Phần Thực Tập Căn Bản.
Tổ chức lại hình thức tu tập
Đưa nội dung vào hình thức
Một trong những điều căn bản ta phải tránh là đừng để sự thực tập rơi vào cái bẫy hình thức. Đừng làm như một cái máy vì thực tập hình thức không đem tới kết quả. Ngồi thiền cho có, ăn cơm im lặng cho có... Trong khi làm những chuyện đó ta không có hạnh phúc thì ta thấy rõ sự thất bại của ta và ta đã không đóng góp được gì cho tăng thân bởi vì sự đóng góp của ta chính là hạnh phúc. Nếu ta không biết dừng lại, không tiếp xúc với nhiệm mầu của sự sống, cứ để bị trôi lăn theo những điều kiện sống bên ngoài thì làm sao ta hạnh phúc được?
Không phải chỉ những người tu theo đạo Bụt mà những người tu theo đạo Công giáo có trình độ tỉnh thức và nhận thức được sự thật thì sẽ không bị kẹt vào hình thức. Có một vị linh mục người Mỹ tu rất hạnh phúc trong khóa tu ba tuần. Trong một buổi thiền trà, ông chia sẻ: "Tôi thích pháp tu này nhưng làm sao khi trở về Mỹ tôi có thể tiếp tục thực tập?" Tôi mới hỏi: "Bên đó, nhà thờ có chuông không? Tại sao không thực tập: Thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười mỗi khi nghe đổ chuông? Bên đó, quý vị có uống trà hay cà phê với nhau không? Tại sao không thực tập: Chén trà trong hai tay. Chánh niệm nâng tròn đầy. Thân và tâm an trú. Bây giờ và ở đây? Nhà thờ có tổ chức ăn cơm chung với nhau không? Tại sao không tổ chức ăn cơm có chánh niệm? Nghĩa là linh mục có thể làm y hệt như ở Làng Mai dưới hình thức của nhà thờ". Vị linh mục đó mừng quýnh vì những điều đơn giản như vậy mà không thấy. Trong các sinh hoạt hàng ngày của nhà thờ, ta chỉ cần đưa vào chất liệu chánh niệm thì tự nhiên các hình thức đó sẽ đưa lại sự sống. Vấn đề không phải là hình thức sinh hoạt bên ngoài, điều quan trọng là những sinh hoạt có chất liệu của sự sống đích thực hay không.
Trong các sinh hoạt ở chùa cũng vậy. Ví dụ như tiếng chuông chánh niệm. Từ mấy ngàn năm nay chùa đã có chuông và sự thực tập nghe chuông. Chuông không phải chỉ để dùng báo hiệu giờ ăn hay giờ ngồi thiền không đâu. Chuông là một pháp khí để giúp ta tu tập. Nếu thông minh, ta xem tiếng chuông như tiếng nhắc nhở, tiếng gọi của Bụt để ta trở về với sự thực tập. Có những bài kệ ta thực tập trong khi thỉnh chuông. Ta phải thực tập thì mới thật sự là vị tri chung đích thực. Không có chánh niệm thì ta làm như cái máy. Mà tu đâu phải là làm cái máy. Ấy vậy mà có những người thỉnh chuông như cái máy. Thỉnh chuông là thực tập chánh niệm. Và người nghe cũng phải thực tập chánh niệm. Vậy mà có nơi chuông thỉnh thì cứ thỉnh, tri chung không thực tập khi thỉnh chuông và người nghe cũng ‘phớt tỉnh Ăng Lê’, nghe chuông cũng giống như nghe tiếng máy bay hoặc tiếng còi xe lửa mà thôi. Như vậy thì ta đã đánh mất nội dung của sự thực tập nghe chuông và thỉnh chuông, mà ta chỉ giữ cái vỏ hình thức. Trong khi đi, ta cũng đi như bị ma đuổi. Đức Thế Tôn và giáo đoàn ôm bát đi rất vững chãi và thảnh thơi vào thành Vương Xá khất thực. Khi quần chúng thấy quý vị khất sĩ đi như vậy thì họ lạy xuống vì họ thấy được dáng đi toát ra chánh niệm. Người ta lạy không phải vì tướng tu sĩ mà người ta lạy vì Đức Thế Tôn và giáo đoàn khất sĩ đã tỏa ra chất liệu vững chãi, thảnh thơi, chánh niệm và sự sống. Bây giờ có những thầy đắp y vàng, ôm bình bát đi khất thực nhưng không có chánh niệm gì cả thì có phải ta chỉ giữ lại hình thức, còn phần nội dung đã bị đánh mất hay không? Vì vậy ta phải đưa nội dung trở lại, và phải làm cho hình thức có ý nghĩa.
Tạo nguồn sinh lực
Trong Gia Đình Phật Tử, chúng ta có nhiều hình thức. Ví dụ như huy hiệu hoa sen trắng. Quý vị có biết ai là người đã vẽ huy hiệu không? Người vẽ huy hiệu đã tham gia Gia Đình Phật Tử năm 1930 tên là Lê Lừng. Khi vẽ anh chỉ vẽ mà thôi chứ không có ý nghĩa gì. Sau này các thầy thấy huy hiệu đẹp nên đặt thêm ý nghĩa vào. Gia Đình Phật Tử đặt thêm những ý nghĩa ngũ căn, ngũ lực, tín tấn niệm định tuệ. Đó là ý nghĩa của sự tu học. Nếu muốn, ta cũng có thể nói đó là biểu tượng của Năm Giới vì Năm Giới là con đường thoát duy nhất của thế giới hiện tại. Ba cánh dưới ta có thể nói là Tam Quy, đó là nền tảng của sự sống. Nếu ta về nương tựa Phật, Pháp, Tăng thì cuộc đời ta mới có sự vững chãi và có ý nghĩa. Quý vị có thể nói ba cánh dưới là ba viên ngọc quý và năm cánh trên là sự thực hiện cụ thể của Tam Bảo: đó là Năm giới quý báu. Không chỉ quý vị cư sĩ mới thực tập Năm giới mà các thầy, các sư cô đều phải thực tập.
Hình thức hiện thời của Gia Đình Phật Tử ta đã có nhiều rồi, ta có thể đưa vào những thay đổi nho nhỏ thôi. Thay đổi những hình thức để đưa vào chất liệu của nội dung. Ví dụ như tiếng còi: tiếng còi vẫn còn là tiếng còi nhưng khi nghe còi ta thực tập trở về với hơi thở thì như vậy có phải là ta đã đưa nội dung tốt vào không? Khi ta thổi còi, mọi người đi thiền hành về chỗ hẹn. Và nếu thổi nhanh là chạy thì chúng ta vẫn có thể chạy trong chánh niệm. Tại Làng Mai, các thầy và các sư cô đi thiền hành buổi sáng mùa đông đều có chạy hết. Đó là chạy bộ trong chánh niệm hay thiền chạy, tiếng Anh gọi là "jogging meditation". Đây chỉ là gợi ý, quý vị có thể quán chiếu, thay đổi thêm nhiều theo ý quý vị. Nếu cần họp đại hội để quyết định thì họp. Quý vị có thấy điều quan trọng là trong các khóa tu như vầy, ta không tốn thì giờ vào mặt hình thức mà ta phải cung cấp càng nhiều chất liệu càng tốt để các hình thức kia trở thành hiện thực, có sự sống và có ý nghĩa.
Trong khi làm các dấu hiệu này, ta không chỉ làm với hình thức. Ta có Bụt, Pháp và Tăng ngự trị trong thân tâm ta. Nếu ta không nương nhờ Tam Bảo thì làm sao có sự an ổn được.
Con nhất tâm nguyện sống đời lành
Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo
Quay về nương tựa Bụt, quay về nương tựa Pháp, quay về nương tựa Tăng thì ta sẽ có ba cái đó.
Chánh niệm là Bụt, soi sáng xa gần
Hơi thở là Pháp, bảo hộ thân tâm
Năm uẩn là Tăng, phối hợp tinh cần
Đó là sự thực tập. Ta có thay đổi gì đâu. Ta chỉ đưa thêm chất liệu đi vào trong đó thôi. Ví dụ khi chào thì ta bắt ấn cát tường. Cát tường biểu tượng cho sự an lành, hạnh phúc nhưng trong khi đó tâm ta làm gì? Tâm ta cũng phải có sự an lành, hạnh phúc và an ổn. Nụ cười và hơi thở chánh niệm cũng phải đi đôi với ấn cát tường đó. Chúng ta không cho chuyện hình thức thay đổi là quan trọng mà chúng ta phải nuôi dưỡng các hình thức đó. Thành ra bây giờ, đi cũng có chánh niệm, đứng cũng có chánh niệm, ăn cũng có chánh niệm, thổi còi và hát cũng trong chánh niệm.
Vấn đề là luyện tập
Ban đầu thì hạt giống chánh niệm của ta còn nhỏ nhưng nếu thực tập trong hai ngày, năm ngày, mười ngày thì năng lượng chánh niệm của ta lớn lên từ từ và mỗi khi cần năng lượng đó thì ta chỉ cần thở vào một hơi hoặc bước một bước chân là tự nhiên ta đụng tới nó và nó tỏa ra một vùng năng lượng lớn, ôm lấy nỗi khổ niềm đau của ta để chuyển hóa. Đây là vấn đề luyện tập chứ không phải vấn đề học hỏi. Trong khóa tu, nhất là khóa tu 7 ngày hay 21 ngày, chúng ta có nhiều thời giờ hơn để mọi người cùng thực tập với nhau. Khi một bà mẹ nghe con khóc thì dù đang ở trong bếp, bà cũng sẽ bỏ những thứ đang làm xuống và đi vào phòng con. Bà sẽ ẵm con lên và ôm cháu vào trong hai tay của mình. Tuy là bà chưa biết vì sao con khóc nhưng sự kiện ôm lấy em bé đã là một hành động rất hay rồi. Em bé đang đau khổ như vậy nhưng được ôm vào vòng tay của mẹ là đã cảm thấy dịu đi, cảm thấy bớt khổ liền. Trán em nóng như vậy nhưng bàn tay mẹ mới đặt lên một chút là đã thấy mát rượi, đã thấy đỡ khổ dù em chưa được uống thuốc. Chánh niệm cũng vậy. Mỗi khi ta đưa chánh niệm lên ôm lấy nỗi khổ niềm đau của ta thì tự nhiên ta thấy bớt khổ liền lập tức. Cho nên ta phải tu tập để có năng lượng chánh niệm ấy. Bà mẹ ôm đứa con chừng ba, bốn phút thì sẽ tìm ra được lý do tại sao con mình khóc. Con mình có thể đang đói, đang sốt hoặc tã đang dơ. Khi bà mẹ tìm ra lý do rồi thì có thể chuyển đổi tình trạng một cách nhanh chóng. Nếu con đói thì cho bình sữa, nếu con sốt thì cho uống thuốc, nếu tã dơ thì thay tã mới. Ta cũng vậy, ta có một nỗi giận, một nỗi buồn thì trước hết ta phải ôm lấy nỗi giận, nỗi buồn đó. Để nỗi giận, nỗi buồn ở một mình trong tâm thì sẽ rất nguy hiểm. Nếu để chúng ở một mình thì chúng sẽ xui khiến ta nói ra những điều, làm ra những điều có thể gây đổ vỡ. Đừng bao giờ để năng lượng giận hờn ở một mình. Khi năng lượng đó mới phát hiện thì phải mời năng lượng thứ hai lên lập tức. Năng lượng thứ hai là năng lượng chánh niệm. Chúng ta tới chùa, tới tu viện là để học phương pháp chế tác năng lượng chánh niệm. Quý thầy, quý sư cô không phải chỉ nói về chánh niệm mà họ đang thực tập, đang thật sự chế tác chánh niệm trong đời sống hàng ngày. Nhìn thấy họ, ta thấy có sự thảnh thơi, nhẹ nhàng, tươi vui. Có những thầy không được ở trong tu viện hay bận lo việc chùa, việc tang lễ, việc cúng kiếng, lo việc chạy tiền để trả tiền điện, tiền điện thoại nên không có thời giờ để tu tập với huynh đệ và năng lượng chánh niệm từ từ giảm đi. Người tu phải ở với chúng, phải ở tu viện chứ còn ở một mình thì rất khó tu. Chỉ cần ra ngoài ở chùa riêng chừng sáu tháng là năng lượng chánh niệm của thầy ấy, của sư cô ấy sẽ xuống rất thấp. Nhìn thầy ấy, nhìn sư cô ấy ta biết là họ cần phải trở về tu viện lập tức. Ta cũng vậy, nếu ta là cư sĩ thường xuyên lên chùa, thường tham dự các khóa tu tập thì mức chánh niệm của ta sẽ lên cao. Nếu ta phiêu lưu trong cuộc đời, sống chung với những tà hữu thì chỉ cần trong một tuần lễ là mức chánh niệm của ta sẽ xuống thấp và ta sẽ đánh mất mình. Những khổ đau, những dằn vặt, những giận hờn sẽ kéo ta đi. Vì vậy ta cần gần gũi các vị xuất gia, cần phải dự pháp đàm, học hỏi, cần phải lên tu viện thường xuyên để có cơ hội chế tác chánh niệm.
Có mặt đích thực
Ta hãy thực tập một bài tập rất đơn giản. Ta hãy ngồi cho đẹp, ngồi như thế nào mà thân và tâm ta hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại. Ngồi bán già cũng được, kiết già cũng được, kiểu nào cũng được, miễn là ta ngồi cho thật thoải mái để có cảm giác là ta đang có hạnh phúc. Không hẳn ta phải bắt chước người khác. Rồi trong khi thở vào thì ta đem thân và tâm ta hợp nhất lại. Thở vào, tôi biết rằng tôi đang có mặt đích thực tại đây, trong giờ phút này. Trong khi thở ra thì chúng ta mỉm cười. Ta mỉm cười để chứng tỏ rằng ta đang thật sự sống hạnh phúc với giây phút hiện tại. Giây phút hiện tại này có thầy, có bạn, có anh, có chị, có em ở trong đoàn ngồi xung quanh ta. ‘Thở vào, tôi đang có mặt đích thực. Thở ra, tôi mỉm cười với hạnh phúc’. Có mặt đích thực có nghĩa là thân tâm nhất như, hoàn toàn có mặt ở đây, không lo lắng về quá khứ hay tương lai. Đó là thực tập của chúng ta trong hơi thở vào. Và khi thở ra thì ta nói: ‘Tôi đang mỉm cười với cái hạnh phúc được ngồi đây với thầy, với anh, với chị và với em.’ Chúng ta thở như vậy trong một phút thôi, không nhiều lắm đâu.
Chăm sóc thân thứ hai
Mấy ngày nay chắc quý vị đã có dịp quán sát các thầy và các sư cô ở đây về cách họ đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc chung với nhau, chắc quý vị có cảm tưởng rằng họ sống với nhau như một gia đình. Mà kỳ thực họ thương nhau lắm, có thể thương nhau hơn những người cùng cha mẹ. Đi xuất gia cũng như gia nhập vào một gia đình, gia đình của những người xuất gia, và sống đời sống đoàn thể, sống như một Tăng thân, chứ không phải chỉ sống đời sống cá nhân của mình mà thôi. Người này chịu trách nhiệm về hạnh phúc của người kia và mỗi người đều có một thân thứ hai để chăm sóc. Thân thứ hai là một thực tập rất hay và thiết thực của Làng Mai, tiếng Anh gọi là "The second body system", tiếng Việt là "pháp môn Đệ Nhị Thân". Tất cả mọi người trong Tăng thân của ta đều là thân thể của ta nên ta gọi đoàn thể ta là Tăng thân và ta có nhiệm vụ làm cho thân đó của ta có hạnh phúc. Ta có một thân thứ hai để chăm sóc, và thân thứ hai của ta cũng có một thân thứ hai khác để chăm sóc, nên ta chỉ cần chăm sóc thân thứ hai của mình thôi thì tất cả các thân khác ở trong đoàn thể đều được chăm sóc. Do đó bất cứ một khổ đau nào xảy ra cho một người ở trong Tăng thân là xảy ra cho tất cả đoàn thể, vì vậy cho nên có một sự liên đới, tương trợ và chăm sóc lẫn nhau như là mười ngón tay của hai bàn tay.
Ngồi lại để cống hiến những biện pháp cụ thể
Pháp đàm là một trong những thực tập khác của chúng ta. Đó là thiền quán, là nhìn sâu. Nhìn sâu để thấy, và cái thấy đó là sự giác ngộ. Chúng ta ngồi với nhau hơn một giờ đồng hồ, chúng ta đã dùng niệm, dùng định để quán chiếu và chúng ta đã thấy được một ít sự thực. Sự quán chiếu ấy phải được tiếp tục trong những buổi pháp đàm. Quý vị phải phát kiến ra được những biện pháp cụ thể để có thể cống hiến được đường hướng cũng như những phương thức chấn chỉnh, tổ chức lại, cấu trúc lại đoàn thể để Gia Đình Phật Tử có thể đóng được vai trò mà Đức Thế Tôn cũng như lịch sử đã giao phó cho quý vị.
Đầu tư tất cả vào trong sự thực tập
Trong những khóa tu tổ chức cho người Pháp, người Đức hay là người Mỹ, các thiền sinh thực tập rất nghiêm chỉnh, nghiêm chỉnh hơn trong các khóa tu của người Việt nhiều lắm. Trong vòng năm hay sáu ngày họ đã có sự chuyển hóa tại vì họ đầu tư tất cả vào trong sự thực tập. Để có thể đi dự khóa tu, họ đã phải sắp đặt rất lâu ngày mới có được cơ hội có những ngày nghỉ và họ phải đóng tiền, vì vậy họ không muốn bỏ phí thì giờ trong khóa tu. Họ thực tập sự im lặng rất nghiêm mật và trân trọng từng bước chân, từng hơi thở nên họ có sự chuyển hóa rất mau. Có những người đã tìm ra được hướng đi của đời mình.
Xuất gia để có hạnh phúc
Từ mười năm nay ở tại Làng Mai đã có 67 vị xuất gia. Ngoài các vị xuất gia tại Làng Mai còn có các vị xuất gia từ các nơi khác tới tu học. Trong số đó có những vị quốc tịch Việt Nam nhưng cũng có nhiều vị có gốc ngoại quốc, có vị người Pháp, có vị người Đức, có vị người Hà Lan, có vị người Úc, có vị người Hoa Kỳ, nhưng đa số vẫn là các thầy và các sư cô gốc Việt. Có nhiều vị đã tốt nghiệp đại học, có nhiều vị đã có bằng tiến sĩ, có nhiều vị mới học trung học thôi và đặc biệt có hai vị chưa bao giờ từng được đi học hết kể cả tiểu học từ Việt Nam. Tuy nhiên các vị đó học rất giỏi và tu rất thành công. Vị xuất gia trẻ nhất tại Làng Mai bây giờ được 15 tuổi, đó là sư cô Kính Nghiêm, người gốc Việt, sinh ở miền Nam tiểu bang California, xuất thân từ Gia Đình Phật Tử. Kính Nghiêm là sư em út nên được các sư anh và sư chị rất cưng. Hỏi tại sao con đi xuất gia? Kính Nghiêm nói rằng: "Con thấy những người trẻ xung quanh con ở tại miền Nam Cali khổ quá. Trong gia đình đã khổ rồi mà ngoài học đường cũng khổ nữa. Con có một cô bạn mới có 14 tuổi mà đã có thai, con thấy khổ lắm. Mỗi khi con thấy các thầy, các sư cô từ bên Pháp sang mở khóa tu, con nhìn các thầy các sư cô sao mà hạnh phúc quá, nhẹ nhàng quá, tươi vui quá, thành ra con muốn được đi xuất gia để có hạnh phúc như vậy và để có thể giúp được những người đang khổ xung quanh con.”
Cùng đi xuất gia với sư cô Kính Nghiêm có một sư chú cũng từ miền Nam Cali. Đó là sư chú Pháp Nguyên, có gốc Việt và Mỹ. Tên của chàng là Wayne, cho nên được đặt là Pháp Nguyên nghe cho hơi giống cái tên "Wayne". Pháp Nguyên nói tiếng Anh rất giỏi nhưng tiếng Việt còn hơi kém. Trong một buổi thiền trà để phát biểu tại sao muốn đi xuất gia, (hồi đó Wayne chưa được xuất gia, muốn xuất gia phải tới Làng thực tập ba tháng hoặc bốn tháng, để các thầy, các sư cô xem thấy có được hay không thì mới được xét.) Wayne nói rằng em nhận thấy cha, mẹ, con cái sống xung quanh môi trường của em rất đau khổ, mình đau khổ rồi mình làm khổ cả người mình thương. Mỗi khi Sư Ông qua tổ chức một khóa tu thì thấy người ta vui lên, đỡ khổ nhiều lắm. Rồi chừng ba, bốn tháng sau lại bắt đầu khổ như cũ mà phải đợi tới hai năm sau Sư Ông mới qua Mỹ lại thành ra sự tu tập không thấm thía gì hết. Vì vậy cho nên Wayne muốn phát nguyện xuất gia. Wayne còn nói thêm rằng: ‘Nếu con xuất gia mà giúp được dù chỉ một người bớt khổ thì cũng đáng công con đi xuất gia rồi’. Và bây giờ Wayne đã được xuất gia với pháp danh Chân Pháp Nguyên, đang tu học ở Xóm Thượng với các thầy và các sư chú. Tiếng Việt của sư chú cũng đã có nhiều tiến bộ.
Ở Xóm Thượng cũng có mấy người xuất gia trẻ khác như sư chú Chân Pháp Châu mới có 19 tuổi, gốc Nam Phi. Pháp Châu có một người bạn cũng là người Nam Phi rất dễ thương, vừa mới qua Làng Mai chừng một tháng mà cũng đã có ý định muốn đi xuất gia với bạn mình rồi. Có thể tuy là mình đang còn trẻ nhưng mình cũng đã có những khổ đau. Trong số những người xuất gia có những người trẻ chưa từng bị khổ đau, đã tới từ những gia đình rất lành lặn và là con nhà lành, nhưng cũng có các vị tới từ những gia đình bị tan vỡ hoặc đã từng khổ đau. Và thường thường sau một năm, hai năm hay ba năm tu tập thì người nào cũng được chuyển hóa. Sự tu tập theo pháp môn của Làng Mai rất nhẹ nhàng và dễ chịu. Ta học phương pháp chánh niệm trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, uống trà, nấu ăn, rửa bát, quét sân, lau phòng và tổ chức khóa tu một cách thảnh thơi trong chánh niệm. Mỗi động tác của ta, mỗi hơi thở, mỗi bước chân của ta đều đặt trong tinh thần chánh niệm. Vì vậy cho nên những tập khí, những thói quen như hấp tấp, vụt chạc, nóng nảy v.v... từ từ được chuyển hóa. Sự thực tập này không phải chỉ được xảy ra trong khóa tu. Sống trong Đạo Tràng Mai Thôn ta phải thực tập 24 giờ một ngày. Nghĩa là khi nào đi cũng phải đi trong chánh niệm, đi vào nhà bếp cũng phải đi có chánh niệm, đi về phòng ngủ cũng đi có chánh niệm và leo cầu thang cũng với từng bước chân chánh niệm giống như mình đi thiền hành vậy. Có vậy ta mới chuyển hóa được cái tập khí vụt chạc, hấp tấp, nóng nảy, hận thù của ta, và từ đó niềm vui mới có thể nở ra như bông hoa trong trái tim ta được.
Chúng ta phải thổi sự sống vào trong đoàn thể của chúng ta, tạo nguồn sinh lực mới vào trong đoàn thể của chúng ta. Chúng ta thực hiện được cái gì thì tất cả các đơn vị Gia Đình Phật Tử trong và ngoài nước đều được thừa hưởng. Cũng như chích thuốc vậy, chích vào tay hay vào bắp đùi thì thuốc đều thấm vào toàn bộ cơ thể ta. Trong nước, những người trẻ rất thao thức được tổ chức Gia Đình Phật Tử trở lại. Hiện giờ những người trẻ trong nước đang tổ chức lại các đơn vị Gia Đình Phật Tử khắp nơi. Chúng ta phải yểm trợ cho các anh chị em ở trong nước bằng sự tu học của chúng ta. Điều gì chúng ta có thể làm được ngoài này thì chúng ta làm để yểm trợ cho các anh chị em bên nhà. Công việc chúng ta có thể làm là tổ chức lại cho thật đàng hoàng, tạo ra hạnh phúc và hòa điệu trong những đơn vị Gia Đình Phật Tử của chúng ta. Chúng ta cũng có thể phiên tả, in ấn những tài liệu bên này và gởi về nhà để chia sẻ với họ. Vì vậy khóa tu này không chỉ phụng sự cho Gia Đình Phật Tử tại Hoa Kỳ mà còn là để phụng sự cho Gia Đình Phật Tử khắp nơi, trong cũng như ngoài nước.
Vậy thì chúng ta có cơ duyên thực tập được với nhau ba ngày này, chúng ta có nhiều pháp môn để thực tập, chúng ta có nhiều ước muốn và hoài bão muốn được thực hiện, chúng ta sẽ tu tập như thế nào để có được chuyển hóa, có được hạnh phúc và tuệ giác để đem về trao truyền lại và xây dựng cho Gia Đình của chúng ta!
Điều phục tâm hành
Chăm sóc cơn giận
Giận một người ngoài thì đó là chuyện có thể xảy ra, nhưng giận một người trong nhà, một người thương mà nếu không biết phương pháp để đối phó thì ta chưa phải là một người Phật tử chân chánh, một người con của Đức Thế Tôn. Có khi ta giận cha, có khi ta giận mẹ, có khi ta giận anh, hay chị, hay em. Có khi ta giận người bạn hôn phối của ta, có khi ta giận con của ta, con trai hay con gái. Khi những giận hờn đó phát xuất thì ta phải đối trị như thế nào trong gia đình huyết thống của ta? Và ngay trong tổ chức Gia Đình Phật Tử của ta, nếu các Huynh Trưởng giận nhau, nếu các Huynh Trưởng giận các em, nếu các em giận nhau, nếu các em giận ta, thì là Huynh Trưởng ta phải thực tập như thế nào? Phải có cách thực tập rõ ràng, phải có được sự chỉ dẫn trong từng bước. Và nếu áp dụng đúng phương pháp thì chỉ nội trong một tháng ta sẽ thấy tình hình sáng sủa hơn rất nhiều. Không tu thì thôi, mà hễ tu thì có kết quả. Không gieo hạt thì thôi, mà đã gieo hạt thì thế nào cũng lên cây. Chắc chắn như vậy. Lần sau hễ người kia nói một điều gì đó hay làm một điều gì đó làm cho ta giận thì ta phải lập tức trở về nắm lấy hơi thở. Hơi thở này là hơi thở chánh niệm, tiếng Anh gọi là mindful breathing. Tức là thở vào, ta phải biết đây là hơi thở vào. Phải thở cho thật là trọn vẹn. Ví dụ cây viết này là chiều dài của hơi thở vào. Đầu viết là điểm đầu của hơi thở vào và đuôi viết là điểm cuối của hơi thở vào. Khi thở vào ta thở một cách thong thả và nói rằng thở vào ta biết là ta đang thở vào. ‘Thở vào biết thở vào’ là một câu Bụt dạy trong kinh An Ban Thủ Ý. Nói vắn tắt là "Vào này". Ta biết đó là hơi thở vào và chỉ có một ý niệm đây là hơi thở vào mà thôi, ngoài ra không có một ý niệm nào khác. Lúc đó ta chỉ nghĩ về hơi thở vào mà thôi, không nghĩ tới chuyện gì khác hết. Người kia đang ngồi đó hay người kia mặt đang đỏ gay ta không cần biết, ta chỉ để ý đây là hơi thở vào này, đây là hơi thở ra này. Thở vào biết thở vào, thở ra biết thở ra. Bám sát lấy hơi thở, đừng buông hơi thở và hơi thở vào có thể dài 5 giây, 6 giây hay 15 giây, thì trong 5 giây, 6 giây hay 15 giây đó ta hoàn toàn chú tâm vào hơi thở vào. Đây là hơi thở vào và thấy không khí đang đi vào hai buồng phổi của ta, không có suy nghĩ gì khác. Theo hơi thở gọi là tùy tức. Thở vào xong rồi thì đến thở ra. Thở ra biết thở ra. Thở vào thở ra như vậy ba lần. Trong lúc đứng ta biết ta đang thở. Trong lúc ngồi ta biết ta đang thở. Ở tư thế nào của thân thể ta cũng thở được hết. Cho đến nằm cũng thở được. Nhưng mà phải thở với tất cả một trăm phần trăm của tâm ta, phải bám lấy hơi thở. Lúc đó ta mới tiếp tục theo dõi hơi thở và nói thầm: "Thở vào tôi biết tôi đang giận, thở ra tôi đang chăm sóc cơn giận của tôi." Cái giận của ta là một vùng năng lượng có tính chất nóng. Mà cái gì nóng là địa ngục. Nên người kia nói một câu hay làm một cái gì là chạm vào hạt giống giận của ta là hạt giống giận tóe lửa. Có một năng lượng trong người ta lúc đó là năng lượng của cơn giận. Lúc đó ta nên lập tức trở về với hơi thở và ta làm phát sinh ra một nguồn năng lượng thứ hai là năng lượng chánh niệm. Có nhiều cách làm phát khởi nguồn năng lượng thứ hai trong đó cách thở vào thở ra là một cách rất mầu nhiệm. Còn phép thực tập nữa là phép đi, đi thiền hay thiền hành cũng rất hay. Mỗi bước giúp ta chạm được hạt giống chánh niệm trong ta, làm hạt giống chánh niệm nảy bừng ra năng lượng chánh niệm, và chính năng lượng đó sẽ ôm lấy năng lượng của sự giận như một người mẹ đang ôm lấy đứa con đang khổ đau. Người mẹ không cần đánh lộn với đứa con. Năng lượng chánh niệm đi lên ôm ấp, vỗ về cái giận. Không có sự chống báng giữa hai cái vì cái giận cũng là ta mà năng lượng chánh niệm cũng là ta. Năng lượng chánh niệm ai cũng có.
Khi cơn giận phát hiện thì ta lập tức trở về hơi thở hay bước chân và nhất định không nói gì hết, không làm gì hết vì nói hay làm trong lúc mất chánh niệm thì sẽ gây đổ vỡ và ta sẽ hối hận. Thành ra ta nên ký với ta, với Bụt một hiệp ước là: "Bạch Đức Thế Tôn, con hứa với Ngài rằng lần tới khi con giận, con sẽ không nói gì hết, con sẽ không làm gì hết. Con sẽ trở về với hơi thở để con chế tác năng lượng chánh niệm, để ôm ấp nỗi khổ niềm đau của con." Viết xuống đàng hoàng. Đánh lừa ai thì được chứ đánh lừa Đức Thế Tôn, đánh lừa ta thì hơi khó. Giả bộ tu hình thức với ai thì được chứ giả bộ với Đức Thế Tôn, giả bộ tu với ta chắc khó. Thành ra ta không cần một người nào chứng minh hết. Ta viết xuống lời nguyện và có Đức Thế Tôn chứng giám. Hai thầy trò là đủ rồi. Cũng không cần thắp nhang nữa. Quan trọng nhất là tâm ta có đó và có sự kính thành. Đã hứa thì phải làm. Giận là không được nói, không được làm vì trong quá khứ, khi ta giận mà nói và làm đã gây đổ vỡ trong tự thân và trong người kia. Giữa hai người với nhau, giữa cha và con, giữa mẹ và con, giữa ta và người hôn phối đã có sự đổ vỡ thì bây giờ nhất định không làm nữa. Mà phải cương quyết lắm mới được vì đã có một lề thói quen rồi, nếu không phát tâm dũng mãnh thì không thể nào làm khác được.
Luộc khoai cho chín
Trong khi ta dùng năng lượng chánh niệm cái giận thì ta tiếp tục thực tập hơi thở và bước chân có ý thức. Cũng như khi luộc khoai, trước hết ta rửa khoai bỏ vào nồi, đổ nước vào, đậy nắp lại và đốt lửa. Ta biết rằng nếu tắt lửa sau 5 phút thì khoai làm sao chín được. Vì vậy ta phải để lửa cháy ít nhất là 20 phút, 25 phút thì khoai mới chín. Cũng vậy, cơn giận của ta là một củ khoai sống và nếu ta chỉ có chánh niệm độ vài phút thì chắc củ khoai đó không chín. Cho nên phải liên tục thở trong chánh niệm, đi trong chánh niệm, đôi khi phải cần 15 phút, nửa giờ hay một giờ thì lúc đó cơn giận mới đi xuống. Rồi ta bắt đầu nhìn thấy cái giận này có vì sự u mê ở phía trong. Cái u mê thứ nhất là ta tưởng rằng người kia là nguyên do chính của sự đau khổ của ta, ai dè nguyên do chính của sự đau khổ trong ta là cục giận của ta hơi lớn. Một người khác nghe câu đó thì không nổi giận mau như ta, nhưng ta nổi giận vì cục giận, cục lửa trong ta lớn quá. Đụng tới một cái là nổ liền. Còn người kia, trong lòng họ cũng có những nỗi bực niềm đau mà vì họ không biết tu nên họ hành xử như vậy, cũng tội nghiệp thôi. Bây giờ ta phạt họ thì khổ thân họ. Nếu ta giỏi, ta tu được, ta độ cho ta, ta tới độ cho người đó thì mới hay chứ bây giờ ta phạt người đó thì có ích gì cho người đó đâu. Thành ra trong khi thở như vậy ta cũng thấy được những điều rất sâu. Điều thứ nhất là nguyên do đầu tiên của sự đau khổ của ta là chính cái thói quen hay giận hờn của ta, cái cục giận trong ta quá lớn. Điều thứ hai ta thấy là người kia cũng có nhiều nỗi khổ niềm đau và sự bất an trong lòng. Và vì họ không biết tu, chưa học phương pháp tu nên làm vung vãi ra người xung quanh những nỗi khổ niềm đau của họ. Đôi khi người đó cũng đâu muốn làm người chung quanh khổ nhưng vì không biết tu nên mới nói ra điều gì, làm chuyện gì cũng khiến người chung quanh khổ hết, rất là tội nghiệp.
Ta phạt người đó thì tội nghiệp cho họ. Chỉ có giúp người đó mới có nghĩa thôi. Thường thường khi ta đau khổ, ta giận thì ta cứ tin một cách rất dại khờ rằng nếu người kia làm cho ta đau khổ thì bây giờ ta làm lại cho người kia đau khổ để trừng phạt cho đã tức thì ta sẽ bớt khổ. Vì vậy ta tìm một lời nói cho nặng để người kia đau điếng thì ta mới bớt khổ. Đó là một khuynh hướng bạo động trong lòng ta. Ta nói xong thấy người kia khổ quá chừng. Rồi người kia cũng muốn bớt khổ nên tìm một câu nói nặng trở lại. Tới phiên ta khổ thêm và lại tìm cách chống lại. Thế là hai bên leo thang làm khổ nhau. Chuyện này xảy ra thường lắm. Giữa cha mẹ với nhau, giữa bạn hữu với nhau, và giữa cha với con, giữa mẹ với con. Ta rất vô minh, rất dại dột. Ta đập vỡ hạnh phúc giữa ta và gia đình ta bằng những lối hành xử rất ngây thơ như vậy. Nên Đức Thế Tôn dạy rất rõ là khi giận thì không nói gì hết, không làm gì hết mà chỉ nên tìm cách thoát ra khỏi cái hoàn cảnh đó. Ta có thể đi ra ngoài, không khí ở ngoài rất trong rất mát và ta có thể đi thiền hành. Trong khi đi thiền hành như vậy ta thực tập thở trong chánh niệm để ôm ấp nỗi khổ niềm đau, rồi từ từ ta mới chuyển hóa được năng lượng nóng bức trong người. Có thể sau 20 phút đi thiền hành ta thấy khỏe nhẹ. Nếu ta làm đúng được theo lời chỉ dẫn của Bụt, của thầy thì lúc đó ta mới thấy tội nghiệp người kia. Bây giờ ta khỏe ta nhẹ còn người kia vẫn đang ở trong địa ngục, cái mặt còn hầm hầm và không biết cách thoát. Địa ngục đâu phải tìm xa đâu, địa ngục thẳng từ trong tâm đi ra. Lúc đó ta thấy tội nghiệp người đó, ta nghĩ thôi để ta về giúp người đó. Ta giúp người đó bằng cách về gặp họ và nói dịu dàng. Tại ta khỏe rồi mà, nên ta giúp người đó tu. Khi mà trong lòng ta thấy tội nghiệp và muốn giúp thì ta biết ta đã chuyển hóa rồi đó. Cái giận chuyển hóa thành cái thương. Cả cái giận và thương, cả hai cái đều có tính cách hữu cơ (organic). Ta biết rằng bông hoa kia là một thực tại hữu cơ, tuy bây giờ nó tươi, đẹp, thơm như vậy đó nhưng 10 ngày sau nó thành ra rác. Còn rác xấu, hôi nhưng nếu ta biết cách làm nó trở thành phân bón, thành ra xà lách, cà chua, dưa hấu, thành ra hoa trở lại. Vì vậy rác với hoa đều là những thực tại hữu cơ. Cái giận và niềm thương cũng vậy, cũng là hữu cơ. Tình thương mà không biết cách giữ gìn thì trở thành cái giận hờn, thù ghét, mà nếu biết cách thì cái giận đó chuyển hóa lại thành tình thương được. Vì vậy nếu ta có giận, có buồn, hay thù ghét thì đừng có sợ. Học pháp của Đức Thế Tôn đi rồi ta có thể chuyển chất hữu cơ này thành chất hữu cơ kia. Hay vậy đó. Đó là chuyển hóa và trị liệu.
Ba câu thần chú
Biết phương pháp thực tập rồi thì mỗi khi giận ta phải làm theo phương pháp này là khi giận thì phải trở về với hơi thở, chế tác chánh niệm, ôm ấp lấy sự giận đó, và sau đó phải nói cho người kia biết là ta giận, ta đang đau khổ, và ta muốn cho người kia biết. Tại vì nói ra được thì nhẹ, nhưng phải nói bằng lời nói rất ái ngữ. Theo pháp môn này thì ta không được giữ cái giận riêng cho ta quá 24 tiếng đồng hồ vì nó có thể làm ung thối tâm ta. Cho nên phải nói ra và câu nói như thế này:
Câu thứ nhất: "Em đang giận, em đang khổ, và em muốn anh biết chuyện đó" hoặc là "anh đang giận, anh đang khổ và anh muốn em biết chuyện đó" hoặc là "ba đang giận, ba đang khổ, và ba muốn con biết chuyện đó."
Đó là câu nói của ta nhưng ta phải nói bằng giọng rất bình tĩnh. Tại vì nếu giữ cái giận riêng cho ta thì rất nguy hiểm. Lỡ ta thực tập chưa thành công thì nó làm ung thối trong tâm ta, rất là nguy. Theo phương pháp đạo Bụt thì ta không đè nén cái giận xuống. Đè nén nguy hiểm lắm. Một ngày nào đó nó sẽ nổ bùng lên làm tan xác ta và tan xác người kia luôn. Cho nên phương pháp Đức Thế Tôn dạy là không đè nén mà ôm lấy và chuyển hóa. Trong khi chờ đợi sự chuyển hóa thì ta có thể cho người kia biết là ta đang giận, ta đang khổ và muốn người đó biết điều đó cho ta.
Câu thứ hai: "Em đang cố gắng với tất cả sức của em, nghĩa là em đang thực tập theo lời Bụt dạy, lời thầy dạy, nghĩa là em không nói, không làm điều có thể gây đổ vỡ và em đang trở về hơi thở của em để thực tập chuyển hóa.”
Khi người kia nghe câu nói đó thì sẽ nể ta, sẽ thấy ta là người biết quay về thực tập, ta đã cố gắng không nói, không làm trong cơn giận và người đó cũng sẽ quay trở về với sự thực tập của người đó. Thành ra một mũi tên mà ta có thể cứu được hai con chim. Nghĩa là một mũi tên bắn vào cành cây, hai con chim bay mất. Còn nếu ta bắn một con, người kia bắn một con thì chết hết cả hai. Bắn vào cành cây là tốt nhất.
Câu thứ ba là "Anh ơi, anh giúp em đi!" hay "Em ơi, em giúp anh đi!" hay "Ba ơi, ba giúp con đi!”
Tôi đề nghị là nếu trong vòng 24 tiếng đồng hồ mà ta chưa thể nói ba câu đó bằng giọng bình tĩnh thì ta phải viết ba câu đó xuống và đưa cho người kia, miễn là đừng quá 24 tiếng. Tại vì đưa cho người kia mà người kia đọc rồi thì ta bớt khổ liền. Phương pháp của Bụt không phải là phương pháp đè nén. Ta nhận diện cái giận bằng năng lượng chánh niệm, ôm ấp cái giận bằng năng lượng chánh niệm, chuyển hóa cái giận bằng năng lượng chánh niệm. Chánh niệm càng hùng hậu thì công việc càng dễ dàng. Muốn cho chắc ăn, ta lấy một miếng giấy rồi viết ba câu đó xuống rất rõ ràng bằng tiếng Việt hay bằng tiếng Anh. Viết trên miếng giấy nhỏ bằng tấm danh thiếp rồi bỏ vào ví. Khi nào giận thì rút tờ giấy đó ra và suy nghĩ xem ta nên đưa liền cho người đó hay thực tập trước. Nếu thực tập giỏi thì đâu cần phải đưa, tới nói thẳng thôi. "Anh ơi, em đang giận anh lắm đó. Em đang khổ lắm và em muốn anh biết chuyện này. Anh giúp em đi!" Nghĩa là có ý muốn nói anh đừng có nhởn nhơ, anh tưởng là mọi chuyện êm đẹp thì không đúng...
Một mũi tên cứu được hai con chim
Khi ta đưa người kia cái tờ giấy có 3 câu đó thì người kia sẽ giật mình và thấy là họ đã vô ý, đã thiếu chánh niệm, đã gây đau khổ cho người họ thương. Thì người kia sẽ suy nghĩ là họ đã làm gì, đã nói gì đến nỗi làm ta giận như vậy. Đọc tới câu thứ hai: "Em đang làm hết sức của em" thì họ thấy người này đáng quý thật, vì khi giận người này đã không nói năng gì, không làm điều gì, chỉ trở về với hơi thở, đi thiền hành và chăm sóc cơn giận thì thật là hay. Khi đọc xong câu đó thì thế nào người đó cũng trở về với hơi thở và sự thực tập. Một mũi tên cứu được hai con chim. Và câu thứ ba thì rất hay: "Giúp em với!" vì trong khi ta giận thì ta hay chứng tỏ là ta không cần người kia: "Tôi không cần anh, để tôi yên, tôi tự sống một mình được mà!" Con người sao mà dại quá chừng! Người kia thấy ta không hạnh phúc, người kia tới gần hỏi: "Em có sao không? Em có giận anh không?" Ta sẽ sừng sộ: "Giận hả? Tại sao tôi phải giận?" Nói vậy đó. Ta không công nhận sự thật. Và nếu người kia nói: "Anh thấy em khổ quá đi" thì ta trả lời: "Khổ hả? Tại sao tôi phải khổ?" Rồi người kia thấy tội nghiệp, để tay trên vai ta thì ta né ra và nói: "Để tôi yên, kệ tôi!" Đó là tánh con nít của mọi người chúng ta. Khi giận thì không muốn người kia động tới và không muốn kêu cứu với người đó. Tự ái ta rất lớn. Thà rằng ta đóng cửa, khóa lại và khóc thầm trong phòng hơn là nói với người kia là ta khổ. Vì vậy khi nói được với người kia "Giúp em với!" thì đó là lời nói của yêu thương. Tại vì khi ta cam kết sống với người đó suốt đời thì ta đã cam kết sẽ chia sẻ những khổ đau và hạnh phúc. Nhưng khi ta khổ đau mà nói: "Em không cần anh!" thì ta đã phản bội lời cam kết.
Đối với con ta cũng vậy thôi. Là cha con, mẹ con với nhau thì ta phải chia sẻ những khó khăn và hạnh phúc với nhau. Tại sao ta tự ái, để tự ái chia rẽ hai người? Cái đó không phải là tình thương đích thực. Khi có tự ái ở trong thì tình thương đó không phải là tình thương đích thực. Thành ra câu số ba quan trọng lắm. Câu "Giúp em đi!" chứng tỏ ta cần người kia. Khi thương ta phải biết nói câu đó. "Anh hãy cắt nghĩa cho em (hoặc em hãy cắt nghĩa cho anh) là tại sao anh nói câu đó, anh làm điều đó cho em khổ?" Cắt nghĩa rồi thì người kia sẽ hối hận, người kia sẽ thở và nói câu xin lỗi. Và khổ đau sẽ hết, tình thương sẽ được tái lập trở lại. Mà nếu sau khi thực tập thấy lỗi của ta thì ta nói rõ ràng: "Sau khi thực tập em thấy lỗi của em rất là nhiều, em xin lỗi anh." Cứ nói sự thật ra như vậy. Nếu ta là người chồng thì ta cũng viết như vậy. "Anh đang khổ, anh đang giận em lắm. Và anh muốn em biết cho điều đó. Anh đang cố gắng thực tập theo lời thầy dạy. Em giúp anh một phần với, em là người đạo hữu của anh, em là người bạn đời của anh trên con đường thực tập mà." Đối với con, ta cũng có thể thực tập như thế: "Con ơi, bố đang đau khổ, bố đang giận con và bố muốn con biết cho bố điều đó. Bố đang cố gắng thực tập đây, con giúp bố đi". Thì ta phải trở về giúp bố ta. Bố ta đang khổ, bố ta đang thực tập thì ta cũng phải thực tập. Thành ra lời nói đó là lời nói của thương yêu đích thực và không có dấu hiệu của cái gọi là tự ái trong đó. Chứ nếu ta nói: "Mình là cha nó chứ nó đâu phải ông nội mình mà viết thư cho nó!" thì lúc đó cái tình giữa hai người chưa phải là tình thương đích thực. Và bà có thể viết câu này nhưng đừng đưa cho ông coi, bà đọc thôi (ông cũng vậy, ông có thể viết câu này nhưng đừng đưa cho bà coi, ông đọc thôi): "Em đang giận anh lắm, em muốn trừng phạt anh, em muốn làm anh khổ cho bõ ghét. Nhưng em biết nếu có tai nạn xảy ra mà anh chết thì em sẽ suốt đời khóc thương anh". Cứ đọc câu đó đi là sẽ hết giận liền lập tức. Quý vị cứ ghi câu đó vô. Viết cho ta đọc thôi, giữ kỹ trong ví của ta, đừng cho ổng thấy. Mỗi khi giận quá thì rút tờ giấy đó ra đọc!
Chất độc
Trong con người chúng ta có hai chất độc, hai chất độc này làm cho ung thối con người của chúng ta, làm cho chúng ta không có hạnh phúc. Chất độc thứ nhất gọi là sự thèm khát, và chất độc thứ hai gọi là hận thù. Hận thù là một năng lượng ở trong con người của ta. Bắt đầu thì ta cũng như người khác, hạt giống của sự hận thù nhỏ thôi, nhưng tại vì ta không biết sống chánh niệm cho nên mỗi ngày ta cứ tưới tẩm hạt giống hận thù, giận hờn ở trong ta. Hạt giống đó lớn lên từ từ rồi biểu hiện ra trong lời nói và trong hành động. Và khi mà có năng lượng của sự sân hận, của sự oán thù ở trong người của ta rồi thì những lời nói, hành động của ta có công dụng làm đổ vỡ. Đổ vỡ cái gì? Đổ vỡ sự liên hệ giữa ta và người ta thương. Bắt đầu thì chỉ có một sự bực mình nho nhỏ, nhưng mà ta đâu có biết phương pháp để quản lý sự bực mình đó, vì vậy cho nên mỗi ngày bực mình thêm một chút, và sự bực mình đó trở thành sự hờn giận, sự hờn giận trở thành sự hận thù, đó là những cốt tủy khổ đau trong con người của ta. Khi đó những gì ta nói và làm đều có thể gây đổ vỡ cho người bạn lứa đôi của ta. Ban đầu khi hai người mới cưới nhau thì tin tưởng rằng nếu không có nhau chắc là sống không nổi. Sau đó một thời gian, không biết tu học thì hai người gây khổ đau cho nhau, đầy buồn giận, đầy oán thù, rồi bây giờ không thể nhìn nhau được nữa. Ban đầu thì hai người ngồi đó chỉ nhìn nhau là đủ no rồi, thấy người kia sao mà dễ thương quá, nếu người đó không có mặt chắc đời sống ta không có ý nghĩa. Bây giờ đây khi nhìn nhau sao ta thấy mặt người kia dễ ghét quá chừng, nếu ta có tự do thế nào ta cũng ly dị để khỏi phải thấy nhau nữa. Ban đầu thì nói rằng nếu không có em thì đời đâu còn có nghĩa gì nữa; bây giờ ta lại nói rằng nếu có em thì chắc anh sống không nổi quá.
Thương nhau là nhìn nhau
Có một tờ báo phụ nữ nổi tiếng ở Paris là tờ báo Elle có gởi một đặc phái viên tới Làng Mai để phỏng vấn các sư cô. Sau khi các sư cô đòi điều kiện là phải ở tu một tuần rồi mới cho phỏng vấn, bà ta cũng chấp nhận. Và sau khi ở tu một tuần rồi thì bà thích, bà thấy sao mà các sư cô sống với nhau có vẻ hạnh phúc, hài hòa và đem lại rất nhiều hạnh phúc cho những người tới với họ. Hôm đó tôi từ Sơn Cốc tới thăm Xóm Mới thì các sư cô sắp đặt để cho nhà báo đó được gặp tôi. Các sư cô dặn trước là gặp tôi đừng có hỏi lý thuyết mà hãy hỏi những câu hỏi rất thực tế vì tôi không có nhiều thì giờ. Bà ta hỏi tôi có phép thực tập nào giúp cho những người phụ nữ Pháp không thì tôi mới đề nghị phương pháp thực tập sau đây:
Hai vợ chồng người Pháp đang ngồi ở trong phòng khách, đang nhìn về hướng vô tuyến truyền hình thì người vợ mới xoay lại người chồng nói rằng: ‘Anh ơi! Anh có thể tắt máy truyền hình để em có chuyện rất quan trọng muốn nói với anh’. Người chồng có vẻ hơi bực, nhưng vì người vợ nói với tất cả sự dễ thương, nên người chồng đồng ý. Người chồng bắt buộc phải tắt Ti-vi, nhưng hễ tắt Ti-vi thì bắt buộc phải nhìn mặt vợ, mà bây giờ nhìn mặt vợ thì không có gì là hạnh phúc lắm. Lúc đó bà hãy thở vào một hơi cho sâu và thở ra một hơi cho thong thả rồi nhìn vào mặt ông, bà nói: ‘Anh ơi! Chúng ta có phải là một cặp vợ chồng có hạnh phúc không?’ Hỏi với tất cả trái tim của bà. Nếu câu trả lời là không thì tại sao, vì những lý do gì ta không có hạnh phúc? Tại sao ta có nhà, có xe, có công ăn việc làm, có địa vị trong xã hội, có trương mục trong ngân hàng, nhưng ta không có hạnh phúc? Nếu bà hỏi câu hỏi đó bằng tất cả trái tim của bà, đừng hỏi bằng giọng thách thức, châm biếm, buộc tội người đàn ông, thì người đó bắt buộc phải thực tập nhìn sâu với bà, nhìn sâu vào tình trạng hiện thời, để thấy tại sao họ có những điều kiện như vậy mà lại không có hạnh phúc.
Tôi nói với bà là tắt Ti-vi đi và cùng ngồi đó để nhìn vào tình trạng của họ. Đó là một phương pháp thực tập thiền quán. Nếu hai vợ chồng làm giỏi thì trong vòng một giờ đồng hồ là có thể tìm ra được lý do khiến cho họ đang không có hạnh phúc. Họ đã dại dột như thế nào, họ đã vụng về như thế nào để gây khổ đau cho nhau, gây khổ đau bằng lời nói và bằng hành động. Nếu nhìn sâu ta thấy rõ ràng rằng tại vì ta không quản lý được sự bực mình, sự giận hờn trong ta nên sự giận hờn đó được biểu lộ bằng lời nói, bằng hành động, làm đổ vỡ và sau đó chúng ta không thể nhìn nhau được nữa. Vì vậy cho nên những phương pháp Bụt dạy làm thế nào để quản lý cái giận, ôm ấp cái giận, chuyển hóa cái giận, là những phương pháp rất quý báu.
Quản lý những hạt giống tiêu cực
Nếu ta tự nhận ta là một người đệ tử của Đức Thế Tôn thì ta không thể không học những phương pháp đó, không thể không thực tập những phương pháp đó. Các thầy và các sư cô cũng có hạt giống của sự giận hờn, của sự bực bội, của sự thèm muốn, nhưng các thầy và các sư cô đã thực tập để quản lý được những hạt giống giận hờn, bực bội và thèm muốn của họ. Vì vậy cho nên các thầy và các sư cô tương đối có hạnh phúc, an lạc, vững chãi, thảnh thơi và có tình thương. Ta phải học những phương pháp đó để có thể có được sự hạnh phúc và an lạc như các vị xuất gia vậy.
Khi chúng ta được hướng dẫn đi thiền hành, khi chúng ta được hướng dẫn ăn cơm trong an lạc, khi chúng ta theo dõi hơi thở, tức là chúng ta có cơ hội trở về với chính ta, với giây phút hiện tại. Nhờ đó mà ta có thể chế tác ra năng lượng chánh niệm và chính năng lượng chánh niệm đó sẽ có tác dụng nhận diện và ôm ấp nỗi khổ niềm đau của chúng ta. Nếu không có năng lượng chánh niệm thì niềm đau kia sẽ tràn lấp, thúc đẩy chúng ta làm những điều và nói những điều gây ra đổ vỡ. Trong ta có những nguồn năng lượng, hạt giống tốt đẹp, lành mạnh và tích cực như năng lượng của tình thương, của sự tha thứ bao dung, như chí nguyện lợi tha, mong cho xã hội, cho nhân loại được tốt đẹp trong tương lai, mong cho đoàn thể mình có khả năng đem lại niềm vui, sự vững chãi, thảnh thơi và hạnh phúc cho các đoàn sinh của mình và cho gia đình của họ. Nhưng trong ta cũng có những nguồn năng lượng ma quái, tiêu cực, không lành mạnh. Và ta phải học làm thế nào để cho những năng lượng không lành mạnh, xấu ác này không tác yêu tác quái, sai khiến ta đi theo con đường của sự gây ra bạo động, tan vỡ và chết chóc. Có nhiều khi ta biết chắc rằng nếu nói câu đó thì ta sẽ gây khổ đau và tan nát, đỗ vỡ trong gia đình ta, trong đoàn thể ta, trong mối liên hệ của ta đối với người ta thương, nhưng ta vẫn cứ nói những câu như vậy, vẫn cứ làm những cử chỉ như vậy. Tại sao? Tại vì trong ta có những lực lượng của ma quái, của sự thèm khát, của sự cứng đầu, cho mình là đúng, tập khí nóng giận, tập khí muốn gây chia rẽ, muốn làm cho bỏ ghét, muốn trừng phạt người kia khi người kia không làm vừa ý mình. Những năng lượng của thói quen như thế đã được un đúc lâu ngày. Danh từ Phật học gọi là tập khí. Khí là khí công, là năng lượng. Tập là cái thói đã được un đúc, huân tập lại trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Tập khí tức là thói quen, lề thói đã được un đúc lâu ngày và nó kết lại dưới hình thức của hạt giống trong tâm thức ta và có khi nó biểu hiện lên trên vùng ý thức như hình thái của năng lượng. Chúng thường âm thầm sai sử ta. Tuy nhiên tập khí cũng có hai loại: tập khí tốt và tập khí không tốt. Ví dụ khi thấy một người ngã xuống, ta không cần suy nghĩ gì cả, tự nhiên chạy tới đỡ người đó lên, hỏi han và chăm sóc cho người đó. Đó gọi là tập khí tốt. Vì vậy, tu tập là để có khả năng nhận diện được tập khí và không để cho tập khí đó tác yêu tác quái, sai khiến ta nói những điều ta thật sự không muốn nói, làm những điều ta thật sự không muốn làm. Ta có đủ thông minh để biết rằng nếu nói như thế thì sẽ tan nát hết, làm như thế thì sẽ tan nát hết, nhưng tại sao ta đã nói, đã làm để gây ra sự tan nát, rồi ta đấm ngực, bứt tóc và than rằng: "Trời ơi, tại sao mình ngu dại quá vậy? Tại sao mình nóng nảy quá vậy?" Và ta tự hứa là lần sau ta sẽ không phạm vào lỗi lầm ấy nữa. Ta quỳ trước bàn thờ Bụt, bàn thờ tổ tiên và tha thiết, thành khẩn muốn làm mới, muốn thay đổi và có Bụt, có tổ tiên chứng giám cho ta. Ấy vậy mà khi hoàn cảnh xảy ra, ta lại phạm vào lỗi lầm ấy y như trước; ta lại nói những câu ta không muốn nói, lại làm những hành động ta không muốn làm và lại tạo ra sự tan vỡ một lần nữa. Ta trở nên bất lực, chán ghét chính ta, nghĩ rằng những tập khí ấy mạnh hơn ta, ta bó tay chịu thua. Cái đó gọi là ma chướng, là tập khí xấu mà trong người nào cũng có. Những tập khí xấu đó không hẳn là do ta làm ra. Đôi khi nó đã được trao truyền lại từ những thế hệ ông bà, tổ tiên, cha mẹ ta. Ta là người đã thừa kế tất cả từ cha mẹ ta. Tổ tiên, ông bà và cha mẹ đã trao truyền rất nhiều những hạt giống cho ta trong đó có những hạt giống rất tích cực, đẹp đẽ và thánh thiện. Nhưng họ cũng trao truyền cho ta những hạt giống của khổ đau, tuyệt vọng và giận hờn. Gia tài của ta có đủ những hạt giống của hạnh phúc, của khổ đau, của hy vọng và của thất vọng. Nếu không tu tập, mỗi ngày ta tạo điều kiện cho những hạt giống của khổ đau, tuyệt vọng, giận hờn, trách móc và thèm khát trong ta được tưới tẩm, thì ta sẽ trở thành con người khổ đau và tuyệt vọng, ta sẽ làm khổ những người ta thương. Thật ra ta đâu có muốn làm như vậy.
Hạ thủ công phu
Vì thế cho nên tu tập nghĩa là phải nhận diện hạt giống tốt mà ta đang có, và mỗi ngày ta phải tạo điều kiện để cho những hạt giống tốt ấy được tưới tẩm, cho chúng lớn lên và tìm cách duy trì, giữ gìn để những hạt giống xấu đừng bị tưới tẩm và nhất định là không để cho người khác tưới tẩm. Đó là nội dung của sự thực tập tinh tấn (tấn lực) trong giáo lý ‘tứ chánh cần’. Đó là ý nghĩa sâu sắc của chữ tấn mà các anh, các chị thuộc cấp Tấn phải hiểu rõ.
Chánh niệm là nguồn năng lượng có khả năng nhận diện được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Khi đi tham dự những khóa tu là ta có cơ hội để chế tác ra năng lượng chánh niệm qua cách thở, đi (thiền đi), ngồi (thiền ngồi), ăn cơm trong im lặng, rửa bát v.v... Chánh niệm là năng lượng giúp ta có mặt đích thực trong từng giây từng phút, là khả năng an trú trong hiện tại. Chánh niệm là năng lượng của Bụt. Trong ta có hạt giống của chánh niệm và nếu ta học theo các thầy, các sư cô đi từng bước trong chánh niệm, thì mỗi bước chân như thế sẽ làm cho hạt giống chánh niệm lớn lên mạnh mẽ. Trong những ngày vừa qua quý vị đã có cơ hội quan sát cách đi, đứng, ngồi, nói năng và tiếp xử của các thầy các sư cô; quý vị thấy họ đi, đứng, ngồi, ăn cơm v.v... có chánh niệm. Đó là những bài pháp hùng hồn nhất của một người tu, là Phật sự của họ với tư cách một người tu. Trong đời sống hàng ngày, nếu ta không đi, đứng, thở, nói, cười, tiếp xử và làm việc trong chánh niệm, ta không chế tác được năng lượng chánh niệm, không có sự vững chãi và thảnh thơi, thì làm sao ta có thể giúp người khác được. Nếu tự thân ta không thực hiện được những yếu tố đó thì khi đi tổ chức khóa tu, hướng dẫn khóa tu, ta đâu có gì để cống hiến. Ta đâu có thể đi bán hàng giả. Vì vậy, điều quan trọng là không phải ngồi với nhau hàng giờ để nói thao thao bất tuyệt về những giáo lý, mà phải thật sự hạ thủ công phu, nghĩa là phải áp dụng thực tế những giáo lý mình đã học được vào trong đời sống tu tập hàng ngày. Một giờ học giáo lý phải là năm giờ thực tập. Ngày Gia Đình Phật Tử tụ về để sinh hoạt là ngày để cho ta thực tập chánh niệm và ta phải có những giờ chánh niệm, tổ chức những ngày chánh niệm để cho các anh, các chị trưởng và các em có cơ hội thực tập chánh niệm như các thầy và các sư cô ở chùa. Có năng lượng chánh niệm thì ta mới có khả năng nhận diện được những tập khí ma quái trong ta và chỉ khi nào ta nhận diện được nó thì ta mới có thể chuyển hóa nó. Mỗi khi cái tập khí đó biểu hiện thì chỉ cần nhận diện đơn thuần thôi, rồi ta mỉm cười và nói: "Anh bạn ơi, ta biết ngươi có mặt đó, nhưng ngươi chẳng làm gì được ta đâu." Nói như vậy thì cái năng lượng ma quái đó mới ngưng tác yêu tác quái, mới không sai sử ta mà thôi. Còn nếu ta không có khả năng nhận diện nó thì nó sẽ tiếp tục tác yêu tác quái, xúi ta làm những cái mà ta không muốn làm, nói những câu mà ta không muốn nói.
Tôi nhớ có một chàng thiền sinh trẻ người Hoa Kỳ về Làng Mai cách đây độ chừng tám năm để tu tập. Anh thiền sinh đó sống và tu tập rất hạnh phúc với các thầy và các sư chú ở Xóm Thượng, chùa Pháp Vân. Anh ta thực tập đi thiền, ngồi thiền, rửa chén, nấu cơm, giặt áo, chùi cầu tiêu, xếp đặt thiền đường giống như các thầy, các sư chú và anh ta được hướng dẫn để làm những công việc đó trong chánh niệm. Anh ta sống rất hạnh phúc, vững chãi và thảnh thơi. Thay vì chỉ ở một tuần lễ như đã dự định, anh ta đã xin phép ở luôn ba tuần lễ với tăng thân, với các thầy, các chú để được tiếp tục tu tập. Trong tu viện, người nào cũng thực tập đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, nói, cười trong chánh niệm nên anh ta được nâng đỡ bởi năng lượng tập thể của Tăng Thân, và sự tu tập của anh ta tiến bộ rất nhanh. Tới tuần thứ ba, anh ta được phái đi chợ mua một ít thực phẩm để làm món ăn mừng ngày Tạ Ơn (Thanksgiving) được tổ chức theo tinh thần đạo Bụt. Đây là lần đầu tiên anh ta đi chợ sau hơn hai tuần tu tập tại Làng. Theo truyền thống đạo Bụt, ta có bốn sự biết ơn cao quý (tứ trọng ân), đó là ơn cha mẹ, ơn thầy tổ, ơn bè bạn và ơn mọi loài chúng sanh. Thiền sinh của mỗi nước tới với nhau để cùng nấu một món quốc hồn quốc túy của nước mình dâng lên bàn thờ Tổ Tiên. Thiền sinh Việt Nam thì nấu món ăn Việt Nam để dâng cúng, ví dụ như chả giò hoặc xôi năm màu v.v... Thiền sinh Hòa Lan thì họp lại với nhau để cử một người đi chợ mua thức ăn làm một món ăn Hòa Lan, thiền sinh Đức làm món ăn truyền thống của họ, thiền sinh Mỹ làm món ăn Mỹ. Thầy không nhớ năm đó thiền sinh Mỹ đã dâng cúng món gì, có thể là món bánh Pumkin Pie (bánh bí rợ) hay Apple Pie (bánh táo). Hôm ấy anh ta đi chợ ở thành phố St. Foy La Grand