← Quay lại trang sách

Chương II

Chương II

huở nhỏ, Nguyễn Hữu Cảnh rất mê bắt cá rô. Ở Nghệ An, cá rô rất nhiều. Anh em nhà Nguyễn Hữu và anh em nhà họ Đào hẹn hò nhau đi tát đìa, hôm đó đứa con gái nhỏ đòi theo. Nguyễn Hữu Cảnh chỉ đứng cách bờ ao vài mét, mấy người kia cười nhạo là đen mà còn sợ bị dính sình, nên cố ném vào người Hữu Cảnh.

Thị Thừa ngồi ở trên bờ ao sen, cười ngây ngất chỉ mấy con cá rô đang mắc kẹt trên sình:

- Huynh Cảnh...Ô...hô, con rô...

Mấy đứa anh chê cá rô nhỏ không thèm bắt, cả bọn lao ra giữa đìa chụp lấy con ba ba lật ngửa bỏ vào cái lợp bằng tre. Nhóm trai trắng trẻo bắt khá nhiều cá lóc lớn, cá trê đen và còn đòi tìm nơi nào đó bắt thêm nữa.

- Cảnh không chịu đi, anh em ơi tô sình thôi...

Trước mặt con gái, Cảnh ráng mà giữ mình cho sạch sẽ. Mấy đứa anh ném sình bùn đầy người, Cảnh rửa ngay sợ Thị Thừa chê dơ. Nhưng bọn con trai biết tính ý, một đám kéo tới thoa sình bùn từ đầu tới chân, Hữu Cảnh như một con cá trê đen sì lì. Cảnh giận nhảy lên bờ đê, còn nói là về chứ không theo nữa:

- Về đi!- đám lớn đuổi khéo, Cảnh tiếc về sớm cũng sợ Thị Thừa không theo.

- Trời đang chuyển mưa, cá rô thích đẻ ở bờ đê...- Cảnh nhắc khéo và rủ rê Thị Thừa - Bắt cá rô dễ hơn là theo bọn họ, muội theo ta không?

Trời đang chuyển mưa đầu mùa, Cảnh nói với Thị Thừa khỏi cần tắm. Nước mưa sẽ xối sạch sẽ, còn bắt được cá rô chạy trên đất cạn. Cả hai vui vẻ đi băng qua đồng cỏ, mưa bắt đầu rơi hạt. Cảnh lấy tay quàu tóc cho sình chảy xuống, Thị Thừa cũng tiếp kỳ cọ phía sau lưng.

Hai đứa trẻ thấy hai con cá rô rượt nhau trên mặt cỏ, đuổi theo như cách thức truyền giống của loại cá này. Tiếng cười vui, quên đi mây đen càng lúc tới. Cả hai mới hay mình đi hơi xa, không biết mấy đứa anh trai đang ở đâu. Cảnh rủ Thị Thừa chạy vào căn chòi làm bằng lá chuối, phía dưới tán tre rộng. Hai đứa ngồi sát bên nhau cho ấm áp, Cảnh chín tuổi nên cũng đã biết mắc cỡ, biết nam nữ không gần gũi nhau nhiều. Thỉnh thoảng, ánh chớp lóe sáng lòa Thị Thừa sợ quá Cảnh ôm chặt để trấn an.

- Về nhà thôi à!- Thị Thừa sợ.

Cá rô nhảy lốc cốc trong lợp tre, nước mưa làm nó trôi theo hướng dốc. Cảnh không quan tâm nữa, phải men lần về nhà của Thị Thừa sưởi ấm thôi.

Ở Nghệ An thường khi nắng gắt, sông suối khô cạn, đồng lúa cháy khô. Đến lúc mưa thì gió lốc cuồn cuộn, mưa xối xả như trút nước làm ngập lụt mọi nhà...Trong khi đó, ở túp lều tranh liêu xiêu của nhà họ Đoàn, nước mưa bắt đầu ngấm qua mái lá. Người đàn ông họ Đào nhìn mưa ào ào ngoài trời, xót ruột muốn ra kéo trâu vào chuồng. Bờ ruộng lập xập nước đang dâng trào, cuối cùng thì bờ đê cũng chịu thả nước qua đồng. Trong chốc lát, bờ ruộng không còn thấy đâu nữa.

Bờ tre rung lắc, nghiêng nghiêng ngã đỗ. Nước ở mô, đang dâng lên từ ghềnh cao đổ xuống sông. Mấy thằng con cùng với mấy người con của Tướng Công Nguyễn Hữu Dật đi tát đìa bắt cá từ trưa, chắc đang núp tạm ở đâu đó. Người vợ đang cố đốt lửa để nấu nước. Lo Lắng nhìn vợ rằng, không biết các con có làm gì rầy rà với anh em nhà Nguyễn Hữu không?

Xa xa ngoài đồng trống, mấy con trâu kêu gào vì trời đang sấm chớp. Nhà họ Đào nhơn nhớn, nét mặt ngờ nghệch. Lúc đầu thì có lo lắng thật, rồi bỗng chốc thấy nhà cửa vắng hoe. Mấy khi có trời mưa rỉ rả, nên có chút nổi hứng:

- Mặc xác bọn chúng, bà lại đây...

- Gớm rứa! Sáu con rồi mà cũng đòi...

Người vợ nhà họ Đào vùn vằn một chút, rồi cũng đồng tình. Trong sự đồng tình ấy cũng có chút thở dài, kiếp người làm gì mà lại mắc mứu những cái tật truyền kiếp của tự nhiên, để rồi con cái lại sinh ra đàn đàn đống đống, khổ thân đàn bà. Trong mái nhà tranh lêu xiêu ấy, gió đàn đưa ngã nghiêng cũng có, mà do hai con người trong ấy cũng có.

Núi đồi hoang vu, mái nhà tranh nằm heo hút không biết tự bao giờ. Thỉnh thoảng con người thắc mắc vì sao mình lại ở đây, cũng như họ thắc mắc rằng từ khi khai thiên lập địa, người ta cứ loay hoay với việc chung đụng với nhau thế này tự bao giờ? Người nhà họ Đào, cũng không biết vì sao mình ham thích quá quắc với vợ suốt, cứ hễ vắng vẻ là trong lòng sinh tình. Người nhà họ Đào là một người rất là ngu ngơ, đôi khi cũng không biết kiểu truyền giống của mấy con trâu nuôi ngoài đồng, mình có giống như vậy không. Người nhà họ Đào không biết vì sao mình sinh con, chỉ biết mỗi lần chung đụng với nhau như vậy thì một khoảng thời gian nào đó người vợ mang bầu. Đôi khi còn nghĩ là vợ ăn phải măng tre có đầy ấp ở sông suối Nghệ An, hoặc là ông Trời làm gì đó, mấy đứa nhỏ mới được đầu thai.

Người đàn bà thì biết, tuy sinh đẻ nhiều nhưng cũng lo lắng:

- Rứa! Có đẻ nữa thì đặt tên gì...

- Có con Thừa, thì tới đứa tên Mứa...Chứ tê!

Cảnh với Thị Thừa lần mò về gần tới căn chòi lá, nghe tên mình Thị Thừa nhìn vào trong rồi rụt lại. Cảnh cũng nhìn thấy hết, nên sợ quá dắt Thị Thừa đến sát ao.

- Lấy sình thoa người huynh đi...

Cảnh lấy đất bên cái ao, thoa khắp người. Thị Thừa cũng sợ quá, Cảnh móc sình lên là thoa ngay trên người Cảnh. Cảnh cứ nghĩ, mình bị sình bùn che lấp là mình không có thấy gì hết. Hai đứa trẻ lui cui, nói rất khẻ nhưng khoảng trống lặng của cơn mưa nghe có tiếng trẻ con. Nhà họ Đào giựt mình, cột lại cái khố đen. Hết hồn thấy đứa con gái mình, đang bị một con quái vật bắt sống. Nhà họ Đào nhanh tay mang cái dao rốc tre, nhọn hoắc. Hét lớn một tiếng, nhảy xổ ra bờ ao.

- Con ma nào...

Thị Thừa hoảng hốt, xua tay mà rằng:

- Huynh Cảnh...Thầy tha...thầy tha...

Suýt mất mạng, Cảnh gạt sình bùn ở mắt ra:

- Con không thấy chú thiếm làm gì đâu, thiệt mà...

Thấy Cảnh chối leo lẽo, nhà họ Đào mắc cỡ đi một mạch vào trong. Người vợ hỏi:

- Răng rứa?

Nhà họ Đào, giãy nảy với vợ: "Tụi nó thấy trọi, độn thổ lên rừng thôi". Lúc ấy, bà Nguyễn Thị Thiện đi cửa sau của dinh lũy sang. Bà thấy mưa nên muốn xem con cái mình đang làm gì, mới hay là đám lớn còn bắt cá chưa về rất xót ruột. Nhà họ Đào đem cất con dao, mang Thị Thừa vào lửa cho ấm, rất ái ngại sợ Cảnh mét bà mấy chuyện vợ chồng nhưng không biết phải dặn dò cậu chuyện gì trước. Một lúc sau, đám lớn về, mấy đứa run cầm cập. Hôm đó ai cũng phải nằm sốt mấy ngày, riêng cảnh thì không hề hấn gì. Từ nhỏ, cậu nổi tiếng là người có sức khỏe phi thường, dầm mưa đội nắng đều không sao.

Ngay sau đó, nhà họ Đào trốn ra ngoài cái chòi trống không ngoài đồng ruộng, ở đó để không nghe bọn lính tráng chọc ghẹo.

Trong đời sống vợ chồng, thể nào cũng có lúc sơ ý để con cái thấy. Căn nhà tranh nhỏ bé mà con cái thì đông, nên việc che lấp mọi thứ là chuyện khó. Mấy tên lính thắt lại được mấy con chó từ bông cỏ đuôi chó, rồi dụ dỗ Thị Thừa kể chuyện. Bọn người xa vợ xa con đoán chắc là nhà họ Đào thể nào cũng có quan hệ gần gũi, cứ nghĩ là đứa bé gái nhỏ ấy không biết gì. Ai dè, thấy có đồ chơi thì nó kể sạch cho mấy chú lính nghe hết trọi.

Mấy tên loay hoay mãi câu chuyện gái trai, còn trêu ghẹo một người có vẻ trầm lắng. Anh này bị một vết thương nặng ở bộ hạ, cho nên bị cho là hết còn ham hố gì nữa.

- Tao đã nói mày, lúc giáp trận là cứ đâm thẳng vào bụng nó...nhảy sang một bên liền. Cái đầu coi bộ né nhanh lắm, nhưng ở dưới người ta hay coi thường, chuyện gì thì cái giáo nó tới rồi.

- Đúng ra, tao bị thương tật như vầy. Tướng công cho tao về nhà mới phải.

Tên lính buồn thương nhớ về nhà, còn những người kia không muốn nghĩ ngợi giống hắn.

- Ở đó mà về, còn đi đứng được thì còn xông pha ngoài xa trường. Mày có về thì con vợ có ưa thích mày nữa không...Hì hì, đàn ông mình mất cái đó thì chết cho rồi...

- Đánh qua đánh lại hoài, mình chém đầu được mấy thằng lính của Chúa Trịnh, rồi lúc nào đó tới mình bị chém lại thôi.

Cả bọn hình dung lại các trận đánh, một đám quần nhau loạn xạ và ngạc nhiên sao mình không bị bay đầu. Lúc xông pha vào nhau, trạng thái con người cứ lơ mơ kinh hãi, cứ chém càn rồi lấy khiêng ra đở. Tới lúc, hoàn hồn thì thấy quân mình còn lại nhiều hơn thì thắng, nhìn thấy chủ soái hài lòng khen ngợi gì đó. Con người lúc ấy mệt lữ, chỉ muốn nhìn lại bàn tay mình nhơ nhuốc chém được bao nhiêu người và thắc mắc vì sao còn...sống.

- Có ai biết, tụi mình vì sao đánh nhau hoài vậy...

Cả bọn suy nghĩ một lát không trả lời được. Trai tráng phải tham gia binh biến, rất nhớ về quê nhà. Họ không hiểu sao phải đánh nhau suốt, nghe lời truyền miệng là đánh nhau từ lúc nào rồi. Khi họ lớn lên thì lính ập đến nhà, bảo rằng họ phải đi làm lính. Bỏ ruộng vườn lại sau lưng, đi đánh nhau còn nghe dễ được thăng quan tiến chức...Biết đâu, ngày nào đó mình làm dũng sĩ, sẽ trở lại quê nhà với mẹ già.

Bọn người dân đen không biết chuyện gì, khi sinh ra đã nghe đánh nhau nhiều trận rồi. Lớn lên khỏe mạnh, bỗng dưng có người bảo phải đi lính, rồi bắt đi lính. Trong đội quân chỉ có dạy nhau cách chém giết nhau sao cho hiệu quả, chứ không mấy ai nói lý do phải đánh đấm nhau cả đời như vậy.

Bà Nguyễn Thị Thiện là người hòa đồng, rất gần gũi với người vợ nhà họ Đoàn. Trông thấy căn lều liêu xiêu, bà gọi mấy tên tán gẫu sửa chữa căn nhà dột nát của họ. Bà Nguyễn Thị Thiện cho đám lính tiếp giúp, thỉnh thoảng bà ngồi chuyện trò và giải thích vài điều thắc mắc:

- Gần một trăm năm trước, nhà họ Trịnh đã lạm quyền ám hại nhà họ Nguyễn. Chúa Nguyễn Hoàng lấy cớ vào Thuận Hóa, vừa tránh né hiểm họa vừa đánh nhà Mạc. Phía ngoài, chúa vẫn không ưng cứ lo rình rập muốn diệt nhà Nguyễn tận gốc.

Đám lính nghe bà nói, không dám hỏi thêm cớ sự tỏ tường. Cả ngày trời lo tháo dỡ và lợp lại căn nhà tranh. Bên cạnh có dựng tạm một gian nhỏ làm quán nước để lúc rỗi rãi lính có nơi giải khuây. Người dân đã quen với việc quân Nguyễn ra xứ Nghệ. Xung quanh trại lính, lác đác có vài căn lều che tạm, đã hình thành một khu dân cư thường khi trao đổi buôn bán.

Ngồi trên cao lợp tranh, vài tên thấy ngoài triền sông lố nhố quân mình tăng viện. Mấy tên lính đứng thẳng trên những chiến thuyền, giáo mác chĩa lên trời mới đủ chỗ sang sông. Ngang nhiên như chỗ không người, chưa lần nào Đàng Trong có ý tiến công ra Bắc, nên lần tập kết nhiều người như vậy chắc hẳn là một trận đánh lớn. Khi quân Nam sang sông và tập kết dưới bãi cát sông, họ đợi tướng quân sang chuẩn bị đánh các đồn trú của quân Bắc. Quân của Nguyễn Hữu Tiến kéo sang chi viện, chuẩn bị cho một trận đánh lớn bất ngờ từ quân Trịnh. Mưa mấy ngày liền, cuộc hành quân rất kham khổ.

Cả ngày trời mỏi mệt, mấy tên lính được vợ người nhà họ Đào đãi tí rượu. Bỗng nhiên có lệnh phải gấp rút về doanh trại nhanh, cảm giác như chiến trận sẽ xảy ra vào tối đêm nay vậy. Tống Hữu Đại cho quân mình rút hết vào doanh trại, bắt đầu bàn kế mưu chống chọi vào đêm tối.

Tháng 6 năm 1657, Trịnh Căn cho cả ba tướng Hoàng Thế Thao, Lê Thì Hiến và Trịnh Thế Công vượt sông Lam đánh sang huyện Thanh Chương. Nguyễn Hữu Tiến cùng với Tống Hữu Đại được tiết lộ biết trước nên phòng bị và chống trả quyết liệt. Buổi tối hôm đó, Nguyễn Hữu Tiến cho đại bác thuộc kiểu pháo của Bồ Đào Nha khai hỏa nổ một tiếng, rồi im thinh như là ai đó vô tình. Quân Trịnh nhao nhao sang được nửa chừng sông thắc mắc nghe súng nổ mà không thấy ai. Trên đầu nguồn, mấy cây chuối được chặt khúc ngang bằng bả vai người, giữa đâm nhô lên một ngọn giáo được thả trôi. Trong đêm, tựa như những người lính đang thả nổi. Quân Trịnh dao động không biết là quân Nguyễn trôi dập dìu, trong đêm tối bắn bừa bãi cung tên ra mặt sông như mưa. Tên bị hao bớt, lại phí sức lực giương cung, nhất là việc đã quyết triển khai đợt tấn công đầu, mà không hiểu phía đối phương đã biết quân Bắc sang không.

Quân Trịnh cũng có người sang được sông Lam, nhưng rõ ràng là đang đợi trống lệnh. Ba cánh quân hợp lại nên họ có phần ỷ lại, không thấy quân Nguyễn nhiều nên cứ cho là một nhóm nhỏ chống đối. Họ vẫn tiến hành xua quân sang sông. Nguyễn Hữu Tiến chia nhỏ quân Bắc xong, liền cho người từ đầu nguồn thả trôi như những khúc chuối chặt khi nảy. Một mặt từ trong những bụi rậm um tùm nhanh chóng kết thúc đợt tấn công đầu. Quân tiếp viện sang sông không nhanh, bị những tên lính Nguyễn từ dưới đâm lũng thuyền rồi thả trôi mất. Tiếng la hét vang rền, chính vì quá tối nên quân Trịnh bị một phen kinh hãi mà không biết phải làm gì.

Đó là trận phục kích có chuẩn bị, trong khi quân Trịnh tần ngần dao động không biết tiếp tục tiến hay lùi. Quân Nguyễn hoàn toàn chủ động, trận phục kích ấy gây tổn thất khá lớn cho quân Trịnh, đành phải lùi về bờ Bắc sông Lam, giao tranh tạm nghỉ được vài tháng.

Nguyễn Hữu Tiến không cần nói rõ kế sách với Nguyễn Hữu Dật, tiếp viện thắng lợi liền cho quân mình lùi về nơi đóng quân cũ. Tống Hữu Đại kể rõ ngọn nguồn, mặc dù Nguyễn Hữu Dật không trách cứ gì nhưng vẫn ngầm buồn phiền Nguyễn Hữu Tiến không coi mình ra gì.

Tướng quân đứng nhìn những vật trôi lều bều trên con sông chảy về hạ lưu, cảm phục mưu mẹo của Nguyễn Hữu Tiến. Ngài suy nghĩ bao điều về đời người, về chiến trận từ trước tới giờ, về những người con thân thương của mình còn phải chiến đấu lâu dài. Ngài suy nghĩ rằng muốn mọi thứ chấm dứt ắt phải có một trận đánh úp quân Trịnh, trong khi đó Đàng trong người thì ít ỏi, kinh tế chỉ mới vừa phát triển và mang danh nghĩa thờ vua Lê nhưng không có ông vua nào bên cạnh.

Số lượng quân Nam không bằng quân Bắc nhưng lúc nào chiến thắng cũng nhờ từ mưu mẹo. Ngài nghiệm ra rằng, đối mặt ngoài chiến trường đánh mãi cũng là những trận đánh, phải làm sao đánh từ phía hậu phương địch, phải có một cuộc chiến bên trong lòng từ quân Trịnh: Ngoại công nội kích. Ngài phải có mưu lược mang tầm vóc lớn hơn, nhất là cài cắm gián điệp ra Đàng Ngoài và đó là mưu lược được Nguyễn Hữu Dật xem như là kế sách.

Nguyễn Hữu Dật tranh thủ ngưng chiến liền cho người lẩn ra Bắc chiêu dụ Phạm Hữu Lễ chấn thủ Sơn Tây và Văn Dũ trấn thủ ở Hải Dương. Họ Mạc ở Cao Bằng vẫn còn mạnh, cùng với họ Vũ ở Tuyên Quang cùng nhau nổi dậy đánh quân Trịnh.

Chúa Nguyễn rất tin dùng Nguyễn Hữu Dật là vì đó là một người có nhiều mưu mô. Tướng công tóc bạc trắng từ thời trai trẻ, ông trầm ngâm vuốt râu khề khà:

- Ta tranh thủ hòa hoãn này để liên kết với nhà Mạc đánh Trịnh- Ông bàn bạc cùng với các con, rồi tiến hành vạch định kế hoạch chiêu dụ.

Vùng đất Nghệ An luôn luôn là nơi diễn ra các cuộc chiến khốc liệt xưa nay, nơi đây là nơi tiếp giáp với đất Chiêm Thành, rồi đến lúc nước Đại Việt mở rộng vào vùng trong, Chúa Đàng Ngoài và Đàng Trong thay phiên nhau đồn trú, binh biến làm cho cuộc sống dân đen thêm cùng cực. Hai bên giằng co có thắng có thua và địa điểm tranh giành đều ở các huyện ở Nghệ An, làm cho nơi đây càng thêm hoang tàn.

Nguyễn Hữu Dật rất thương dân tình, Tướng công "mua chuộc" lòng người rất khéo léo. Cho nên, địa phương cung cấp cho ông nguồn tân binh (được gọi là Thổ binh) gần vạn người. Họ nhanh chóng đào tạo bài bản, các miếng võ gia truyền được chỉ dạy để họ phòng thân và họ được đối xử không bị phân biệt Ngoài hay Trong, mà đều là lính của Tướng Công mà thôi.

Ở huyện Quỳnh Lưu, Nguyễn Hữu Dật thu phục được tù trưởng Lang Công Trấn vượt sông Lam, quyết đánh rát mọi mặt để thu phục quân Trịnh. Quân Thổ binh sang sông cùng với Tù trưởng, quyết đối đầu với quân Nguyễn từ mặt Nam, còn mặt Bắc chắc chắn Liên Minh sẽ sớm làm cho quân Trịnh tan tành. Nguyễn Hữu Dật lợi dụng liên quân, lính Đàng Trong được dưỡng sức chờ trận đánh dứt điểm ra Đàng Ngoài.

Thế nhưng, người tính không bằng trời tính.

Tháng 6 năm 1658, Lang Công Trấn lại bị quân Trịnh đánh bại và bị bắt giải về thăng Long. Các cánh quân phía Bắc thì lại có ý đồ riêng, muốn cho quân Nguyễn đánh quân Trịnh yếu dần rồi mới ra tay. Quân Nguyễn giờ đã đi quá xa lâu ngày rất mệt mỏi, lương thực thiếu thốn, cũng dùng dằng chờ bên ngoài đánh vào. Cuối cùng, quân Trịnh có thời gian để khôi phục lại. Tháng 7, quân Nguyễn vượt sông Lam thắng được Nguyễn Hữu Tá ở huyện Hưng Nguyên nhưng bị Lê Thì Hiến đánh bại phải rút về. Tháng 12, quân Trịnh đánh huyện Hương Sơn, thắng quân Nguyễn.


Nguồn: Tác giả VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 20 tháng 5 năm 2015