← Quay lại trang sách

BẾN CHÙA XƯA ❖ 1 ❖

Theo lời má dặn, tôi tầm phương lần về đất cũ, nơi má tôi đã chôn nhau cắt rún từ thuở cất tiếng khóc chào đời và tôi, gọi đó là quê ngoại. Miền quê ngoại nắng đẹp, mưa không kéo lê thê buồn như quê nội; bông trái quanh năm tặng người, nuôi loài vật và côn trùng. Sông rạch và kinh đào chằng chịt đất nước, tôi hỏi má: “Chằng chịt là sao, hả má?”. Má cắt nghĩa: “Chằng là dọc, chịt là ngang. Đã làm trai đứng trong trời đất, không tánh ngang dọc lấy chi nuôi chí tang bồng?”. Rồi, má chỉ ra: “Đò dọc đò ngang là hình tượng của chằng chịt” đất Mỹ Tho và người đời ví nó là cửa ngõ vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long.

Mỹ Tho dù xuất phát từ cách phát âm “Mi cà tho” hay tên gọi “Mê-so” của người Khmer thì, Mỹ Tho trong tâm hồn tôi mãi mãi vẫn là “cô gái có nước da trắng đẹp”. Đối với con gái, người xưa quan niệm: “Nhất dáng, nhì da”. Tôi thường tự hỏi: “Có phải chăng vì, Mỹ Tho đẹp dáng đẹp da đã thúc bách Thủy sư Đề đốc Charner đánh chiếm thành Mỹ Tho trước mùa mưa đồng bằng năm con Gà?” [37] . Tôi đem điều tự hỏi kể cho cậu út Nữa nghe, cậu cú đầu tôi rồi cười ngất.

– Thằng cháu con khỉ nầy, dáng với da dính gì ở đây! Thằng Tây đánh gấp chiếm thành Mỹ Tho, vì Mỹ Tho lúc bấy giờ đảm đương vai trò trung tâm thương mại và là vựa lúa của cả nước; hệ thống giao thông thủy giữ then chốt Đông – Tây và có thể, khống chế cả Vương quốc Căm Bốt.

Thôi cười, nét mặt cậu trầm tư.

– Có hai việc khiến thằng Tây sợ và ngại, dù cắn răng trả giá cao nó vẫn phải tiến hành. Đó là, nhanh chóng dập tắt các phong trào chống Pháp mà Mỹ Tho (Định Tường) đang giữ vai trò khởi xướng và dung nạp nghĩa quân. Đồng thời, Mỹ Tho còn là nguồn cung ứng lương thực, thực phẩm ra Huế kể cả các nơi khác.

Rồi, cậu nói tiếp:

– Ông bà mình hồi đó, khổ nhục khôn lường; muốn sống thì phải “ăn theo thuở, ở theo thời”. Nhưng, ngặt nỗi ông bà mình chưa bao giờ cam chịu “ăn theo thuở, ở theo thời”, vì vốn dĩ đã thành nếp quen thuộc của người sống miền sông rạch chằng chịt, xuôi ngược đò dọc đò ngang. Chuyện đổi họ thay tên chẳng lấy làm trọng, một khi đã là lưu dân. Bởi, cái mạng còn chưa biết có giữ được hay không, thì cái tên cái họ có ra cái nghĩa địa gì!

Thật bất ngờ, khi tôi nghe những điều cậu nói. Và, ngẫm lại, đất thay tên nhưng chắc gì người đổi dạ! Quê ngoại tôi, chỉ riêng tính từ đời Chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Chu tới đời vua Tự Đức khoảng 120 năm [38] , lúc châu, trấn, khi đạo, quận... Chẳng ăn nhập chi đến lòng người Mỹ Tho!

❖ ❖ ❖

Rạch Bến Chùa từ đồng bưng hoang dã, chảy nhọc nhằn qua mấy mái tranh nghèo lác đác trên vùng đất thiếu vắng tiếng người và phải chờ thiệt lâu, đợi tới lúc công nữ Ngọc Vạn lấy vua Chân Lạp là Chey Chetta 2 thì quần cư người Việt mới tựu thành thôn xóm. Rồi, trải hàng mấy trăm năm biến động lịch sử, xã hội... Nơi cánh đồng trũng bạt ngàn bưng xưa kia, hình thành điểm giao lưu hàng hóa và người ta gọi đó là chợ Bưng, thuộc làng Long Hội Tây, tổng Thuận Trị.

Nước chảy re re con cá he nó xòe đuôi phụng

Cả chợ Bưng nầy, anh đành bụng có mình em [39] .

Nhờ câu hò đó, cậu Út nên duyên ngãi với cô thôn nữ mua bán mận Hồng Đào ở chợ Bưng.

Ngoại không thuộc hạng quý tộc, dân Tây; nhưng cũng thuộc hàng có của ăn của để nhờ trồng mận Hồng Đào. Dẫu vậy, ngoại chỉ cho các cậu đi học và học ở Collège de Mỹ Tho, còn các dì, kể cả má, ngoại chỉ cho học nữ công gia chánh và tuyệt nhiên, một chữ cắn đôi cánh nữ nhi chẳng biết. Bù lại, má và các dì nghe đâu nhớ đó, rất sáng dạ, ngó mặt chữ đoán hình dong ra nghĩa!

Mợ Út giỏi giang buôn bán, rành rẽ giống mận Hồng Đào; ngoại ưng bụng và mấy dì nuông chìu giúp đỡ.

Ngoại từng nói:

– Đã có được làn da trời phú đẹp, thì người bao nỡ để cái nết xấu hơn da! Đất phù sa, nước ngọt Cửu Long đã bồi đắp nên miền châu thổ trù phú và bàn tay người Mỹ Tho, tạo ra những nông thổ sản nức tiếng và thành danh xứ sở: Xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim, cam mật Cái Bè, ổi xá An Hữu...

Rồi, ngoại nhấn mạnh rằng, đất Trung Lương có mận Hồng Đào chẳng hề kém chị kém anh. Tôi ngồi hóng chuyện người lớn mà lòng nghe mát cả ruột gan. Chợt nhớ đâu đó, tôi đã nghe câu nói lối giữa đêm trăng khuya khoắt Bến Chùa:

Đây kẹo chuối thơm tình xứ Mỹ

Mận Hồng Đào ngọt ý quê hương.

Khi lớn lên và nhứt là, lớn lên trong thời bom đạn, tôi mới hiểu vì sao “kẹo chuối thơm tình xứ Mỹ” và “Mận Hồng Đào ngọt ý quê hương”.

Bởi lẽ, hơn đâu hết, đất Mỹ Tho thuộc loại “phong hồi thủy tựu” và một trong nhiều thủy tựu đó, có sông Bảo Định tức kinh Trạm khi xưa đã góp phần làm nên danh tiếng địa linh.

Cậu Út nói:

– Tiếng là rạch Bến Chùa nhưng từ thời cha sanh mẹ đẻ tới giờ, tui chỉ thấy bến còn chùa thì không! Thủy tựu ngoài vàm rạch nối sông Bảo Định nơi Hốc Đùn đã tới từ nẳm, còn hồi phong con đò ngang Bến Chùa đợi mãi chẳng sang.

Mợ Út không cự điều chồng nói, chỉ thầm cãi trong bụng điều chồng nói, nhưng ngại lòng chẳng dám tỏ phân.

Ngoại nghe mỉm cười!

❖ 2 ❖

Chuyện kể rằng:

Có người con gái theo cha chạy loạn từ vùng quê có hai đền Thánh Võ, Thánh Văn; nơi từng “Trạng thiên trạng địa, trạng từ chợ Sịa trạng về” và rất xa xưa đã thành câu thành ngữ “Nhất Huế nhì Sịa” [40] . Dừng chân trên miền đất lạ phương Nam, phong thổ chẳng kém gì cố thổ làng Thủ Lễ: Cũng trũng thấp, đầy cỏ dại nhưng đất trù phú nhờ sự bồi lắng phù sa của con rạch cánh đồng bưng, con kinh Trạm (sông Bảo Định) từ Vũng Gù chảy qua và hơn hết, là sông Mỹ Tho chẳng thua kém sông Bồ. Cha con người con gái đó, cùng một số lưu dân khẩn hoang lập trại ruộng.

Trăng sương mất rừng treo lên cây!

Rừng cây ngày cũ giờ đã là cánh đồng lúa, những vườn cây ăn trái. Kinh rạch thông thoáng, ghe thương hồ thường lui tới mua bán nông thổ sản; người xưa nói chẳng sai: “Đất lành chim đậu”.

Rồi, một đêm rằm mùa bông cúc, có chàng trai thương hồ thả lời theo trăng:

Đồng Nai, Châu Đốc, Định Tường

Lòng anh sổ mộ (con) gái vườn mà thôi.

(Ca dao)

Người con gái Sịa không thể cầm lòng, khi nghe câu hò của chàng trai trong đêm trăng sông nước hữu tình. Vả lại, tâm hồn người con gái Sịa đã thầm kín chất chứa tâm hồn hát ru, hò mái nhì, mái đẩy, hò giã gạo, đồng dao... gợi bao niềm nhớ:

Phá Tam Giang rộng ai ơi

Có ai về Sịa với tôi thì về

Đất Sịa có lịch có lề

Có sông tắm mát, có nghề làm ăn.

(Ca dao)

Hồn quê đi theo tuổi thơ của cô gái đến tận xứ người.

Anh về, em nắm vạt áo, em la làng

Phải để chữ thương, chữ nhớ lại giữa đàng cho em...

(Hò huê tình)

Rồi từ đó, chàng trai thương hồ một đi không trở lại!

Ngôi chùa nhỏ mái lá dừa nước, cột cây mù u được dựng lên và người con gái Sịa, giờ đã là ni cô. Tiếng chuông mõ, lời kinh kệ làm ấm lòng người lưu dân nơi đất khách. Họ năng lui tới chung tay công quả chùa, lập đò ngang nối đôi bờ Nam – Bắc rạch giúp cho dân chúng trong vùng thuận tiện việc đi lại. Lâu dần, người ta gọi đó là Bến đò Chùa.

Những tưởng mảnh đất Bến đò Chùa tuy nghèo nhưng không khó bởi, thiên nhiên ưu đãi miếng ăn, tiếng chuông chùa gạn đục khơi trong lòng người... sẽ là vùng đất hứa miên viễn. Nào ngờ...

Dân binh từ Vũng Gù (Tân An) tới vàm rạch Bến Chùa, ngày đêm ra sức đắp chín đoạn đập trên kinh Trạm (sông Bảo Định) ngăn tàu giặc Pháp. Quản Tu phục kích giết chết viên Trung tá Bourdais tại vàm rạch Bến Chùa, bờ đập cuối cùng trên kinh Trạm [41] . Sau khi chiếm xong thành Mỹ Tho, Pháp quay trở lại đốt phá toàn vùng rạch Bến Chùa, khiến cả ngôi chùa cũng cháy thành tro bụi!

Tương truyền, ni cô của ngôi chùa nghèo đã vận động phụ nữ Mỹ Tho; trong đó, không thiếu vắng các cô gái rạch Bến Chùa tích cực giúp Quản Tu và dân binh trong cuộc ngăn chặn tàu chiến của giặc Pháp. Có lẽ, vì vậy, dân gian có câu hò: “Gái Mỹ Tho mày tằm mắt phụng/ Giặc tới nhà chẳng vụng quơ dao” chăng?

Và, trăm năm sau, dù phải dầm sương đêm với đôi tay chèo xuồng bán vàm thì, gái Mỹ Tho vẫn khẳng định mình:

Đã mang lấy tiếng bán vàm

Bán thời có bán, điếm đàng thời không.

(Ca dao)

Bến Chùa bị giặc tàn phá trước lúc toàn cõi đất Nam Kỳ rơi vào tay Pháp. Trong cảnh hoang tàn của thực vật, cảnh ngộ xác xơ của người trên vùng đất chết, bầy chim trao trảo kéo nhau về nhảy nhót và gieo hạt; rồi những mùa sau, người ta phát hiện trên mặt đất mọc ra giống cây lạ, tán lá sum suê xanh mượt một góc trời!

❖ 3 ❖

Mùa nắng sau Tết, những đứa con nít mũi dãi xanh lè, rún lòi đen thủi... như chẳng cần che cái nghèo của xóm giềng, cái khó của ba má; cả bọn túa ra chơi rượt bắt nhau trong khu vườn cây lạ. Từng chùm nhụy bông trắng sợi li ti bay theo gió rơi đầy tóc, thoang thoảng mùi hương dân dã pha chút đài các danh gia.

Đám con nít trầm trồ loài bông lạ, xúm nhau la rộ mé!

Bông trổ trái tròn và hơi mô phần cuống, thân chạy chỉ sọc hồng trắng từ cuống tới khu đít trái; cũng có những cây cho ra trái cứng, toàn thân màu hồng như má hồng thì con gái; miệng cắn vào giòn tan, ngọt thanh và hầu như, không có vị chua chát. Người Bến Chùa mừng húm, bởi họ tin rằng: “Ni cô nơi ngôi chùa lá xưa, linh ứng ban tặng họ giống cây có một không hai trên đất Mỹ Tho”. Rồi, họ liên tưởng tới “nước da trắng đẹp” của con gái Mỹ Tho nên họ không ngần ngại mà đặt tên cho trái cây lạ, là mận Hồng Đào! Tùy loại Hồng Đào, họ gọi Hồng Đào sọc, Hồng Đào đá.

Nghe nói, phải đến giữa thế kỷ 20, mận Hồng Đào mới có cơ may được nhơn giống trồng đại trà ở Đạo Thạnh, Trung An và nhứt là, từ ngã ba bến đò Nhà Thiếc tới ngã ba Trung Lương. Nghiễm nhiên, mận Hồng Đào được người đời tôn vinh “đệ nhứt mận” miền Nam với danh tánh “mận Trung Lương”!

Bụi thời gian phủ mờ lên câu chuyện cũ. Tôi thẫn thờ ngồi dưới cội mận Hồng Đào già cỗi, có tuổi sống gấp đôi tuổi đời của tôi đang sống và cố tìm qua bao lớp bụi thời gian đó, coi có còn chút gì lưu dấu tích ngôi chùa xưa. Tuyệt nhiên, cái còn đọng lại trong lòng người chỉ là, con rạch với tên gọi lưu truyền rạch Bến Chùa. Tôi an ủi tôi bằng câu nói của má thuở sanh tiền: “Biển hóa ruộng, tùng bách hóa củi khô”!

Những hàng phượng vĩ trổ bông đỏ trời đại lộ Hùng Vương, thắm hồng các sân trường Nguyễn Đình Chiểu, Lê Ngọc Hân... Trung An, Đạo Thạnh, Trung Lương, Bến Chùa... và tiếng ve nhả sầu trên những vòm cây thì cũng là lúc những chùm mận Hồng Đào chín đỏ mọng nước dưới bầu trời rưng rưng nắng.

❖ ❖ ❖

Mới đó, xem ra đã mấy trăng! Thằng Tây cuốn cờ về xứ “mất đất hồi nào”, Mỹ Tho vẫn là Mỹ Tho của người bổn xứ. Con rạch Bến Chùa vẫn là con rạch Bến Chùa “trơ gan cùng tuế nguyệt” và dường như, nó chờ đợi một điều linh diệu trong sự huyền diệu nhiệm mầu ở đấng Chí Tôn! Chả lẽ, Bến Chùa lại chẳng có chùa!?

Bao đời người Bến Chùa sống hiền lành, chẳng dám manh tâm, để phải:

Trách ai tính chuyện đa đoan

Đã hái được mận lại toan bẻ đào.

(Ca dao)

Và, họ ăn ở với nhau chẳng khi nào dám hó hé bạc tình, bạc nghĩa:

Quýt rụng bờ ao ngọt ngào anh chuộng

Trái mận Hồng Đào rụng cuống anh chê.

(Câu nói lối)

Đêm nghe tiếng xe chạy qua cầu Bến Chùa trên con lộ Đông Dương ngày cũ [42] , tôi mơ... Rồi, một ngày nào đó, sẽ có ngôi chùa được xây dựng lên mảnh đất lưu cữu nơi Bến Chùa xưa!