CHÚ THÍCH
.
[1] Ghe đi phía hữu gọi là “Bát”, ghe đi phía tả gọi là “ Cạy” (Quy ước xuồng ghe đi đêm trên sông rạch miền Nam).
[2] Số lúa gạo tá điền phải nộp tô điền chủ.
[3] Núi Cấm có nhiều vồ nhưng, trong dân gian và nhất là, người tại chỗ chỉ nhắc năm vồ: Vồ Bồ Hông, vồ Đầu, vồ Bà (Bà Chúa Xứ), vồ Ông Bướm, vồ Thiên Tuế .
[4] Ở Nam Bộ có ba nơi lập miếu thờ Gia Long: Mũi Ông Đội (Phú Quốc, Kiên Giang), Nước Xoáy (Lấp Vò, Đồng Tháp), vồ Thiên Tuế (núi Cấm, An Giang). Theo truyền miệng dân gian: Tránh quân Tây Sơn “ truy cùng diệt tận” , Nguyễn Ánh tạm trốn ở núi nầy, chờ thời cơ chạy ra Phú Quốc. Sợ lộ, đoàn tùy tùng Nguyễn Ánh phao tin dữ, cấm dân chúng vào núi. Từ đó, núi có tên núi Cấm (?!)
[5] Hai Huyện: Tân Bình, Phước Long, là hai đơn vị đầu tiên được Chúa Nguyễn thiết lập nền hành chính ở miền Nam.
[6] Ý nói “Sáu tháng đồng khô đi bộ, sáu tháng đồng nổi nước đi xuồng ghe”.
[7] Sông Sở Thượng: Là con sông quan trọng nhất phía Tây Bắc tỉnh Đồng Tháp, bắt nguồn từ Ba Phnom (Kampuchia) chảy theo hướng sông Tiền và đổ ra rạch Hồng Ngự. Chiều dài khoảng 65km, rộng trung bình khoảng 80m với lưu vực khoảng 860km 2 . Ở thượng lưu rất nông, càng gần đến sông Tiền càng sâu, nơi sâu nhất có thể hơn 9m. Mặc dù chỉ chảy qua tỉnh 15km nhưng lại là một trong những nơi nuôi cá bè tập trung của tỉnh. ( Địa chí tỉnh Đồng Tháp )
[8] Bao gồm cả sông Tông Lê Sáp (chạy theo hàng dọc); giữa nơi cư trú vùng ngập và các nhánh sông (chạy theo hàng ngang); giữa dòng chính sông Mê Kông và tiểu lưu vực sông Sê San (bao gồm cả sông Sê Công và sông Srê Pốc). Theo “Di cư của cá sông Mê Kông” Anders F. Poulsen, Ouch Poeu, Sitavong Viravong, Ubolratana Suntonratana và Nguyễn Thanh Tùng.
[9] Theo Tự vị tiếng nói miền Nam trang 103 của Vương Hồng Sển.
[10] Vương quốc Chân Lạp (550 – 802)
[11] Vương quốc Sailendra ở đảo Java, thuộc Indonesia ngày nay.
[12] Vương quốc Khmer (802 – 1432)
[13] Gia Định thành thông chí , Trịnh Hoài Đức.
[14] Trống Đình Làng , thơ Trần Bảo Định.
[15] Trống Đình Làng , thơ Trần Bảo Định.
[16] Năm 1782, Nguyễn Huệ dùng hỏa công tiêu diệt trên 400 chiến thuyền của quân Nguyễn Ánh do tướng Tống Phước Thiêm thống lĩnh và 4 chiếc tàu Pháp do Manuel chỉ huy (Manuel chết thiêu cùng tàu).
[17] Ngã Bảy, nơi hội tụ các mối sông rạch, kinh xáng: Sông Cái Côn, sông Búng Tàu, rạch Mang Cá, rạch Lái Hiếu, xẻo Môn, xẻo Dong, kinh xáng Phụng Hiệp – Sóc Trăng.
[18] Than Năm Căn, than Tân Bằng, chiếu Tân Duyệt, ba khía Rạch Gốc, cá thác lác Cái Tàu, sấu Đầm Bà Tường, rau cải Cái Keo, mật U Minh...
[19] Theo dân gian bổn xứ Ngan Dừa thì, chữ Ngăn đọc trại ra Ngan và lâu ngày thành chính danh. Từ đó, địa phương có nhiều tên gọi khởi đầu chữ Ngan, như: Ngan Vọp (nhiều Vọp), Ngan Trâu (cầm trâu nhiều), Ngan Mồ (nhiều mồ mả), Ngan Kè (nhiều cây kè cùng họ dừa cạn).
[20] Hương quản: Chức việc đứng thứ 7 trong Ban Hội tề làng, xã, còn gọi “Hội đồng làng”, gồm 12 vị: Hương cả, Hương chủ, Hương sư, Hương trưởng, Hương chánh, Hương bộ, Hương giáo, Hương quản, Hương thân, Xã trưởng, Hương hào, Chánh lục bộ (Nghị định ngày 27 Aout, 1904 của nhà cầm quyền Pháp). Theo “Pháp chế sử Việt Nam”, GS. Vũ Quốc Thúc, Tủ sách Đại học, Sài Gòn 1966.
[21] Long Mỹ thời Pháp thuộc là quận thuộc tỉnh Rạch Giá, nay là thị xã thuộc tỉnh Hậu Giang.
[22] Sông Hậu.
[23] Cù lao Duông: Cù lao người Việt. Huỳnh Dung Châu, Hổ Châu, Kắc Tung, Chằng Bè, Duông và sau nầy, là cù lao Dung. Cửa Ba Thắc đã bị phù sa bồi lấp, nhiều cồn bãi nổi lên ngăn dòng chảy trong đó có cồn Tròn với rạch cồn Tròn khiến Ba Thắc mất dấu.
[24] Đô đốc Nguyễn Văn Vàng bị quân Tây Sơn giết trên sông Khoa Giang (Cà Mau). Về sau, dân gọi sông Ông Đốc; ngày nay gọi sông Đốc và có thị trấn Sông Đốc.
[25] Giồng Long Tử, Mã Tộ (có Chùa Dơi), Bến Bò, Sóc Vồ, Phú Nổ, An Trạch, Trường Khánh.
[26] Giồng Sơn Qui có một cái giếng lớn, hình vuông, quanh năm nước ngọt trào mặt giếng.
[27] Theo tác giả Huỳnh Minh: Hồng Huê (Phan Văn Huê?) đến làng Vĩnh Thạnh khai hoang lập điền và sau đó, lập chợ (sách Gò Công Xưa và Nay ).
[28] Năm 1899, Thành Thái cho dựng tấm bia khác cho mộ Phạm Đăng Hưng, nội dung bia ký như tấm bia đã bị Đại úy Barbé cướp. Đúng 100 năm sau, kể từ khi Thành Thái cho dựng bia và 140 năm, kể từ Đại úy Barbé cướp, tấm bia do Tự Đức làm cho mộ ông ngoại đã trở về mộ ông ngoại (1999).
[29] “Nhà việc” thời Pháp thuộc cũng như trụ sở UBND xã bây giờ.
[30] GS Lương Định Của (1920 – 1975), sinh tại xã Đại Ngãi, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Nguyên Viện trưởng Viện cây Lương thực và cây Thực phẩm, ông đã lai tạo giống lúa Ba Thắc (Sóc Trăng) với giống lúa Kun Ko (Nhật) ra giống lúa “Nông nghiệp 1”, đã đưa vào sản xuất tại Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ 20.
[31] Ất Hợi (1755), chùa nguyên là sắc tứ Kim Chương, chùa sắc tứ Phổ Quang, chùa sắc tứ Thiên Trường. Năm 1859, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Hòa thượng Minh Giác cùng chúng tăng chuyển ngôi quốc tự và Phật tượng về Cái Bè; đồng thời đổi tên Hội Thọ Tự.
Hiện nay, Hội Thọ Tự tại ấp Mỹ Hưng, xã Thiện Trí, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
[32] Có bản ghi địa danh Châu Đốc.
[33] Cạnh chùa Kim Chương là chợ Điều Khiển (nay đã mất dấu, áng chừng khoảng Nguyễn Trãi – Cống Quỳnh). Điều Khiển là chức quan thống nhiếp tất cả quan binh ở 5 dinh thuộc Gia Định: Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ. Trương Phước Vĩnh (1731) quan Điều Khiển đầu tiên đến 1774, Nguyễn Cửu Đàm ủy quyền cho Tống Phước Hiệp, Dương Công Trừng (1782)* Theo Đại Nam Thực Lục , tập 1. Năm 1795, Nguyễn Ánh cho xây miếu Hiền Trung cạnh chùa Kim Chương để thờ các vị công thần, đứng đầu là Võ Tánh, Ngô Tùng Châu. Pháp gọi miếu Công Thần (Temple des Grands Dignitaires) hoặc chùa Hiền Trung (Pagode de la Fidélité Éclatante) và sau nầy là thành Ô Ma (Camp aux Mares) nằm trên đường Võ Tánh (cũ), nay là đường Nguyễn Trãi, thuộc phường Nguyễn Cư Trinh, Q.1.
[34] Nguyễn Ánh sử dụng theo niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê, lấy ấn “Đại Việt quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn chi bửu” làm ấn truyền quốc.
[35] Tức Nghi Thiên Hoàng thái hậu hay còn gọi Từ Dũ Hoàng thái hậu (con gái Lễ bộ Thượng thư Đức quốc công Phạm Đăng Hưng) lấy vua Thiệu Trị.
[36] Theo dân gian, nguơn đời là sáu mươi năm.
[37] Lúc 1 giờ 30 phút trưa ngày 12.4.1861, đoàn tàu chiến của tướng Page đã chiếm lĩnh thành Mỹ Tho. Ngày 14.4.1861, quân thủy bộ của Trung tá Desvaux vào trong thành.
[38] Từ năm 1731 tới năm 1851.
[39] “Cả tỉnh Mỹ Tho nầy, anh đành bụng có mình em.”
[40] Theo Lê Hữu Giãn.
(5) Pháp đánh thành Mỹ Tho từ ngày 26.3.1861 và kết thúc ngày 14.4.1861 (có sách ghi ngày 12 hoặc 15.4.1861).
[41] Trung tá Bourdais bị giết vào chiều ngày 10.4.1861 trên pháo hạm số 18.
[42] Quốc lộ 1A.
[43] Đất phương Nam ngày cũ và Ông già Nam Bộ nhiều chuyện – Dấu chưn lưu dân, Ông già Nam Bộ nhiều chuyện – Góc khuất dưới chưn đèn , Trần Bảo Định, Phương Nam Book, 2017.