âm “hãm” rung lên rồi trở thành từng chiếc lá mảnh dẻ của loài hoa lan.
Bà Mẹ Trẻ quay mặt đi rồi lại lau nước mắt.
Những cơn ác mộng chiến tranh đã chấm dứt. Dinh thự là một khu vườn đang trổ hoa. Con trai nàng sẽ là đấng quân vương có dáng đi quý nhân và trái tim nhân hậu. Niềm hạnh phúc này làm nàng đau khổ!
Năm 416
Những cột khói bắc lên tận trời như mái tóc một người phụ nữ buông lơi trong gió.
Những dải sắc đỏ lượn sóng, xoắn lại. Đó là những ngọn lửa bắc thang lên trời để gặm nhấm mây.
Sau tấm màn the, nàng thấy một người phụ nữ đang gội đầu. Ngồi trước một tấm gương đen, người phụ nữ vận đơn giản một chiếc áo trong màu trắng. Từ khuôn mặt không son phấn tỏa ra một ánh sáng nhẹ nhàng như đồ sứ cổ. Đôi mắt bà được tô để tôn lên khuôn mặt hình trái xoan, đôi môi là hai cánh hoa đào không bao giờ biết đến bão tố. Những ngón tay bà thon dài dỡ từng thanh cắm tóc khảm ngọc cùng cái lược bằng vàng chạm đá ngọc thạch rồi đặt chúng lên một khay nhung. Tháp tóc nghiêng xuống rồi xõa ra. Làn tóc đen chảy qua gáy bà, lượn trên lưng bà rồi lao xuống đất. Người phụ nữ nằm ra, ngả đầu trên gối bằng ngà rồi nhắm mắt lại. Một chậu bạc đầy nước ấm và cánh hoa hồng được đưa tới. Một nàng hầu nhúng mái tóc vào bồn rồi chải chuốt nó. Tay cầm một bình nhỏ, nàng hầu thứ hai đổ nước lên trán của người phụ nữ. Nàng hầu thứ ba mở một lọ dầu hương nhài mà nó đã chuẩn bị trước để làm mượt tóc. Tóc vẫn còn ướt được chải từng búi một trong dầu. Những cọng tóc rụng được nhặt từng cọng một, túm lại thành lọn rồi đặt vào một cái túi nhỏ. Tóc là một phần cơ thể, một vật phẩm của thánh thần.
Bà Mẹ Trẻ giật mình tỉnh dậy. Nàng nhận ra rằng người phụ nữ đó là mẹ mình và giấc mơ là một ký ức về thời thơ ấu.
Mùa xuân khỏe khoắn đã đến trong thành Kinh Châu và đêm xì xầm muốn lời to nhỏ. Đó là tiếng măng tre nhú lên, tiếng nụ hoa khép lại, tiếng lá sen duỗi thẳng trên mặt nước. Bà Mẹ Trẻ thu mình co ro. Dù đắp ba lớp lụa, cái lạnh ẩm vẫn chui vào. Nàng ho.
Rồi tiếng một con hầu nhanh chóng cất lên ngoài cửa:
- Phu nhân thức dậy ạ? Chúng con có phải thay lò than không ạ?
- Vào đi, - nàng trả lời.
Một lát sau, cánh cửa kéo được vén lên. Năm nàng hầu im lặng đi vào. Một nàng mang lò than lạnh đi bằng một cái kẹp đồng, một nàng khác đặt trước giường nàng một lò than mới trong đó than đang tí tách ửng hồng, nàng thứ ba mang đến một lồng ấp chân nhỏ bằng bạc đặt trên khay cùng hai chén nước cất, nàng thứ tư đưa đến một chậu đựng đầy nước ấm ướp hương kim ngân, nàng thứ năm mang đến khăn mặt và ống nhổ. Nàng nhúng một khăn vào nước, lau mặt và tay, rồi dùng một khăn khác để lau khô. Nàng súc miệng bằng tách nước cất đầu tiên, nhổ vào ống nhổ rồi cầm lấy tách thứ hai để uống. Nàng lấy cái lồng ấp chân rồi đi ngủ lại. Bên ngoài, lính canh đi tuần gõ chuông báo giờ Dần. Trời sắp sáng. Dù có cái lồng ấp chân, nàng vẫn không thể thoát khỏi cảm giác lạnh lẽo. Nàng kéo chăn lên đến tận cằm.
Đêm qua, nàng bất ngờ gặp lại đứa em trai út. Khi họ chia lìa nhau mười sáu năm về trước, nó vẫn còn là một đứa trẻ con. Bây giờ, nó đã có râu quai nón, trở thành một con người, một người vô danh. Nó đã kể cho nàng nghe mẹ nàng đã rời khỏi cõi đời để gặp những tổ tiên đáng kính. Rằng gia đình đã không hề nhận được tin tức và không ngừng tìm kiếm nàng. Không biết tên của tên tướng đã cướp nàng, họ nghĩ rằng nàng đã chết, cho tới một ngày họ biết rằng nàng đã thành hôn thê của thống soái, phu nhân thượng cấp trong triều, người phụ nữ đáng kính nhất của vương quốc chỉ sau hoàng hậu.
Cuộc gặp gỡ giữa đứa em trai và chị là một tình huống cay đắng đến mức không hề có một tiếng thở dài hay nước mắt. Câu chuyện của đứa em trai, bài ca đều đều về những năm dài xa cách làm nàng lạnh cứng cả thân thể. Nàng đã chào từ biệt nó bằng một động tác buồn bã để rồi lại một mình đối diện với nỗi đau.
Tại sao những người đưa tin nói dối nàng? Tại sao chồng nàng cố giấu những bức thư? Nàng đã là một tù binh mà không hề hay biết.
Mười sáu năm, thật dài khi đếm ngày đếm tháng, nhưng đó chỉ như cái chớp mắt trong đời người phụ nữ. Trong mơ, nàng luôn là một cô gái trẻ còn chưa hề biết cuộc đời tàn bạo; lúc thức dậy, nàng đã là mẹ, là phu nhân tron triều, đã ngán ngẩm những vụ âm mưu ngày càng nhiều quanh mình. Hôm qua, cuộn hai búi tóc hình hoa trà, nàng nhảy cẫng, chạy, hát reo vui vẻ. Hôm nay, nàng đi lại giữa một bầy hầu gái và thái giám, rồi luật lệ trong cung buộc nàng phải đi kiệu và xe đính từng chiếc là bằng vàng. Từng động tác của nàng không còn tự do nữa; nàng là chiếc áo lộng lẫy của chồng và con mình, là thứ trang hoàng cho sức mạnh của họ.
Trước căn phòng, có tiếng sột soạt của váy áo. Đó là những nàng hầu thay ca. Toán hầu ngày đến thay toán hầu đêm. Nàng ho một tiếng, tức thì cánh cửa mở lớn rồi một toán cô gái trẻ bước vội vào. Họ xếp thành ba hàng rồi quỳ lạy trước giường nàng, đồng thanh hô lớn:
- Nô tỳ bái kiến phu nhân! Kính chúc phu nhân trăm tuổi xuân thì!
Nàng để cho các nàng hầu lau rửa và thay đồ. Một số mang cho nàng nước cất lúc thức dậy buổi sáng, số khác lại lo việc chải tóc và trang điểm cho nàng. Bên ngoài cánh cửa đang mở rộng, nàng thấy ngày đã đến. Những lũy tre và các tòa nhà sơn son thếp vàng xa xa vẫn chìm trong bóng tối.
Người làm tóc vấn từng búi tóc của nàng lên rồi quấn quanh những sợi tóc giả, tạo thành một tháp cao để cắm vào đó những đồ trang sức hợp với danh vị của nàng. Các nàng hầu bôi lên da mặt nàng một lớp dầu thơm. Sau khi đã đánh bóng cổ nàng, xoa hai bên má, viền mắt và thái dương, họ phủ lên da một lớp phấn làm từ sữa và thảo mộc.
Khi nàng thay đồ xong, mặt trời đã rọi những tia nắng vàng xuống khu vườn; vô tư không biết đến nỗi đau và khốn khổ của con người, những chú chim hát vang vui mừng.
Trong phòng sinh hoạt, các nàng hầu mang đến hàng chục khay đựng thức ăn cho bữa trưa, nhưng nàng chỉ có thể nuốt một tách trà.
- Mẹ! Mẹ!
Nàng run run. Ngoài thềm, Huệ Viên và Nghĩa Phù đang cúi chào nàng. Nàng ra hiệu cho chúng vào. Mặc một bộ áo gấm và mang một búi tóc lớn hình con gà, Huệ Viên ngồi trên ghế vững vàng, khuôn mặt khép nép.
Nghĩa Phù đã mười tuổi. Nó là một cậu bé dễ thương quấn tóc theo kiểu thông chúi xuống. Như một người thượng lưu, nó mặc áo có tay dài thêu ngọc trai và mang đôi dép gót cao bằng gỗ quý. Nghĩa Phù ngồi cạnh Huệ Viên. Bỗng nó lấy tay áo che mặt rồi nức nở.
Bà Mẹ Trẻ cố giấu nước mắt. Nàng đã mong con gái được thứ hạnh phúc mà nó sẽ không biết: một đám cưới linh đình với con trai một người thượng lưu ở Trung Nguyên. Nhưng nàng không biết chồng nàng đã ra tay để Huệ Viên được chọn vào triều. Ông thích dùng con gái để đạt những mục đích chính trị hơn. Trở thành thiếp trong triều, Huệ Viên sẽ là con tốt được đặt dưới quyền Hoàng đế. Nếu nó sinh được một hoàng tử thì đứa bé sẽ được thừa kế ngai vàng. Khi Hoàng đế đương trên ngai bị ép thoái vị, đứa bé con sẽ trở thành Thiên tử. Trong vai vế là ông ngoại, thống soái Lưu sẽ là nhiếp chính và cai trị hợp pháp toàn bộ đế chế ở bờ Nam.
Những nàng hầu quỳ lạy trước thềm.
- Bẩm phu nhân, xe triều đình đã đến. Thái giám trong cung sẽ vào dinh thự. Xin phu nhân trở gót diện kiến ạ!
Ôm chặt đứa em trai, Huệ Viên gục xuống trong nước mắt. Tay choàng quanh cổ chị, Nghĩa Phù la hét đến khàn cổ. Bà Mẹ Trẻ lảo đảo đứng dậy. Nàng dựa vào cánh tay nàng hầu để không ngã xuống. Nàng biết rằng tất cả các cô gái trẻ vào Tử Cấm Thành đều không được gặp cha mẹ nữa và phải sống trong im lặng. Phải cạnh tranh với mười nghìn tỳ thiếp khác để được sự sủng ái của Hoàng đế, con bé sẽ chết vì tủi nhục, vì bị đầu độc hoặc vì bị lãng quên.
Bà Mẹ Trẻ đi qua hai đứa bé mà không nhìn chúng. Bên ngoài, mặt trời chói chang. Nàng nhìn lại chiếc váy cưới mà nàng đã không mặc nữa khi lánh nạn chiến tranh. Hằng hà sa số những nét thêu vẽ thành hình hoa mẫu đơn, bướm, chim, cây cỏ và mây trời. Tại sao cái niềm hạnh phúc đơn giản này cô con gái nàng lại không thể có?
Nàng chùi nước mắt rồi ra lệnh cho người trang điểm dặm phấn lại mặt mình cũng như cô con gái. Nàng ngẩng cao đầu rồi lấy lại giọng điệu quý phái và lạnh lùng của một phu nhân thượng cấp trong triều. Nàng túm váy lên rồi đi xuống thềm để đón đoàn thái giám của triều định đến tìm Huệ Viên. Theo đúng luật, lối đi chính điện được phủ một dải lụa dài và vải lông đỏ thẫm. Dưới chân mang đôi giày vàng mũi cong, nàng cảm thấy một dòng sông máu đang chảy.
Năm 417
Mười hai tháng đã trôi qua mà Bà Mẹ Trẻ không thể thoát khỏi sự đờ đẫn bắt nhốt nàng, làm nàng vô cảm với mọi cơn đau và vô cảm với mọi sự.
Ở trên núi Bắc, chùa Đại Bi trôi giữa mây trời, Bà Mẹ Trẻ từ chối đi kiệu để leo ba nghìn bậc thang thể hiện lòng thành Phật pháp. Khi nàng đến được cổng vào, sư Phát Quang ngạc nhiên chào nàng.
- Đừng từ chối ta, - Bà Mẹ Trẻ nói với sư. - Ta mới vừa bỏ cung đình. Hãy cho ta ngồi trong một phòng tu như một người đàn bà bình thường lánh nạn nơi đất Phật.
Ở chùa, những nữ tu thức dậy lúc sáng sớm và chỉ ăn hai bữa nhẹ mỗi ngày. Đã rời bỏ áo lụa và trang sức vàng bạc, Bà Mẹ Trẻ mặc một chiếc áo vải gai thô và theo một chế độ ăn chay: một bát cháo trắng, một nhúm ngũ cốc và vài cọng rau. Đôi má tròn trĩnh, cơ thể đầy đặn, mái tóc dày và óng mượt của nàng tương phản với cánh tay xương xẩu và sắc da xanh nhợt nhạt của các tu sĩ. Da sạm và khô, các nữ tu giống như những cây khô rụng lá vào mùa đông. Họ đi theo đoàn chậm rãi, ngồi xuống mỗi người một góc không gây ra tiếng động trong các phòng tu và gặp nhau để đọc kinh. Họ ít nói, không tán gẫu, không bao giờ cười. Không ai hỏi Bà Mẹ Trẻ tại sao nàng lại muốn đến nơi này. Khuôn mặt họ không chút biểu cảm. Cái không của tôn giáo, sư Phát Quang nói với nàng, đó là sự xa rời khỏi nhục dục và những tình cảm phàm trần. Người ta phải dẹp bỏ bản ngã và chấp nhận là một nét tối. Nhiều nét tối sẽ làm thành bức thư pháp mà thần linh tìm kiếm.
Trên bậc thêm vào chùa, khi trời đẹp, Bà Mẹ Trẻ mở tầm mắt nhìn cánh rừng mở rộng đến tận đầu ngón chân nàng và ngắm dòng sông Dương Tử. Quanh nàng, những đỉnh núi nhuốm hồng khi mặt trời xuống. Khi thời tiết xấu, từng đám mây cuồn cuộn kéo tới vây quanh, sương mù từ dưới đất sâu dâng lên, cây cối biến mất, con đường mòn dẫn lên chùa biến mất, thế gian trở thành một quả cầu tròn mờ đục, làm người ta thấy con đường giữa thế giới bên ngoài và thế giới trong chùa vĩnh viễn bị ngăn cách.
Trong phòng Tam Thế Phật, nàng tụng kinh đến tận khi cảm thấy cơn sốt sắp tóm lấy mình và linh hồn nàng rời khỏi cơ thể để hòa vào những nén hương. Nàng xin Phật tha tội cho chồng nàng, người đang viễn chinh ở phương Bắc, khi chinh phục được nhà Yên do một bộ tộc Tiên Ti dựng lên, đã cho xử chem. ba nghìn quan lại giữa chợ. Nàng cầu xin chư thế Phật bảo hộ những đứa con thơ dại của mình để chúng không phải chịu đựng số phận tồi tệ lần nữa.
Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Dược Sư và Phật A Di Đà, những người chủ của Hiện tại, Quá khứ và Tương lai vừa lắng nghe nàng vừa mỉm cười.
- Phu nhân! Phu nhân!
Tiếng la hốt hoảng của những người phụ nữ chen vào dòng suy nghĩ của nàng. Nàng nhận ra tiếng một nàng hầu:
- Bẩm phu nhân! Xảy ra chuyện lớn rồi! Xin phu nhân theo chúng con ngay. Chúng con vừa biết cậu nhà phải rời thành Kinh Châu theo thống soái ra mặt trận phương Bắc!
Bà Mẹ Trẻ ngước nhìn Tam Thế Phật. Trán nhăn nheo, đôi mắt khép hờ, khóe môi nhoẻn cười, họ chỉ cho nàng con đường nhập định.
Những nàng hầu đã vào trong phòng và quỳ gối.
- Xin phu nhân mau trở về. Chỉ có phu nhân mới phá được âm mưu đang vây quanh cậu nhà. Kiệu cho phu nhân đã sẵn sàng, đang chờ phu nhân ở cửa ạ!
Nàng thở dài rồi đứng dậy. Kinh Châu đã nhắc nàng về chức vị và nghĩa vụ. Sư Phát Quang tiễn nàng đến tận cửa chùa mà không đưa ra bất kỳ lời bình phẩm nào. Chắp tay lại, sư cúi đầu chào nàng. Bà Mẹ Trẻ cũng chào sư rồi đôi mắt nàng dừng lại nơi cái đầu đã cạo của vị nữ tu. Khi tóc của Bà Mẹ Trẻ được gội và chải thẳng, chúng quấn quýt vào nhau và ru nàng ngủ làm nàng có cảm giác trở lại thuở ấu thơ. Từ đâu sư Phát Quang có được sức mạnh để từ chối bộ phận này trên cơ thể, bộ phận đã làm nên tính nết hiền hòa của một người phụ nữ?
Trên đường xuống núi, Bà Mẹ Trẻ biết rằng Trường An, trái tim của Trung Nguyên, cố đô của các triều Hoa Hạ, vùng đất đầy mộ tổ tiên nàng, đã được chồng nàng giải phóng; những cư dân Trường An đã đón thống soái như người cứu độ Hoa Hạ và tôn chàng làm thủ lĩnh. Nhưng vì vội vàng về lại phương Nam, nơi chàng đánh hơi thấy một âm mưu chống lại mình, chồng nàng đã theo lời khuyên của những người hầu cận và quyết định đem Nghĩa Phù lên miền Bắc cai trị thay mình.
Ở cảng Kinh Châu, ánh sáng đã tắt và sương mù bao phủ. Những con thuyền bị che mất đỉnh buồm và phần cánh buồm. Chúng trở thành những đường cong đứt đoạn, những nét rời rạc.
Lúc nhỏ, nàng đã biết ở phía đông, dòng sông mở rộng ra rồi trở thành biển cả. Nơi đó, có hai hòn đảo trôi nổi theo sóng, cây cối luôn xanh tươi quanh năm và trổ ra những trái thơm ngát, những thác nước mù hơi đổ vào hồ nước nóng. Mặc đồ may bằng mây và bằng ánh sáng, những con người bất tử ở đó sống thỏa mãn, vô tư lự. Hoàng đế đầu tiên, Tần Thủy Hoàng, đã cho đóng một con thuyền khổng lồ sơn đỏ mạ vàng và đá quý. Năm trăm thanh niên và năm trăm cô gái đã được chọn để đi đến tận cùng thế giới tìm những hòn đảo này, nơi cất giữ bí mật về sự bất tử. Là ông hoảng của các vương quốc mà mình đã đánh sập thành, ông hoàng của các đoàn quân vượt qua mưa tuyết, nhưng Hoàng đế Tần Thủy Hoàng đã không được những người bất tử lựa chọn. Con thuyền đi mãi không về.
Trên bờ, đứng đầu đoàn người, Bà Mẹ Trẻ chờ đợi. Sau lưng nàng, Nghĩa Phù run lên vì lạnh và muốn về nhà. Nàng buộc nó phải đứng đó và mở mắt thật to để nhìn. Một bóng tối kéo đến. Cái miệng hung tợn của con ác thú ló ra khỏi sương mù, rồi để lộ ra thân hình quái vật, nơi những mái chèo có vô số chân di chuyển nhịp nhàng, đánh lên từng đợt sóng cuồn cuộn. Nàng quay lại để chắc chắn Nghĩa Phù đang chắp tay trên trán và cúi chào con thuyền của cha nó.
Một con thuyền nhỏ cập bờ. Trong tiếng ồn ào của binh khí, một toán lính tuôn ra từ đó rồi chia thành hai hàng. Ở cuối hàng, một người quân sư thân cận của chồng nàng bước lên. Thất vọng và bực tức, Bà Mẹ Trẻ vẫn cố giữ nguyên cốt cách. Đã lâu rồi nàng không được gặp lại chồng mình và họ chỉ trao đổi với nhau gián tiếp qua người đưa tin. Quân sư vội vã bước chân và quỳ gối trước Bà Mẹ Trẻ. Ông rút ra một cuộn giấy từ tay áo rồi dâng bằng hai tay qua đầu.
- Bẩm phu nhân, đại thống soái, tổng quân bình định phương Bắc, tể tướng đương triều đang chờ mong quý tử ở Trường An. Ngài đã gửi thần đến để hộ tống quý tử về phương Bắc.
Mắt Bà Mẹ Trẻ liếc qua cuộn giấy. Nàng nhăn mặt, nhấc cằm rồi trang trọng nói:
- Trong vai trò là người nối dõi họ Lưu, con trai ta Nghĩa Phù sẽ không đi về phương Bắc. Nó sẽ không rời khỏi thành Kinh Châu. Ngươi hãy trở về đi.
Gió thổi giọng nói mạnh mẽ của nàng. Hoàn toàn sững sờ, viên quân sư cúi đầu rồi lạy tạ, hai tay để dọc bên đùi.
- Bẩm phu nhân, đây là lệnh.
Bằng một động tác nhanh gọn, nàng xé bức thư viết lệnh của chồng có con triện của thống soái rồi ném nó xuống đất. Quan lại và binh lính la lên sợ hãi rồi đứng nghiêm lại. Nàng quay đi, nhẹ nhõm vì lần đầu nói không với chồng.
- Đến đây, chúng ta về! - Nàng nói với Nghĩa Phù đang đứng sững như tượng.
Nàng nắm tay nó, dẫn tới xe ngựa. Các quan thái giám đi theo, cùng với quân lính hộ vệ. Đoàn người rời khỏi bến thuyền, để mặc những người đưa tin từ phương Bắc.
Vài ngày sau, Nghĩa Chân, con trai thứ hai của chồng nàng, sinh sau Nghĩa Phù một tháng, vượt qua dòng Dương Tể để vào thành Trường An. Giống như Nghĩa Phù, nó mới mười một tuổi.
Thông qua những thái giám thân tín, Bà Mẹ Trẻ biết rằng trong nội cung ở Tử Cấm Thành, Hoàng đế cảm thấy bị đe dọa vì danh tiếng của thống soái nên đã từ chối vinh danh con gái nàng là Huệ Viên, còn hoàng hậu thì sỉ nhục nó công khai. Những bức thư của Huệ Viên rất hiếm hoi. Chúng được viết theo những công thức khách sáo, lễ nghĩa. Bà Mẹ Trẻ đọc những con chữ lạnh lẽo và lịch sự này với nỗi lòng tê tái của một người mẹ không bảo vệ được con mình. Nàng thức giấc giữa đêm, nghĩ rằng đã nghe tiếng Huệ Viên, chỉ để biết rằng nàng đã mất đứa con gái vĩnh viễn.
Năm 418
Mùa xuân lạnh lẽo đã đến. Qua tấm mành xe ngựa kéo, Bà Mẹ Trẻ chỉ thấy người già và phụ nữ trong sương mù. Những người đàn ông hiếm hoi mang áo và mũ giáp, bao tên và lưỡi kiếm. Ở bến thuyền, thuyền bè cập bờ để rồi lại lên đường, đưa người bị thương xuống rồi lại mang lính viện binh lên. Trước cái nồi lớn mà Bà Mẹ Trẻ cho đem đến, những người lính cụt tay cụt chân, mù lòa, rách rưới và rên xiết đứng xếp hàng để nhận từng chén canh nóng. Họ sẽ được phân tán vào những doanh trại để được chữa trị rồi lại gửi lên phương Bắc chiến đấu tiếp.
Chồng nàng giờ ở đâu? Bà Mẹ Trẻ không cần biết nữa. Nàng ngắm dòng Dương Tử và chỉ thấy một màn nâu của sương mờ và hơi nước nối liền trời và đất. Sáu tháng trước, chồng nàng bất ngờ trở về Kinh Châu. Vừa về đến, chàng đã gặp các tổng quân, những quan lại phòng quân, những chiến binh đánh thuê. Giọng họ lúc thì đều đều, lúc thì bị kích động vượt ra khỏi những cánh cửa màn kéo. Bà Mẹ Trẻ chờ đợi chàng vô vọng trong phòng. Lúc đêm thâu, khi nàng đến tìm chàng, tất cả nến đều đang cháy và nàng thấy chàng đang ngủ giữa phòng tiếp khách, áo giáp còn chưa cởi. Chàng đang ngồi trên ghế, để một tay lên bụng, chàng ngả đầu trên tay kia đang đặt trên chiếc ghế thấp kế bên mũ giáp. Trong ánh sáng của nến, nàng phát hiện ra tóc chàng đã bạc. Nàng lui ra mà không đánh thức chàng. Ngày hôm sau, khi nàng đến, mọi người nói chàng đã lên đường.
Nhiều đêm liền, lính tráng qua lại làm nàng lo ngại. Trong mơ, thân thể họ héo hon, những vết thương hằn sâu, còn phụ nữ và con trẻ mà họ bỏ lại thì đang khóc than. Bà Mẹ Trẻ ra lệnh cho nhà bếp lớn, nơi những đầu bếp tay chân lông lá có thể chặt cả một con heo bằng rìu, từ nay phải chuẩn bị các bữa ăn cho lính bị thương. Nàng cho đặt một nhà bếp nhỏ gần tòa nhà của mình và ra lệnh nấu theo những thực đơn đặc biệt cho Nghĩa Phù, để phát triển thể chất mà nàng cho là dễ bị tổn thương ở tuổi đang lớn. Những cô gái trẻ tay trắng nõn, móng tay gọn gàng nhào bột, làm bánh và viên thịt, nấu những chén xúp đựng trong bụng trái cả tím, trái mướp, trái bí. Họ trộn lá trà vớ gừng, trộn rễ tre với các phụ gai mua ở vùng phía tây, ướp cá trước khi bọc bằng lá chuối rồi hấp lên. Họ đặt những mẩu sừng hươu trong một cái tô chôn xuống đất trước khi lấy lên nấu. Ngồi gần Nghĩa Phù khi nó ăn, Bà Mẹ Trẻ nhìn theo từng cử động của cánh tay và răng hàm nó.
Được tôn làm tổng đốc của thành Trường An, Nghĩa Chân, con thứ hai của chồng nàng không biết trị vì. Quanh vị thủ lĩnh mới mười hai tuổi, các quan lại mưu hại lẫn nhau để cai trị thay nó. Sự tranh giành của họ cuối cùng không thoát khỏi tay những người láng giềng. Nước Hạ dấy quân man di chiếm Trường An. Hoảng sợ, Nghĩa Chân bỏ kinh thành chạy về phương Nam. Trên đường về, nó không biết cấm quân sĩ cướp bóc và bắt bớ phụ nữ. Chậm chạp vì túi nặng chiến lợi phẩm, quân đội của nó bị lính nước Hạ bắt giữ.
Nếu Nghĩa Chân chết ở phương Bắc, Bà Mẹ Trẻ nghĩ, thì con trai nàng là Nghĩa Phù sẽ củng cố sự thừa kế hợp pháp và không còn kẻ nào ngăn nó lên kế vị. Kinh hãi vì mình dám nghĩ tới điều thất đức, nàng quỳ sụp dưới chân Phật và cầu nguyện cho Nghĩa Chân. Vài ngày sau, nàng được tin trong số một trăm nghìn lính, chỉ huy Nghĩa Chân và vài trăm lính thân cận thoát được cuộc thảm sát của quân Hạ để trở về phương Nam.
Mất thành Trường An và sự trở về của Nghĩa Chân từ phương Bắc đã thúc đẩy nhiều sự việc trong triều. Rồi thình lình Bà Mẹ Trẻ được tin về cái chết đột ngột của Hoàng đế do chứng bệnh đường ruột. Trước đám đông thái giám, nàng giữ khuôn mặt thản nhiên và làm ra vẻ không biết họ đang nghĩ gì. Ai có thể không nghi ngờ chính chồng nàng đã hạ độc Hoàng đế? Một hoàng đế mới sẽ lên ngôi, Bà Mẹ Trẻ biết rằng hoàng đế đó đã được chọn vì là kẻ nhu nhược nhất trong các hoàng tử. Ở tuổi mười tám, Huệ Viên không bao giờ biết được niềm hạnh phúc của phụ nữ mà đã phải trở thành góa phụ trong triều. Nó sẽ phải làm góa phụ đến tận cuối đời và phải lựa chọn trở thành một nữ tu trong chùa hoặc ở lại trong cấm cung để chịu tang. Bà Mẹ Trẻ gấp rút viết thư cho chồng để xin chàng cứu con bé ra khỏi ngục tù. Nàng không nhận được câu trả lời.
Một đêm, nàng thức giấc vì có tiếng động trước phòng. Những chiếc lồng đèn lướt qua lướt lại dọc những bức rèm tranh và rọi sáng dáng người một viên quan mặc giáp quỳ lạy trước mặt nàng.
- Phu nhân, đại quan thống soái đã lệnh cho thần gấp rút đến Kinh Châu. Thần phải bí mật hộ tống quý tử về kinh đô Kiến Khang. Phu nhân, xin thức giấc và chuẩn bị. Chúng ta sẽ lên đường ngay lập tức.
Nàng thay đồ rồi leo lên xe ngựa phủ trướng xanh thêu những nhánh hải quỳ tía, trang hoàng những lá vàng và cắm cờ đỏ trắng của chồng nàng. Ngày mới vẫn chưa đến, nàng nghe tiếng vó ngựa băng qua đường phố trong thành. Giọng nói trầm trầm của con người, tiếng lao xao của binh khí, tiếng ngựa hí vang lên. Nàng nhận ra rằng cả một hệ thống bắt đầu vận hành để hộ tống nàng về kinh đô, nàng với tìm tay đứa con trai trong bóng tối. Thích được mẹ nắm tay, thằng bé ngả qua người nàng rồi gối đầu lên chân nàng.
- Ngủ đi con, - nàng vừa nói vừa vuốt mái tóc nó. - Đường còn xa lắm.
Mười tám năm trước, trong một chiếc xe la kéo, nàng ôm siết bụng bầu và chạy trong bóng tối, không biết người ta sẽ chở nàng đi đâu, không biết liệu khi kết thúc chuyến đi sẽ là cái chết hay sự sống. Ai đang chờ họ ở kinh đô? Lệnh về Kiến Khang có phải từ chính thống soái không? Hay chính những kẻ âm mưu đã đầu độc chồng nàng rồi giăng bẫy Nghĩa Phù, người kế vị? Số phận đang mang điều gì đến với họ? Ôm đầu thằng bé trong tay, nàng bắt đầu hát một khúc ca của Mẹ Lưu.
Hai ngày sau, nàng vào dinh thự thống soái bằng cổng chính. Tất cả các quan lại, tướng lĩnh, hầu cận, thư lại đứng dọc hai bên lối đi chính đều lạy chào nàng. Nàng lo lắng khi biết chàng đang chờ nàng trong nội cung. Băng qua bức tường cao ngăn cách thế giới đàn ông và thế giới đàn bà, nàng ngạc nhiên vì sự chào đón mà chàng đã chuẩn bị cho nàng. Các tỳ thiếp, phu nhân tổng đốc và nàng hầu xếp thành hai hàng, họ cũng cung kính chào khi nàng đi qua.
Chồng nàng đứng trên thềm nhà. Nàng lên bậc thang. Sau lưng nàng, Nghĩa Phù ngoan ngoãn theo sát gót. Đại quan thống soái không chờ được Bà Mẹ Trẻ và đứa con trai cúi chào, chàng nói ngay:
- Hoàng đế nhà Tấn đã quyết định nhường ngôi báu lại cho ta. Di chúc sẽ được tuyên bố ngày mai. Ta đã xem chiêm tinh. Triều đại mới mà ta lập ra là nhà Tống. Suốt những năm chiến tranh nàng đã theo ta và âm thầm ủng hộ ta. Nàng đã cho ta một người kế vị và nàng đã chấp nhận xa ta khi ta cần nàng canh giữ thành Kinh Châu. Tất cả những đau khổ mà nàng đã phải trải qua bây giờ sẽ được bù đắp. Nàng phải biết ơn những điều đó. Nàng sẽ là hoàng hậu của ta.
Nàng lùi lại một bước rồi nhìn quanh mình. Tất cả phụ nữ đã quỳ xuống, chỉ còn một mình nàng đứng. Từ hai mươi năm nay, thế gian đồn đại về tham vọng mà chồng nàng giấu kín trong khi nàng không hề tin vào những điều vu khống đó. Hôm nay, quyết định phá bỏ luật lệ, chàng đã buộc nàng phải phạm tội và gắn nàng với những thủ đoạn của mình.
Nàng xấu hổ và sợ hãi. Nàng khom lưng, liếc mắt nhìn Nghĩa Phù để lấy chút sức mạnh từ đó rồi đứng thẳng lại. Một giọng nói, như tiếng rít, thoát ra khỏi cổ họng nàng:
- Không, thưa quan lớn. Thần từ chối!
- Cái gì?
Giọng nổi giận của chồng nàng làm nàng run rẩy. Nàng cảm thấy một bóng tối dữ tợn đang trườn trên người mình. Nàng bất chợt nhật ra mình vừa kết tội chồng thừa kế bất hợp pháp và coi chồng là kẻ soán ngôi.
Nàng ngước lên, ánh mắt nàng dè dặt nhìn hết thảy đám đông.
- Nàng Tăng, dù đã qua đời, là người phụ nữ duy nhất xứng đáng được nhận tước hiệu cao quý tột cùng này. Vì chính nàng đã chia sẻ sự cùng quẫn và những nỗi khổ nhục thời trai trẻ của chàng mà không dám than một lời. Sớm bị gọi về nơi đất Phật thanh cao, nàng đã không thể cùng hưởng sự giàu sang quý hiển của chàng. Nhưng linh hồn nàng vẫn tiếp tục dõi theo chúng ta, tiếp tục cầu nguyện cho chàng. Thiếp không có quyền được hưởng đặc ân, xin chàng hãy vinh danh nàng Tăng quá cố là hoàng hậu.
Năm 420, triều Tống
Đi sau Hoàng đế, Bà Mẹ Trẻ mặc bộ đồ chín lớp vải thêu chín biểu tượng hoàng triều và vấn tóc búi cao cắm đầy đá quý. Từ trên cao bên cửa Ánh Sáng màu tím tía, nàng ngắm Tử Cấm Thành từ nay sẽ là nhà của mình. Mười nghìn nhạc sĩ cung đình ngồi bên hiên những cung điện gõ chuông đại và chơi những khúc nhạc lễ nghênh tiếp trong cung.
Hàng trăm đôi chân đứng thấp hơn, trước cổng Ánh Sáng, gồm các hoàng tử, công hầu, nhà ngoại giao, quan lại triều đình, tướng lĩnh mặc những bộ đồ màu sắc khác nhau, tùy theo chức vị, trật tự lớp lang mà lần lượt cúi lạy.
Tiếng leng keng trang trọng của chuông đồng lại vang lên.
- Hoàng đế vạn tuế… Hoàng đế vạn tuế…
Tiếng chúc tụng vang lên rồi dịu xuống.
Mặt đất rung động, bầu trời nghiêng ngả, mây như những bầu vú căng phồng hơi mưa liếm qua những mái bằng vàng của các cung điện. Bà Mẹ Trẻ ba mươi sáu tuổi. Trải qua nhiều năm trời trong bóng tối của dinh thự Kinh Châu nên da nàng vẫn trắng trẻo không tì vết. Nàng dùng làn da trắng trẻo này như một chiếc mặt nạ che giấu nỗi lòng mình. Được hứa gả cho con trai nhà họ Vương, bị tướng Lưu bắt đi, nàng đã chấp nhận làm thiếp, xem mình như vợ một nông dân trở thành nhà binh, rồi bây giờ nàng là phu nh?