Chương 4
Mùa đông khi Gađacđô không ở trại Rinhcônađa, một nhóm bạn bè tụ họp ở nhà anh trong phòng ăn sau những bữa ăn tối.
Những người đến đầu tiên bao giờ cũng là bác thợ yên ngựa và vợ bác, không kể hai đứa con của hai bác ở thường xuyên tại nhà Gađacđô. Cacmen vui lòng cho hai đứa cháu nhỏ tuổi nhất ở với chị có lẽ vì sự im lặng của ngôi nhà rộng quá đè nặng lên tâm tư chị và chị muốn quên cảnh hiếm hoi của mình. Hai đứa bé, một phần do tình cảm tự nhiên một phần do bố mẹ chúng đã dặn kỹ, luôn luôn nũng nịu với người mợ xinh đẹp và người cậu hào phóng, hết hôn hai người lại khò khè trên đùi họ như những con miu con.
Anhcacnaxiông bây giờ cũng xồ xề như bà mẹ với cái bụng biến dạng sau nhiều lần chửa đẻ và mép bắt đầu có ria do tuổi tác. Bác vừa cười một cách xu nịnh với người em dâu vừa phàn nàn rằng mấy đứa con của bác làm phiền mợ quá. Cacmen chưa kịp đáp thì bác thợ yên ngựa đã nói xen vào:
- Mình đừng mắng chúng nó! Chúng nó yêu cậu mợ chúng nó lắm! Nhất là con bé, nó không thể sống xa mợ Cacmen của nó...
Hai đứa trẻ ở đây y như ở nhà mình. Với sự tinh quái trẻ thơ, chúng đoán biết bố mẹ chúng muốn chúng làm gì: chúng ra sức tán tỉnh, nhõng nhẽo cậu mợ giàu có mà chúng thấy mọi người kính nể. Bữa cơm tối vừa xong là chúng hôn tay bà Aoguxtiax và bố mẹ, ôm lấy cổ Gađacđô và Cacmen rồi rời phòng ăn để đi ngủ.
Bà cụ ngồi trong chiếc ghế bành ở đầu trên của bàn ăn. Khi anh matađo có khách khứa, hầu như bao giờ họ cũng là những người có địa vị trong xã hội làm cho bà mẹ không muốn ngồi vào ghế danh dự. Nhưng con trai bà phản đối:
- Thôi nào mẹ! Chỗ cao nhất là chỗ mẹ có quyền ngồi. Mời mẹ ngồi xuống đây, nếu không chúng con cũng sẽ không ngồi.
Rồi anh đưa cánh tay cho bà vịn, dẫn bà đến cái ghế bành của bà, nói với bà những lời âu yếm nhất, dường như anh muốn đền bù những cái vất vả mà anh đã gây ra cho bà trong thời niên thiếu của anh.
Buổi tối khi Người Quốc dân đến chơi nhà đội trưởng, vì bác muốn làm bổn phận của người thuộc hạ, thì cuộc họp mặt vui nhộn hẳn lên.
Gađacđô mặc cái áo damara(1) sang trọng như một địa chủ nông thôn, để đầu trần và món tóc côlêta ốp xuống tận trán, tiếp người banđêridiêrô của mình với vẻ thân mật bông đùa. Anh nói:
- Giới hâm mộ nói thế nào? Họ phao những tin nhảm gì. Công việc nước Cộng hòa đi đến đâu rồi?
- Garabtô, anh nói tiếp, rót cho bác ấy một cốc rượu vang.
Nhưng Người quốc dân từ chối không uống. Bác nói:
- Tôi không uống. Tôi không uống rượu bao giờ. Nếu tình hình của công nhân lạc hậu một cách thảm hại như hiện nay, chính là lỗi tại rượu.
Mọi người cười ồ, dường như Người Quốc dân đã thốt ra một câu rất ngộ mà ai nấy đang chờ đợi. Rồi Xêbatchiêng (2) lại tiếp tục nói kiểu đó.
Người duy nhất ngồi im với cặp mắt đầy ác cảm là bác thợ yên ngựa. Bác ghét Người Quốc dân mà bác coi như kẻ thù. Cũng là một người chồng thành thực và trung thành, Xêbatchiêng cũng mắn con và một bầy nhóc ríu rít trong tiệm rượu quanh gấu váy mẹ. Hai đứa bé nhất là con đỡ đầu của Gađacđô và Cacmen. Thành ra anh matađo và người banđêridiêrô gắn bó với nhau bằng quan hệ cùng là cha của mấy đứa trẻ.
"Thằng đạo đức giả! Chủ nhật nào nó cũng dẫn đến nhà cậu mợ Gađacđô hai đứa con ăn mặc diêm dúa nhất để hôn lên tay bố mẹ đỡ đầu!". Bác thợ yên ngựa tức uất tái mặt mỗi khi các con của Người Quốc dân nhận được một món quà. "Chúng nó đến ăn cắp của con mình, bác nói, Thằng láu cá ấy có thể nghĩ rằng một phần gia tài của Gađacđô sẽ về tay mấy đứa con đỡ đầu! Ôi chao! Thằng ăn cắp! Một kẻ không phải là người trong gia đình!...".
Khi nào bác thợ yên ngựa không trả lời những bài diễn thuyết của Người Quốc dân bằng thái độ im lặng lầm lì và con mắt đầy hận thù, bác tìm cách sỉ nhục người banđêridiêrô bằng cách tuyên bố rằng theo ý bác điều mà người ta cần làm và làm ngay tức khắc là xử bắn kẻ nào gieo rắc trong nhân dân những tư tưởng sai lầm và phiến loạn, vì đó là một mối nguy cơ cho những người lương thiện.
Người Quốc dân nhiều hơn đội trưởng của mình mười tuổi. Khi Gađacđô mới bắt đầu đi múa áo choàng, bác đã là banđêridiêrô trong những đội đấu chính thức. Bác đã làm một chuyến sang châu Mỹ, đã giết bò ở Lima. Khi mới vào nghề bác cũng có tiếng tăm phần nào vì khi đó bác trẻ và nhanh nhẹn. Trong vài tháng, bác cũng được coi là "đấu sĩ của ngày mai", và những nhà hâm mộ đấu bò ở Xêvilơ rất chú ý đến bác, hy vọng rằng bác sẽ làm lu mờ matado của các tỉnh khác. Nhưng tình hình đó không bền. Từ châu Mỹ bác mang về uy tín của những thành tích xa xôi và lờ mờ, công chúng đổ xô đến đấu trường Xêvilơ để xem bác giết bò ra sao. Chẳng may trong cuộc thử thách có tính chất quyết định ấy, bác "rét" như những người hâm mộ đấu bò thường nói. Bác cắm cây banđêri một cách vững vàng xứng danh là một người nghiêm chỉnh làm việc có lương tâm, nhưng đến khi phải giết con bò thì bản năng sinh tồn, mạnh hơn ý chí, khiến bác đứng quá xa con thú và không dám lợi dụng những ưu điểm về chiều cao và sức mạnh cánh tay của bác.
Thế là Người Quốc dân không dám mơ ước những vinh quang tột đỉnh của môn đấu bò nữa. Bác thành một người banđêridiêrô không hơn. Bác đành làm một cùng đinh trong nghệ thuật ấy, phụ thuộc vào những "sư phụ" trẻ hơn, chỉ kiếm được đồng lương xoàng của một pêông để nuôi sống gia đình và tiết kiệm ít tiền cần thiết để mở một cửa hàng nhỏ. Tính trung thực và sinh hoạt đứng đắn của bác nổi tiếng trong giới mang côlêta. Vợ đội trưởng của bác rất mến bác và coi bác như một vị thần hộ vệ trông nom lòng chung thuỷ của anh matađo. Về mùa hè, mỗi khi Gađacđô giết bò xong, và cùng đồng đội vào một quán cà phê có ca nhạc của một thị trấn, nôn nóng vui chơi và trác táng thì giữa các cô ca sĩ mặc đồ sa mỏng, mắt môi bôi xanh xanh đỏ đỏ. Người Quốc dân cứ nín lặng và nghiêm trang hệt một Đức Cha Sa mạc đứng giữa những cô gái giang hồ thành Alêchxăngđri. Không phải là bác khó chịu, mà là bác nghĩ đến vợ con đang chờ bác ở Xêvilơ. Bác cho rằng tất cả những sai lầm thói tật trên đời này đều do không có văn hóa mà ra và bác tin chắc rằng các cô gái tội nghiệp kia không biết đọc biết viết. Đó cũng là trường hợp của bác. Theo ý bác, khuyết điểm ấy mà bác cho là nguyên nhân của sự hèn kém và nông cạn của trí tuệ bác, đủ giải thích mọi cái khổ cực xấu xa trên đời này.
Thời trẻ, bác là công nhân ở một xưởng đúc và bác thường lắng tai nghe những đồng nghiệp may mắn hơn bác nên có thể đọc to lên những điều nói trong mấy tờ báo trung thành với lợi ích của nhân dân. Trong phong trào Quốc dân quân, bác đã nhập ngũ, xung vào một tiểu đoàn đội mũ đỏ tượng trưng cho ý chí liên hiệp không khoan nhượng. Bác đã đứng hàng buổi trước khán đài ở quảng trường, nơi mà các hội đoàn tổ chức họp liên tục và các diễn giả thay nhau diễn thuyết miên man từ sáng đến tối về tính linh thiêng của Chúa Jêxu và về tình hình lên giá của các nhu yếu phẩm.
Đến thời kỳ bị đàn áp, một cuộc đình công làm cho bác lâm vào cảnh khó khăn của một người thợ bị để ý vì tư tưởng cách mạng. Không có người chủ nào muốn thu nhận bác vào xưởng của mình.
Vốn yêu thích các cuộc đấu bò, bác quay ra làm đấu sĩ lúc hai mươi bốn tuổi, trong khi bác có thể chọn bất kỳ nghề nào khác. Bác hiểu biết nhiều và nói một cách khinh bỉ về những cái vô lý của xã hội hiện nay. Bỏ ra bao nhiêu năm để nghe đọc báo chẳng lẽ vô ích sao? Dù kém cỏi đến đâu trong ngành đấu bò, bác cũng kiếm được nhiều tiền hơn và sống dễ chịu hơn một người thợ, kể cả thợ giỏi. Để ghi nhớ thời bác còn cầm súng trong đội Quốc dân quân, người ta mệnh danh bác là Người Quốc dân.
Mặc dầu đã làm lâu năm trong ngành đấu bò, bác vẫn tỏ ý tiếc và thanh minh vì sao mình bước chân vào nghề đó. Quận ủy của đảng bác tuy ra quyết định khai trừ tất cả các đảng viên đi xem đấu bò vì đó là cảnh tượng dã man lạc hậu, nhưng đã áp dụng ngoại lệ đối với bác và vẫn để bác làm đảng viên chính thức.
Bác nói trong phòng ăn của Gađacđô: - Tôi chẳng lạ gì rằng các cuộc đấu bò có tính chất phản động... có một cái gì nhắc tới thời kỳ Pháp đình tôn giáo. Tôi xin lỗi, nếu như không giải thích được rõ hơn... Biết đọc biết viết cũng cần cho mọi người chẳng kém gì bánh mì và việc bỏ tiền ra xem chúng ta đấu trong lúc trường học còn thiếu là một tội lỗi. Các báo ở Mađrit đã khẳng định như vậy và họ rất có lý... Tuy vậy các đồng chí của tôi mến tôi và quận ủy tuy bị Đông Hôxêlitô khiển trách về vấn đề này, vẫn để tên tôi trên danh sách đảng viên.
Thái độ bình tĩnh của bác không hề bị lay chuyển trước những lời châm chọc, khôi hài điên cuồng của Gađacđô và các bạn anh khi nghe bác nói như vậy. Điều đó chứng tỏ rằng bác rất hài lòng và kiêu hãnh về cách đối xử đặc biệt của các đồng chí của bác đối với bác.
Đông Hôxêlitô, một thầy giáo quèn trường sơ học, một người hay nói và đầy nhiệt tình, đứng đầu quận ủy. Đó là một thanh niên gốc Do Thái, hăng hái trong các cuộc đấu tranh chính trị giống bảy anh em Mắccabêô (3) và hãnh diện về bộ mặt xấu xí màu xanh vàng và rỗ chằng rỗ chịt của mình vì nó làm cho anh trông hơi giống Đăngtông(4). Người Quốc dân cũng há hốc mồm ra nghe khi anh ta nói.
Mỗi khi ông ủy quyền và các bạn của Gađacđô công kích mỉa mai và phản đối quá đáng những quan điểm của Người Quốc dân thì bác ta lúng túng gãi đầu trông rất tội nghiệp:
- Các vị là những ông nọ ông kia, các vị đã được học, còn tôi thì tôi chẳng biết đọc biết viết. Chính vì thế mà những người thuộc giai cấp thấp mới dốt như bò. Chao ôi! Giá mà Đông Hôxêlitô có mặt ở đây nhỉ!... Cha mẹ ôi! Tôi rất muốn các vị được nghe anh ấy nói, anh ấy không chuẩn bị gì cả mà nói hay không chê vào đâu được.
Để củng cố lòng tin của mình hơi bị lung lay sau những trận tấn công kịch liệt của bọn người chế giễu, hôm sau Người Quốc dân đi gặp Đông Hôxêlitô. Là cháu chắt của những người tử vì đạo vĩ đại, Đông Hôxêlitô hình như cảm thấy một niềm khoái lạc chua chát khi cho Người Quốc dân xem "bảo tàng rùng rợn" của mình. Anh chàng Do Thái này khi trở về quê cha đất tổ, đã thu thập một số di vật thời Pháp đình tôn giáo rồi đem trưng bày trong một gian phòng của trường học. Anh làm việc đó một cách tỉ mỉ phục thù như một người tù vượt ngục lắp dựng lại từng mẩu xương của tên cai ngục. Ở gian phòng đó trong các ngăn tủ, xếp hàng dẫy những quyển sách bằng giấy da dê đóng gáy thuật lại những cuộc thiêu người, những lời thẩm vấn người bị cáo trong khi tra tấn. Trên tường căng một lá cờ trắng có hình cây thập giá xanh đáng sợ. Trong các góc phòng chồng chất những dụng cụ tra tấn kinh khủng, mà Hôxêlitô đã tìm thấy ở các cửa hàng bán đồ cũ, những đồ dùng để chém, để kẹp, để băm. Anh xếp ngay những vật ấy vào mục lục y như những đồ cổ lấy từ Ủy hội Pháp đình tôn giáo ở Rôma.
Người Quốc dân vốn hiền lành chất phác, dễ công phẫn nên rất giận khi trông thấy những đồ sắt gỉ ác nghiệt ấy và những cây thập giá xanh.
- Ôi chao ơi! Thế mà có kẻ nói rằng... Trời đất ơi!... Tôi chỉ muốn người ta đến đây mà xem...
Bác rất muốn cải giáo người khác, cho nên bác phô trương quan điểm của bác trong mọi trường hợp, bất chấp những lời giễu cợt của bạn bè. Nhưng ngay trong khi làm việc đó, bác tỏ ra rất hiều hậu vì không bao giờ bác dùng những lời lẽ kết tội cay độc. Theo bác, những người không quan tâm đến vận mệnh của nhân dân và không nằm trong danh sách đảng viên của đảng bác chỉ là những "nạn nhân đáng thương của chính sách ngu dân". Muốn thoát khỏi tình trạng đó, nhân dân phải được học đọc học viết. Riêng đối với bác, bác đành nhũn nhặn không dám tự cải tạo vì bác cho rằng đầu óc của bác đã quá rắn mất rồi, nhưng bác cho rằng toàn thế giới phải chịu trách nhiệm về sự dốt nát của bác.
Vào mùa hè, khi đội đấu của Gađacđô đi xe lửa từ tỉnh này sang tỉnh khác, người matađo ấy bước từ toa hạng nhất sang chơi với đồng đội ở toa hạng nhì, bỗng cửa toa mở ra, một cha xứ thôn quê hoặc vài thầy dòng bước vào. Thế là các banđêridiêrô lấy khuỷu tay hích nhau và liếc nhìn Người Quốc dân. Trông thấy kẻ thù, bác đột nhiên trở thành nghiêm trang hơn. Hai picađo Pôtagiê và Tragabuchơ vốn thô lỗ, hay gây gổ cãi cọ và rất ghét thầy tu, thì thầm kích bác:
- Họ rơi vào tay cậu đấy! Cậu cho họ một chùy đi!... Xổ cho họ một câu chế giễu kiểu của cậu đi!...
Gađacđô lấy quyền đội trưởng không cho phép ai chống lại, anh trừng mắt nhìn Người Quốc dân, nên bác đành ngậm miệng. Nhưng ở trong lòng bác có một cái gì mạnh hơn ý thức phục tùng, đó là nhiệt tình cải giáo người khác; thế là một câu nói chẳng đâu vào đâu đủ làm cho con người chất phác ấy bập ngay vào một cuộc tranh luận với mấy người mới đến và cố sức thuyết phục họ nhận ra chân lý. Nhưng chân lý ấy, theo sự hiểu biết của bác, giống một mớ bòng bong trong đó được nhắc đi nhắc lại một cách lộn xộn những tràng diễn thuyết của Đông Hôxêlitô. Các bạn của bác ngạc nhiên về sự hùng hồn của bác, giương to mắt, khoái chí thấy bạn mình đương đầu nổi với những người đã từng học tiếng la tinh và dồn họ vào chỗ lúng túng. Thực ra, cái đó chẳng khó gì vì những người trong hàng giáo phẩm Tây Ban Nha thường ít học.
Mấy tu sĩ, choáng váng trước biện chứng pháp hăng hái của Người Quốc dân và tiếng cười của các đấu sĩ khác, phải xoay đến luận điểm tối hậu của họ: "Sao thế nhỉ? Những người mà tính mệnh luôn luôn bị đe dọa lại không nghĩ đến Thiên Chúa và dám công nhận những điều vô đạo như vậy sao? Lúc này vợ họ, mẹ họ không cầu nguyện để họ khỏi bị nguy hiểm hay sao?...
Thế là các đấu sĩ nghiêm mặt lại với vẻ lo sợ, nghĩ đến những khánh bài và những bùa chú mà những bàn tay phụ nữ đã khâu vào trong chiếc áo đấu của họ lúc họ sắp rời Xêvilơ. Người matađo bị xúc phạm nặng đến lòng mê tín đã vợi đi, rất cáu Người Quốc dân, hình như hành động vô đạo của bác ta gây nguy cơ cho sự cứu rỗi phần hồn của chính anh.
- Im mồm đi đừng nói bậy nữa!... Xin các cha tha lỗi cho cậu ấy. Cậu ấy tốt, nhưng bị nhồi sọ những lời bố láo... Tôi bảo cậu im đi, không được cãi! Đồ quỷ! Cậu mà còn mở miệng thì tôi sẽ nhét...
Để xoa dịu mấy ông tư tế của Thiên Chúa mà anh cho là có quyền lực chi phối tương lai của mọi người, anh mắng chửi Người Quốc dân một thôi một hồi. Còn bác này bị rầy la nên im lặng một cách khinh khỉnh. "Ở đâu cũng chỉ thấy dốt nát mê tín! Bác nghĩ. Vì sao vậy? Vì không biết đọc biết viết...". Với lòng tin không gì lay chuyển nổi của một người chất phác chỉ có vài ba ý nghĩ nhưng bám riết lấy nó ngay cả những khi nó bị lay động dữ dội, vài giờ sau bác lại tiếp tục cuộc tranh luận, bất chấp cơn thịnh nộ của người đội trưởng. Tư tưởng chống giáo hội của bác không rời bác ngay cả trên bãi đấu, giữa những capêađo và những picađo, là những người sau khi cầu khấn ở nhà nguyện của đấu trường, bước vào bãi đấu với hy vọng rằng những vật thánh khâu trong quần áo của họ sẽ làm cho họ tránh được tai họa. Khi một con bò mộng hạng nặng kếch sù, cổ bạch và lông đen kịp bước vào giai đoạn cắm banđêri, Người Quốc dân lại dang hai cánh tay cầm mấy cây banđêri, đi đến gần nó và chọc nó bằng những câu chửi xỏ:
- Ông cố, lại đây!
"Ông cố" nổi giận xông lại và đúng lúc nó phóng sát người bác, bác dùng hết sức cắm cặp banđêri vào bướu cổ nó, đồng thời hét to như tuyên bố chiến thắng:
- Kính tặng giáo hội!
Gađacđô cuối cùng phải bật cười về cái trò kỳ quái của Người Quốc dân.
- Cậu làm cho người ngoài cười tôi. Người ta sẽ để ý đến đội của chúng ta và bảo rằng chúng ta thuộc bè rối. Cậu thừa biết rằng có những khán giả không thích như vậy. Người đấu sĩ chỉ nên là người đấu sĩ mà thôi...
Nhưng tóm lại, anh matađo rất yêu người banđêridiêrô của mình, anh không quên tình quyến luyến của người đó, tình quyến luyến ấy đã nhiều lần đưa tới sự hy sinh. Chẳng sợ khán giả huýt sáo, những khi gặp một con bò nguy hiểm, Người Quốc dân cắm bừa cặp banđêri để xong cho mau. Bác chẳng mơ ước vinh quang, bác hành nghề chỉ để kiếm sống. Nhưng hễ Gađacđô kiếm cầm tay tiến lại gần một con bò dữ tợn, thì bác chạy lại đứng bên anh, sẵn sàng xông cứu anh bằng cái áo choàng to nặng và cánh tay mạnh mẽ đã buộc nhiều con bò phải cúi đầu(5). Có hai lần, Gađacđô ngã lăn dưới đất và sắp bị bò húc, nhưng Người Quốc dân đã xông vào con vật, chẳng nghĩ gì đến vợ con, đến tiệm rượu của mình, đến bất cứ cái gì, quyết chết để cứu đội trưởng.
Bà Aoguxtiax quý mến bác với tình cảm của những người bình dân đối với nhau và làm cho họ gần nhau, ngay cả khi một bên tiến lên địa vị cao hơn.
- Xêbatchiêng, bác ngồi xuống cạnh tôi đây... Thật à, bác không muốn uống gì à?... Bác gái và các cháu vẫn khoẻ mạnh đấy chứ?... Tiệm của bác làm ăn có khá không? Bác kể cho tôi nghe một chút về các chuyện đó đi!
Người Quốc dân kể cho bà nghe tình hình hàng họ trong mấy ngày qua, số rượu đã bán được ở tiệm và số chai trao tại nhà cho khách hàng. Bà chăm chú nghe, vì bản thân bà đã trải qua cảnh nghèo túng và hiểu giá trị của một đồng xu. Rồi bác nói đến khả năng phát triển việc buôn bán của bác. Nếu bác mở được một tiểu bài thuốc lá trong tiệm rượu của bác thì trúng cho bác quá. Chắc Gađacđô có thể xin cái đó cho bác vì anh quen nhiều nhân vật thần thế. Nhưng Xêbatchiêng ngại không muốn xin xỏ một ân huệ như thế.
- Thưa bà, bà cũng biết đó là một việc thuộc quyền chính phủ. Còn tôi thì có những nguyên tắc của tôi. Tôi là đảng viên, tôi là ủy viên ban chấp hành. Nếu tôi làm thế thì các đồng chí của tôi sẽ bảo sao?
Bà cụ trách bác sao lại ngại ngùng như vậy. Bổn phận thực sự của bác là đem về cho gia đình càng nhiều tiền càng tốt. Tội nghiệp bác gái Têrêxa có cả một bầy con!...
- Đừng có ngốc thế, Xêbatchiêng ạ. Bỏ những ý nghĩ gàn dở ấy đi... Không, bác đừng trả lời tôi, đừng tuôn ra với tôi những câu rồ dại mà bác vẫn thường nói. Bác hãy nhớ rằng sáng mai tôi đi lễ ở nhà thờ Macarêna.
Gađacđô và Đông Hôxê lúc ấy đang hút thuốc ở phía bên kia bàn, cốc rượu mạnh để bên cạnh. Hai người thích khêu cho Người Quốc dân diễn thuyết để giễu cợt những tư tưởng của bác và phá rối bác bằng cách nói xấu Đông Hôxêlitô:
- Hắn chỉ là một kẻ lừa bịp làm điên đầu những người ngu dốt như cậu, Xêbatchiêng ạ!
Người Quốc dân tiếp nhận một cách nhân từ những lời chế giễu của Gađacđô và người ủy quyền của anh. Nghi ngờ Đông Hôxêlitô ư? Nói vô lý như vậy không đời nào làm cho bác tức giận được. Có khác nào bảo Gađacđô - một thần tượng khác của bác - là không biết giết bò!
Nhưng khi thấy bác thợ yên ngựa (6) mà bác ghét cay ghét đắng cũng dúng mồm vào việc giễu cợt đó, bác không giữ được bình tĩnh nữa. Thằng đểu ấy ăn bám vào đội trưởng của bác mà dám phản đối những ý kiến của bác à? Thế là bác không còn ôn hòa, bất chấp sự có mặt Cacmen và bà Aoguxtiax, bác xông ngay vào cuộc tranh cãi, trình bày những nguyên tắc của mình một cách nhiệt liệt chẳng khác nào lúc bác tranh luận ở ban chấp hành quận ủy của đảng. Thiếu những lý lẽ tốt hơn, bác thóa mạ vô hồi kỳ trận những điều mà những người thích pha trò kia tin:
- Kinh thánh à? Vớ vẩn!... Cuộc sáng tạo thế gian trong bảy ngày à? Vớ vẩn! Chuyện ông Ađam, và bà Evơ à? Vớ vẩn!... Tất cả những cái đó, chỉ là lừa dối và mê tín!
Từ "vớ vẩn" mà bác dùng để tránh một từ bất kính hơn chỉ tất cả những gì mà bác cho là sai lầm, lố bịch, phát ra từ miệng bác, từ đó mang một âm sắc khinh bỉ kỳ lạ. Chuyện ông Ađam và bà Evơ, đối với bác, là một dịp châm biếm không bao giờ dứt. Bác đã suy nghĩ nhiều về chuyện này vào những lúc im lặng ngủ gà trong các chuyến đi với đồng đội, và bác đã tìm ra một lý lẽ không ai có thể chối cãi, một lý lẽ hoàn toàn của bác nghĩ ra. Làm sao có thể cho rằng tất cả mọi người đều là con cháu của một cặp nam nữ duy nhất?
- Tôi, tên họ của tôi là Xêbatchiêng Vênêga, có phải không ạ? Còn anh Huan, họ của anh là Gađacđo. Còn ông Đông Hôxê, ông cũng có một họ khác. Vì mỗi người chúng ta có một họ riêng, nên khi có những người trùng họ với nhau thì đấy tức là thuộc cùng một họ. Vậy nếu tất cả chúng ta đều là cháu chắt của ông Ađam và tôi giả thiết họ của ông Ađam là Pêrê chẳng hạn - thì tất cả chúng ta đều mang họ là Pêrê mới phải chứ? Cái đó đã rõ chưa ạ?... Vậy thì, vì lẽ mỗi người chúng ta đều có một họ riêng, chúng ta phải kết luận rằng có nhiều ông Ađam và tất cả những điều mà các cha cố kể đều là... vớ vẩn. Nhưng chúng ta quá ư lạc hậu! Chúng ta không có văn hóa và giáo hội lợi dụng sự dốt nát của chúng ta. Hình như tôi vừa mới trình bày rõ rồi.
Gađacđô cười đến lật ngửa người trên ghế, khen diễn giả bằng hai tiếng hoan hô bắt chước tiếng bò rống. Ông ủy quyền với vẻ trang trọng của dân xứ Ăngđaludi chìa tay ra bắt tay và khen bác.
- Xin bắt tay cậu! Cậu nói hay lắm! Cừ hơn cả Caxtêla!(7).
Còn bà Aoguxtiax, một bà già đã kề miệng lỗ thì sợ hãi và nổi giận khi nghe thấy nói năng như vậy ngay trong nhà mình.
- Im đi, Xêbatchiêng! Bác đáng đầy xuống hỏa ngục! Ngậm cái miệng hư hỏng đi, nếu không tôi sẽ đuổi bác ra cửa!... Nếu tôi không biết rõ bác thì... Nếu tôi mà không biết bác là một người trung thực thì...
Nhưng chẳng bao lâu bà lại vui vẻ với người banđêridiêrô vì bà nghĩ tới tình cảm sâu sắc của bác đối với con trai bà và đến những cái bác đã làm trong những giờ phút hiểm nghèo. Hơn nữa, việc một người đứng đắn mô phạm như bác đứng trong đội cạnh những "tướng" ăn chơi là một bảo đảm lớn cho bà và cho Cacmen, vì Gađacđô rất nhẹ dạ, nếu được thả lỏng ắt bị tính thích được phụ nữ khâm phục lôi cuốn.
Người thù địch của các cha xứ và của ông Adam bà Evơ nắm được một bí mật làm cho bác thận trọng và nghiêm nghị mỗi khi bác thấy đội trưởng của bác ngồi cạnh bà Aoguxtiax và Cacmen. Chao ôi! Nếu mấy người phụ nữ ấy cũng biết cái chuyện mà bác biết!...
Người Quốc dân không tán thành quan hệ của Gađacđô với Đônha Xôn (8) mặc dầu một người ban - đêridiêrô như bác tất nhiên phải kính nể đội trưởng của mình. Một hôm, bác dám nói thẳng với Gađacđô, dựa vào việc bác nhiều tuổi hơn anh và thân thiết với anh từ lâu.
- Phải cẩn thận đấy anh Huan ạ! Ở Xêvilơ người ta biết hết cả rồi. Ai cũng bàn tán về chuyện ấy... Tin ấy rồi sẽ lọt đến tai gia đình anh và sẽ sinh ra lôi thôi to!... Anh nghĩ mà xem, bà Aoguxtiax sẽ buồn phiền còn chị Cacmen sẽ rầu rĩ như Đức Mẹ đau khổ... Anh dính phải một kẻ ma quái, nó sẽ gây rắc rối cho anh đấy. Anh phải cẩn thận.
Anh matađo vừa khó chịu vừa thích thú khi nghe nói khắp thành phố biết chuyện tình ái bí mật của mình, nhưng anh giả vờ không hiểu:
- Cậu định nói kẻ ma quái nào? Cậu định dọa tôi cái gì thế?
- Còn ai nữa nếu không phải là cái bà đại quý tộc làm cho dư luận nói rất nhiều về mình? Đó là Đônha Xôn, cháu gái của hầu tước Đờ Môraima, nhà nuôi bò mộng.
Anh matađo mỉm cười không nói gì, trong thâm tâm anh rất khoái thấy người banđêridiêrô của mình biết rõ chuyện, còn Người Quốc dân thì tiếp tục nói bằng cái giọng của một nhà thuyết giáo đã chán chường những cái phù họa của thế gian này.
- Anh Huan ạ, anh phải quên cái bà đó đi. Trên đời này không có gì quý hơn sự yên ấm trong gia đình, nhất là đối với bọn chúng ta không biết gẫy chân què tay về nhà nằm bẹp lúc nào. Vả lại đàn bà cũng là... vớ vẩn. Họ đều như nhau cả và đời ta sẽ hỏng nếu ta rồi bỏ người này theo người khác. Kẻ hầu hạ của anh là tôi đây, trong hai mươi lăm năm qua sống với mụ Têrêxa nhà tôi, tôi chưa hề lừa dối mụ một lần nào ngay cả trong tư tưởng, tuy tôi cũng là đấu sĩ, cũng có những ngày oanh liệt khối gái đẹp theo đuổi chứ không đâu!
Gađacđô chế nhạo những lời lên lớp của Người Quốc dân: "Cậu ấy nói như một vị tu sĩ, ấy thế mà cậu ấy định ăn sống nuốt tươi các vị ấy".
- Này Người Quốc dân, anh nói, sao cậu ngốc thế! Con người sinh ra làm sao thì cứ phải như vậy. Khi có đàn bà đến với ta thì tốt nhất là ta cứ để họ đến. Sống ở đời có được bao lâu! Một ngày kia biết đâu tôi chẳng bỏ mạng ở giữa đấu trường. Vả lại cậu không biết một phu nhân đại quý tộc ra làm sao đâu! Giá mà cậu được thấy phu nhân ấy! Kém gì những đóa hồng trong vườn Ancađa (9), kém gì những đóa nhài thơm lừng Thiên đường!...
Nhưng nhận thấy vẻ mặt rất buồn bực của Người Quốc dân, anh nói thêm một cách ngây thơ dường như muốn làm yên lòng bác:
- Tôi rất yêu Cacmen, cậu cũng biết đấy! Tôi yêu Cacmen chẳng kém gì hồi trước... Song tôi cũng yêu cả người kia. Nhưng không phải là yêu giống nhau... Tôi không thể nào giải thích cho cậu được... Không phải là giống nhau, có thế thôi!
Thế là qua cuộc nói chuyện với anh matađo, người banđêridiêrô chỉ nhận được câu trả lời mơ hồ ấy thôi.
Trong mùa rỗi rãi, Gađacđô không thích gì hơn là được nằm nhà, không phải luôn luôn ngồi xe lửa. Mỗi năm giết một trăm con bò với tất cả những nguy hiểm vất vả của các trận đấu cũng không mệt nhọc bằng những cuộc hành trình kéo liên miên hàng tháng từ thành phố này sang thành phố khác.
Những cuộc đi xa ấy quả là gay go trong những tháng hè, dưới ánh nắng gay gắt, qua những đồng bằng nóng như lửa, trên những toa xe cũ kỹ mái bỏng rẫy. Cái bình nước của đội cứ đến mỗi ga lại được múc đầy nhưng vẫn không đủ để giải khát. Hơn nữa các toa xe đều chật ních, nhân ngày hội hành khách kéo từ quê ra tỉnh để xem hội và dự cuộc đấu bò. Nhiều khi Gađacđô, vì sợ lỡ tàu, vội vã giết con bò cuối cùng rồi vẫn đóng bộ quần áo chiến đấu óng ánh chạy thẳng ra ga và lao lên tàu như một ngôi sao băng giữa các đám hành khách và các xe chở hành lý. Anh thay quần áo trong một ngăn của toa hạng nhất trước mắt hành khách nhưng những người này lại thích vì được đi cùng chuyến tàu với một người có danh tiếng. Ban đêm anh gục đầu xuống gối và mọi người ngồi xích lại để nhường chỗ cho anh. Họ kính nể anh và bảo nhau rằng đến mai con người này sẽ đem đến cho họ cái thú được xúc động khủng khiếp mà không hề nguy hiểm đến bản thân.
Khi anh tới một thành phố đang hội hè, phố xá trang hoàng đầy biểu ngữ và cổng chào, anh còn bị sự tôn sùng cuồng nhiệt của công chúng hành tội trong lúc anh đã mệt nhoài.
Những người hâm mộ tên tuổi anh đón anh ở nhà ga và hộ tống anh đến tận khách sạn. Những người vừa ngủ đẫy mắt và tươi tỉnh ấy vây quanh anh, xô đẩy anh, muốn thấy anh cởi mở và hoạt bát, dường như sự gặp gỡ họ là một niềm vui thú rất lớn đối với anh.
Sau cuộc đấu, nếu không phải lại lên đường ngay chiều hôm đó để đến một đấu trường khác, những dân "sành sỏi" ở địa phương đến khách sạn chúc tụng anh:
- Thế là một lần nữa anh xứng đáng là người matađo số một trên thế giới. Chao ôi! Cái nhát kiếm đâm con bò thứ tư ấy mới ghê chứ!...
- Thế à? Gađacđô trả lời với vẻ lên mặt rất trẻ con. Tôi không đến nỗi tồi chứ?
Họ nói liên miên, chẳng quản ngại gì đến giờ giấc đang trôi đi. Trời đã tối, những ngọn đèn khi đã thắp, thế mà họ vẫn chưa chịu rời. Tuân theo một kỷ luật truyền thống, các đội viên đứng im lặng chờ lệnh của đội trưởng trong một góc phòng, không được cởi quần áo hoặc đi ăn chừng nào anh matađo chưa cho phép.
Các picađo mệt lử vì hai chân vẫn bị bó trong giáp sắt và do những lần ngã ngựa kinh khủng, vo tròn giữa hai đầu gối chiếc mũ dạ cứng queo của mình. Các banđêridiêrô, người nịt cứng trong bộ quần áo lụa và đẫm mồ hôi, rủa thầm những người khách ngồi dai như đỉa đói.
Nhiều khi không phải chỉ có một cuộc đấu duy nhất và trong ba bốn ngày liền anh matađo phải giết nhiều bò. Đến tối, anh mệt nhoài nhưng không sao nhắm mắt được vì những xúc động mới rồi vẫn kích thích thần kinh. Chẳng cần lịch sự nữa, anh ngồi hóng mát ở cửa khách sạn, chỉ mặc độc một cái áo sơ mi. Các đội viên trú ở cùng một khách sạn với anh, đứng bên cạnh "sư phụ" của mình như những học sinh bị phạt. Được một lúc, một người táo bạo hơn cả liền xin phép đi dạo chơi một vòng quanh những phố treo đèn và khu hội chợ.
- Không được! anh matađo kêu lên, đến mai chúng ta phải đấu với những con bò Miura. Tôi không biết cậu nói "một vòng" là thế nào. Rồi đến tảng sáng mai cậu mới về, bí tỉ và đã mất một phần khí lực trong một cuộc trai gái nào đó rồi. Không! Không!... Tôi cấm ra phố. Khi nào xong việc, cậu sẽ thỏa mãn cơn thèm của cậu.
Và một khi việc xong, nếu được vài ngày tự do trước khi đấu trận sau ở một thành phố khác, đội hoãn lên đường. Thế là diễn ra những cuộc chè chén lu bù của những người xa gia đình, những cuộc trác táng tha hồ rượu và gái cạnh những người hâm mộ đấu bò là những người cho rằng cuộc sống của các thần tượng của họ không thể nào khác được.
Lịch các ngày hội buộc anh matađo phải đi lại một cách kỳ quặc. Hôm nay anh rời một thành phố để tới đầu kia của nước Tây Ban Nha, rồi bốn ngày sau anh lại quay lại một nơi ở ngay cạnh thành phố ấy. Trong những tháng hè là những tháng có rất nhiều cuộc đấu, anh hầu như sống trên xe lửa, luôn luôn đi vòng vèo trên tất cả mọi tuyến đường sắt của bán đảo, ngày thì giết bò, đêm thì ngủ trên toa xe. Anh nói:
- Nếu đem xếp thành một hàng tất cả những cây số mà tôi phải vượt qua trong mùa hè, có lẽ ít nhất nó phải dài tới bắc cực.
Vào đầu mùa đấu, anh vui vẻ ra đi, khoái chí thấy các báo luôn luôn nói về anh và nóng ruột chờ anh tới, vả lại anh hy vọng sẽ có những cuộc gặp gỡ bất ngờ, những dịp may do tính tò mò của phụ nữ tạo ra, anh thích thú nghĩ tới những ngày sống ở hết khách sạn này đến khách sạn khác, luôn luôn xúc động. Ngay cả những cái khó chịu của cuộc sống ấy cũng khác cuộc sống buồn tẻ ở nhà tại Xêvilơ hoặc ở vùng núi hiu quạnh Rinhcônađa. Nhưng sau vài tuần sống cuộc sống náo nhiệt kinh khủng mà mỗi buổi chiều chiến đấu kiếm được năm nghìn pêxêta, anh bắt đầu than thở như một đứa trẻ sống xa bố mẹ:
- Chao ôi! Nhà tôi ở Xêvilơ mát biết chừng nào, sạch như lau nhờ bàn tay của vợ tôi. Chao ôi! Mẹ tôi nấu những món xốt mới tuyệt chứ, những món xốt làm người ta phải nhỏ dãi!...
Anh chỉ quên Xêvilơ trong những buổi tối rỗi rãi khi không có cuộc đấu nào vào hôm sau, và toàn đội ngồi với những người hâm mộ muốn để lại cho các đấu sĩ một kỷ niệm êm ái về thành phố của mình, trong một tiệm cà phê có ca nhạc mà tất cả phụ nữ - gái và cô ca sĩ - đều dành cho người matađo.
Sau mùa đấu, trong thời kỳ nghỉ ở nhà, Gađacđô hưởng cái thú của một vĩ nhân, tạm quên danh vọng để sống một cuộc đời bình thường như mọi người, thoát khỏi sự câu thúc của giờ giấc xe lửa, không còn phải lo nghĩ đến bò mộng. Anh dậy rất muộn. Anh không phải làm gì cả hôm nay, cả ngày mai, cả ngày kia! Những cuộc hành trình của anh không xa quá phố Rắn hoặc quảng trường Xăng Fecmanđô. Ở nhà anh, tình hình thay đổi hẳn: biết chắc rằng anh sẽ ở nhà được vài tháng, ai nấy vui vẻ hơn và khoẻ mạnh hơn.
Anh đi dạo, chiếc mũ dạ hất về phía sau đầu, chiếc can có núm vàng vung vẩy, anh thỏa mãn nhìn những chiếc nhẫn kim cương to tướng đeo ở ngón tay. Nhiều người đứng chờ anh ở phòng ngoài, gần cổng ra vào để lộ qua những chấn song sắt cái sân trắng toát sáng loáng và sạch như lau. Ở đó có những người da cháy nắng, mình nồng nặng mồ hôi, khoác chiếc áo lao động bẩn thỉu và đội cái mũ có vành rộng xơ xác. Đó là những công nhân nông nghiệp đi từ xứ này qua xứ khác và trong khi đi qua Xêvilơ họ thấy là hoàn toàn tự nhiên cái việc họ đến xin người matađo danh tiếng mà họ gọi là "Ngài Huan" giúp đỡ chút ít. Cũng có những người dân Xêvilơ xưng hô cậu cậu tớ tớ với Gađacđô. Gađacđô với cái tài nhớ mặt như hầu hết những ai quen sống giữa quần chúng, nhận ra những người ấy mà không phật ý về cách xưng hô ấy. Đó là những bạn học cũ của anh hoặc những người quen anh từ thời niên thiếu lang thang của anh.
- Chao ôi, chúng tớ làm ăn chẳng ra sao cả! Thời buổi này thật khó khăn.
Trước khi tình thân mật khiến họ mạnh dạn tâm sự sâu hơn, Gađacđô đã quay về phía Garabatô vẫn đang đứng giữ cái cổng mở.
- Mày chạy thưa với bà cho mỗi người này hai đồng bạc.
Rồi anh bước ra phố, miệng huýt sáo, vui thích thấy mình rộng rãi và đời đẹp. Trong tiệm rượu cạnh nhà, lũ con của người chủ tiệm và các khách hàng chạy ra cửa tươi cười, trố mắt nhìn Gađacđô dường như họ chưa trông thấy anh bao giờ.
- Chào các vị! Gađacđô nói.
Một người hâm mộ chạy lại, tay cầm cốc rượu. Nhưng anh từ chối:
- Cảm ơn, tôi không uống!
Anh tránh thoát người hâm mộ và tiếp tục đi. Một lúc sau, trong một phố khác, hai bà bạn cũ của mẹ anh bước tới. Hai bà xin anh đỡ đầu cho đứa cháu của một trong hai bà: con gái bà sắp ở cữ, rể bà vốn là một người cực kỳ hâm mộ Gađacđô và đã nhiều lần, lúc tan cuộc đấu bò, anh ta dùng gậy để bảo vệ thần tượng của mình, nhưng anh ta không dám đứng ra xin nhà matađo lừng danh đặc ân đó.
- Nhưng mà trời ơi là trời! Các người cho tôi là một vú em chăng? Tôi đã có nhiều con đỡ đầu hơn cả số trẻ con ở viện dục anh rồi!
Để đánh tháo, anh khuyên hai bà đi tìm mẹ anh: mẹ anh bảo sao thì anh sẽ làm như thế. Và anh lại tiếp tục đi không dừng chân nữa cho tới phố Rắn, chào người này, cho người nọ hưởng cái vinh dự được đi bên anh một cách thân mật trước mắt những người qua đường.
Anh đến Câu lạc bộ Bốn Mươi Lăm để xem ông ủy quyền của anh có tới đó không. Đó là một câu lạc bộ quý phái chỉ thu nhận một số hội viên rất hạn chế như tên nó chỉ rõ và chỉ bàn những chuyện bò mộng và ngựa. Các hội viên của nó đều là những người hâm mộ đấu bò giàu có hoặc những người nuôi bò nhiều tiền, đặc biệt là hầu tước Đờ Môraima, người giàu sang nhất mà ai cũng nghe lời như một nhà tiên tri.
Một buổi chiều thứ sáu, trong khi đi dạo chơi, Gađacđô bỗng nảy ra ý ngông là vào nhà thờ giáo xứ Xăng Lôrăngdô. Lúc đó trên sân trước nhà thờ có nhiều cỗ xe lộng lẫy đỗ. Toàn thế giới quý tộc ở Xêvilơ đến đây để cầu nguyện trước tượng Chúa Jêxu Toàn Năng. Các phu nhân bước từ trên xe xuống mặc đồ tang, choàng những chiếc khăn quý, còn các ông thì vào nhà thờ bị thu hút vì thấy nhiều phụ nữ tới đó.
Gađacđô làm như các người khác: một đấu sĩ phải tranh thủ mọi cơ hội để gần những người cao sang. Người con trai của bà Aoguxtiax cảm thấy hãnh diện khi các ông giàu sang chào anh và các bà lịch sự vừa thì thầm tên anh vừa lấy mắt chỉ cho nhau thấy anh. Hơn nữa, anh rất sùng kính Chúa Jêxu Toàn Năng. Anh không quá phẫn nộ và anh dung túng cho Người Quốc dân phát biểu ý kiến của bác về Thiên Chúa hoặc Thiên Nhiên chính vì thánh thần đối với anh là một cái gì mung lung mơ hồ giống một người mà anh chỉ nghe nói đến và do đó anh có thể bình tĩnh khi thấy người ấy bị bôi xấu. Nhưng đối với Đức Bà Đồng Trinh Đáng Trông Cậy và Chúa Jêxu Toàn Năng thì lại là vấn đề khác: anh biết rõ hai vị này từ khi anh còn nhỏ, vì thế anh không cho phép ai đụng đến. Tính đa cảm của một chàng trai mạnh khỏe như anh bị kích động trước nỗi đau đớn bi thảm của Chúa Jêxu vai vác cây thập giá vẻ mặt lo sợ, nhợt nhạt, đầm đìa mồ hôi nhắc anh nghĩ tới một số bạn mà anh đã trông thấy nằm trong trạm cứu thương của đấu trường. Anh thấy cần có quan hệ tốt với Chúa Jêxu Toàn Năng này. Anh bèn sùng kính đọc nhiều lần kinh Lạy Cha trước bức tượng của Người mà ánh nến phản chiếu thành những ngôi sao đỏ lung linh trong cặp mắt người Châu Phi của Người.
Cử động của mấy người phụ nữ quỳ gần anh làm anh sao lãng sự chú ý. Một phu nhân đi lướt qua giữa đám phụ nữ làm họ tò mò nhìn: phu nhân ấy người dong dỏng cao, đẹp lộng lẫy, mặc bộ quần áo màu nhạt, đội mũ cài lông chim để lộ mái tóc vàng óng rực rỡ. Gađacđô nhận ra người đó là Đônha Xôn, cháu gái của hầu tước Đờ Môraima, "bà đại sứ" như người ta thường gọi ở Xêvilơ.
Đônha Xôn đi qua đám phụ nữ không thèm để ý đến vẻ tò mò của họ nhưng thích thú thấy họ nhìn mình và xì xào tên mình dường như cái đó là một sự tôn sùng tự nhiên đối với nàng ở những nơi nàng tới. Nàng quỳ xuống, cúi đầu một lúc như để cầu nguyện, rồi cặp mắt trong veo, xanh biếc và ánh lên những chấm vàng của nàng nhìn quanh nhà thờ một cách bình tĩnh, y như nàng đang ở rạp hát và tìm trong đám khán giả những khuôn mặt quen biết. Ánh mắt nàng tươi cười khi nàng nhìn thấy một người bạn gái, rồi nó lại tiếp tục đảo quanh cho đến khi nó gặp ánh mắt của Gađacđô.
Anh matađo vốn tính không nhũn nhặn. Quen được hàng nghìn hàng vạn người thán phục nhìn anh trong những ngày đấu, anh cứ tưởng rằng con mắt nào cũng phải hướng về anh. Nhiều phụ nữ trong những phút phó thác hoàn toàn đã thú thật với anh rằng sự xúc động, tò mò và thèm muốn đã xâm chiếm lòng họ khi họ trông thấy Gađacđô lần đầu trên bãi đấu. Thế mà nay mắt của Đônha Xôn khi gặp mắt của Gađacđô lại không nhìn xuống, trái lại nàng tiếp tục nhìn xói vào mắt anh với vẻ lạnh lùng của một phu nhân đại quý tộc và chính chàng matađo, vốn lễ phép với những người giàu sang quyền quý, phải đưa mắt nhìn xuống.
"Cô này trông hay thật! Anh nghĩ thầm với tư tưởng tự mãn của một người quen được thiên hạ tôn sùng. Không biết rồi có về tay ta hay không?".
Ở nhà thờ ra, anh cảm thấy không thể nào bỏ đi được và để gặp lại Đônha Xôn, anh đứng lần chần ở gần cổng lớn. Như trong những buổi may mắn mà anh đã trải qua, tâm linh báo cho anh biết rằng đây là một cơ hội kỳ lạ. Tự nhiên anh hồi hộp như những khi ở bãi đấu, cảm giác đó khiến anh gác ngoài tai những tiếng kêu của khán giả muốn can ngăn anh và khiến anh vẫn cứ làm những hành động cực kỳ dũng cảm nhưng bao giờ cũng thắng lợi.
Khi Đônha Xôn bước ra khỏi nhà thờ, nàng nhìn anh lần thứ hai không hề tỏ vẻ ngạc nhiên, dường như nàng đã đoán biết rằng tất nhiên anh sẽ đứng chờ nàng ở gần cửa lớn. Nàng bước lên một chiếc xe ngựa bỏ mui cùng hai người bạn gái rồi khi người xà ích cho ngựa chạy, nàng lại quay đầu về phía anh trong một giây đồng hồ và trên đôi môi nàng thoáng qua một nụ cười.
Gađacđô rất bận tâm trong suốt buổi chiều hôm ấy. Anh nghĩ đến những lần may mắn trước, đến những chiến thắng mà phong cách đấu sĩ hiên ngang vẫn đem lại cho anh, đến những cuộc chinh phục đã làm anh vô cùng tự hào và tin rằng không ai có thể cưỡng lại anh nhưng bây giờ lại làm anh có phần nào xấu hổ. Một người phụ nữ như vậy, một phu nhân đại quý tộc, sau khi đi khắp nước Tây Ban Nha hiện đang sống như một bà hoàng ở Xêvilơ, một người phụ nữ như vậy quả là đáng chinh phục! Không những ngẩn ngơ trước sắc đẹp của Đônha Xôn, anh còn cảm thấy kính nể, đó là bản năng của một kẻ lưu manh cũ ở một nước vốn trọng dòng dõi và của cải, từ khi lọt lòng mẹ đã quen tôn kính những người quyền quý trên đời này. Chao ôi! Giá mà anh tìm ra cách làm cho người ấy chú ý đến anh nhỉ!
Ông ủy quyền của anh vốn quen biết tất cả những người danh giá ở Xêvilơ và là bạn thân của hầu tước Đờ Môraima đã mấy lần nói về với anh. Dư luận cho rằng nàng hơi khác người với cái tên lãng mạn của nàng rất phù hợp với tính tình độc đáo và lối sinh hoạt độc lập của nàng. Làm chủ một gia sản lớn sau khi mẹ mất, nàng đã lấy ở Mađrit một người nhiều tuổi hơn nàng nhưng làm đại sứ. Địa vị đó vừa ý nàng, vì cô gái đó nóng lòng muốn biết những cái mới lạ và rất muốn nổi bật trong giới quý phái nhất.
- Nàng đã chơi bời ghê lắm! Đông Hôxê kể cho Gađacđô nghe. Trong mười năm đi vòng quanh châu Âu, nàng đã làm khối người mê mẩn. Nàng có cao vọng lắm, cậu ạ. Các bà hoàng hậu đều sợ nàng, hễ ông đại sứ đến nước nào được sáu tháng là y như hoàng hậu nước ấy vận động bí mật để chính phủ Tây Ban Nha đổi đi nước khác cả ông đại sứ lẫn bà vợ đáng kiềng của ông. Cuối cùng ông đại sứ tội nghiệp ấy, sau khi nghiên cứu tại chỗ địa lý của toàn châu Âu, bèn từ giã cõi đời. Miệng lưỡi thế gian còn kể rằng các vị vua chúa cũng chưa đủ làm nàng vừa ý. Dư luận cho rằng khi ở Pari nàng yêu một nhà họa sĩ, ở Đức nàng thân với một nhạc sĩ, ở Nga nàng mê một người thuộc phe vô chính phủ thế mà người này chẳng thiết gì nàng cả.
Về Xêvilơ được vài tháng sau mười năm sống ở những xứ lạnh buốt và đầy sương mù, nàng đâm ra thích bầu trời trong xanh và cảnh mùa đông có ánh nắng ở nước ta, nàng yêu đến hóa cuồng tất cả những cái gì có tính chất dân tộc, mê mệt những phong tục dân gian và thấy nó rất kỳ, rất "nghệ thuật". Một phụ nữ mạnh khoẻ, quen chơi thể thao, một nữ kỵ sĩ có tài hay phóng ngựa quanh vùng Xêvilơ trong chiếc áo dài đi ngựa màu đen, ngoài khoác chếc áo ngắn của đàn ông, ca vát đỏ, mũ dạ trắng đặt trên mớ tóc vàng óng. Người ta còn thấy nàng đem theo một garôcha (10) dắt trên sườn yên ngựa, cùng một đoàn bạn hữu cũng mang loại giáo ấy phóng ngựa đến cánh đồng cỏ Tablada để rượt và đâm ngã bò mộng, và nàng rất thích loại hội hè táo bạo và nguy hiểm ấy... Một phụ nữ thật lạ phải không Huan? Cô ta thật hay!
Ông ủy quyền còn nói rằng từ khi về Xêvilơ, Đônha Xôn sống rất gương mẫu, gia nhập hội thiện Chúa Jêxu T'riana(11) là hội có tiếng nhất. Ông nói thêm rằng nhiều buổi tối nhà nàng đầy những người chơi ghi ta và khiêu vũ, những người này đến cùng gia đình và cả những người bà con xa nhất, ai nấy chén no ô liu và dồi lợn, còn Đônha Xôn ngồi như bà hoàng trong một chiếc ghế bành to yêu cầu múa hàng giờ hết điệu này đến điệu khác, mà bao giờ cũng đòi múa những điệu của xứ Ăngđaludi. Trong lúc đó, những người hầu của nàng, cứng nhắc trong bộ lễ phục và nghiêm trang như những nhà đại quý tộc nước Anh, đi đi lại lại tay mang những cái khay đầy rượu vang, rượu mùi và kẹo bánh.
Bốn ngày sau cuộc gặp gỡ ở nhà thờ Xăng Lôrăngđơ, ông ủy quyền đi tìm anh matado với vẻ bí mật:
- Chú mình ơi, chú mình thật là may mắn nhé. Chú mình có biết ai nói đến chú mình không?
Rồi thì thầm vào tai chàng matađo: - Đônha Xôn đấy!
Nàng đã hỏi Đông Hôxê về người matađo của ông ta và tỏ ý muốn ông giới thiệu anh với nàng. Vì anh thật là một loại người rất độc đáo, hết sức Tây Ban Nha! Ông nói tiếp:
- Nàng nói rằng nàng đã nhiều lần xem cậu đấu bò ở Mađrit và nhiều nơi khác. Nàng đã hoan hô cậu. Nàng còn nhận rằng cậu rất dũng cảm... Cậu nghĩ đi. Hay là cậu đến cắm cho nàng một cặp banđêri! Nếu thế thì vinh dự cho cậu lắm. Cậu sẽ ngang hàng với tất cả các vị vua châu Âu hoặc gần gần như vậy.
Gađacđô mỉm cười nhũn nhặn va cúi nhìn xuống. Nhưng đồng thời anh ngoe nguẩy thân hình thanh lịch của anh như muốn nói rằng giả thiết của Đông Hôxê chẳng có gì là lạ lắm.
- Song cậu chớ có tưởng nhầm! Huan ạ! Ông ủy quyền nói tiếp. Nếu Đônha Xôn muốn biết rõ một người đấu bò như thế nào, cái đó chỉ vì nàng thích màu sắc địa phương, thật tình có thế thôi. Nàng đã bảo tôi: "Nhờ ông dẫn ông ấy đến Tablađa vào ngày kia". Hôm ấy có một cuộc thử bò ở ganađêria(13) của hầu tước Đơ Môraima. Hầu tước tổ chức cuộc vui này cho cháu gái. Tôi cũng được mời. Chúng ta sẽ cùng đi.
Hai ngày sau, vào một buổi chiều, anh matađo và ông ủy quyền của anh rời khỏi phố Fêria, ăn mặc theo kiểu những người cầm garôcha, giữa một đám đông chạy ra cửa, hoặc tụ tập trên hè để xem.
Những kẻ vô công rồi nghề nói: - Họ đi Tablađa đấy!
Đông Hôxê cưỡi một con ngựa trắng khỏe mạnh, ăn mặc kiểu ở nông thôn: áo ngắn rộng, quần dạ, ủng mầu vàng và đôi ống bằng da bọc lấy quần gọi là daiônơ. Còn anh matađo thì nhân dịp hội này đã mặc bộ quần áo kỳ lạ mà các đấu sĩ thời xưa vẫn dùng trước khi phong tục ngày nay làm cho cách ăn mặc của họ giống mọi người khác. Anh đội mũ calanê(14)
bằng nhung xù lông có quai. Cổ áo sơmi của anh không thắt ca-vát mà gài bằng hai hạt kim cương. Hai hạt kim cương khác, rất to, óng ánh trên ngực áo có chếp li hình ống. Áo vét và áo gilê của anh đều bằng nhung màu nâu xám, diềm và các thứ trang trí màu đen, thắt lưng của anh bằng lụa hồng; một chiếc quần cộc chẽn thêu màu xẫm bó sát cặp đùi nhỏ nhắn và gân guốc của anh và thắt chặt vào đầu gối bằng đôi nịt đen có dải băng lồng bồng; đôi ghệt màu hổ phách của anh có diềm bằng da chạy suốt khe đóng mở và đôi giày ngắn cổ của anh cùng màu với đôi ghệt, bị che khuất một phần trong những cái bàn đạp rộng kiểu A Rập có những đinh thúc ngựa lớn bằng bạc. Trên sườn yên ngựa, đặt lên trên tấm áo ngựa lịch sự bằng vải Pêrê có những búp lủng la lủng lẳng là một cái áo khoác xám phía trên lưng màu đen và lót màu đỏ.
Hai người cho ngựa chạy nước kiệu, vác trên vai cái garôcha bằng gỗ mịn và bền, đầu trên có một cái đệm bằng xơ gai buộc chặt và phồng lên xung quanh mũi sắt nhọn. Thấy hai người đi qua, ai nấy cất tiếng chào nhiệt liệt:
- Hoan hô những con người dũng cảm!
Các phụ nữ vẫy tay:
- Chúa ban phúc cho các vị! Ông Huan ơi, đi chơi cho thật vui nhé!
Hai người thúc ngựa vượt khỏi một đám trẻ con chạy theo và chiếc chân ngựa gõ đều đều xuống mặt đường lát đá xanh của những ngõ hẻm có tường trắng bao quanh.
Trong cái phố yên tĩnh của Đônha Xôn, một phố có nhiều tư dinh quý phái với những rào sắt thắt cổ bồng và vọng lâu rộng, họ gặp một số người mang garôcha đang đứng đợi ở ngoài cửa, ngồi im trên mình ngựa và tựa vào cây dáo của mình. Đó là những thanh niên quý tộc, bà con hoặc bè bạn của Đônha Xôn. Họ thân ái chào anh matađo, họ vui thích thấy đám hội có cả anh dự. Cuối cùng hầu tước Đờ Môraima xuất hiện, ông lập tức nhảy lên mình ngựa.
- Tí nữa thì cháu nó sẽ xuống. Các vị còn lạ gì phụ nữ!... Bao giờ cũng chậm.
Ông nói như vậy với vẻ trịnh trọng thường lệ dường như mỗi lời nói của ông đều là những câu sấm truyền. Hầu tước là một người đã có tuổi, xương xẩu, với bộ râu má dài và bạc trắng, nhưng miệng và mắt vẫn giữ được vẻ hồn nhiên như của trẻ thơ. Lịch thiệp và mực thước trong ngôn ngữ, lanh lẹn trong dáng điệu, ít cười, đó cũng là một nhà đại quý tộc lối xưa, hầu như lúc nào cũng mặc quần áo đi ngựa, thù ghét lối sống thời thượng, ngán những cái bó buộc xã giao mà địa vị của ông bắt ông tuân theo những khi ông ở Xêvilơ. Ông chỉ thích ngao du ở nông thôn với các tá điền và các người nuôi bò của ông mà ông đối xử thân mật gần như là bạn bè. Ông chỉ còn hơi biết viết do ít khi cầm đến bút, nhưng khi có người nói về những con vật chiến đấu, về nuôi bò mộng và nuôi ngựa, về việc đồng áng thì mắt ông sáng lên và có vẻ quả quyết tỏ ra ông là một người rất thành thạo.
Vồng kim ô bị che khuất, và khoảng trời, như một tấm thảm vàng treo ở đầu phố, trên các bức tường trắng, bỗng mờ đi: một đám mây to bay ngang qua cái vùng xanh lơ nằm giữa hai dẫy mái nhà. một số khách nhìn lên e ngại.
- Xin các vị đừng lo, hầu tước trịnh trọng nói. Lúc nãy tôi đã trông thấy một mảnh giấy bị gió cuốn về hướng mà tôi biết: Hôm nay sẽ không mưa.
Ai nấy yên tâm: Trời không thể mưa vì hầu tước đã nói quả quyết như vậy. Hầu tước hiểu rõ thời tiết như một ông lão chăn bò, không bao giờ nhầm.
Hầu tước đến bên cạnh anh matađo và nói: - Năm nay tớ chuẩn bị cho cậu những trận đấu rất tuyệt. Những con bò đặc biệt! Để xem rồi cậu giết chúng nó có cừ không. Cậu biết đấy, năm ngoái tớ bực quá: những con bò dạo ấy đáng được gặp những đấu sĩ khá hơn.
Đônha Xôn xuất hiện, một tay nâng tà áo đi ngựa màu đen để lộ ra đôi ống giầy cao cổ bằng da xám. Nàng mặc sơ mi đàn ông, áo gi lê bằng nhung màu mào gà, áo ngoài ngắn, thắt ca-vát đỏ, đội chiếc mũ nhung xứ Ăngđaludi duyên dáng lên những vòng tóc của nàng. Nàng từ từ lên yên và cầm lấy cây garôcha trong tay một người đầy tớ. Trong khi chào bạn hữu và xin lỗi đã để họ phải chờ đợi, nàng đưa mắt quan sát Gađacđô. Đông Hôxê thúc ngựa đến gần định giới thiệu. Nhưng Đônha Xôn đã vượt lên trước và tiến lại bên người matađo:
- Xin cảm ơn ông tới dự. Rất hân hạnh được quen ông.
Và nàng chìa ra một bàn tay nhỏ nhắn và thơm lừng mà anh chàng matađo ngạc nhiên và bối rối, nắm thật chặt trong bàn tay to tướng của anh đã quen đánh ngã những con quái vật. Nhưng cái bàn tay nhỏ nhắn và trắng hồng kia không những không bị nắm tay thô bạo của anh bóp bẹp mà còn đáp lại bằng một cái nắm mạnh mẽ rồi rút ra dễ dàng.
Mặc dầu xúc động, Gađacđô hiểu rằng anh phải có một câu gì đó để trả lời; anh bèn lúng túng mấy lời như nói với một ông hâm mộ đấu bò:
- Cảm ơn.. ở nhà bà bình yên mạnh khỏe cả chứ?...
Đônha Xôn không thể nhịn được một tiếng cười kín đáo nhưng tiếng cười của nàng bị lấp trong những tiếng vó ngựa nện xuống mặt đường. Nàng phóng ngựa chạy nước kiệu lớn và cả đoàn kỵ sĩ phóng theo để hộ tống. Gađacđô xấu hổ đi lùi đằng sau, hãy còn ngạc nhiên và nghi nghi mình vừa nói một điều gì dại dột.
Trước tiên, đoàn người ngựa phóng tới bờ sông, để lại sau lưng cái Tháp Vàng, sau đó tiến vào những đại lộ trải cát chạy xuyên qua những khu vườn râm mát, rồi đi vào một con đường ở hai bên có rất nhiều tiệm rượu và quán nhỏ. Tới Tablađa, họ trông thấy trên cánh đồng xanh rì, gần hàng rào ngăn đồng cỏ với khu nhốt bò, một đám đông đen nghịt và rất nhiều xe cộ.
Con sông Goadankivia chảy dọc cánh đồng cỏ này. Ở bờ bên kia, trên một đỉnh đồi hiện ra thị trấn Xăng Huan Đananphanátchơ nấp dưới bóng một tòa lâu đài đổ nát. Những ngôi nhà nông thôn phơi những bức tường trắng giữa những vườn ô-liu màu xám bạc. Ở nơi chân trời mở rộng trên nền trời xanh biếc vật vờ những đám mây xốp như bông, thấp thoáng bóng nhà cửa ở Xêvilơ và nổi bật lên trên hết là hình đồ sộ của nhà thờ và của công trình kiến trúc tuyệt vời Giranđa(15) nhuộm màu hồng nhạt dưới ánh chiều tà.
Các kỵ sĩ phải khó nhọc mới len nổi qua đám đông. Những hành vi kỳ cục của Đônha Xôn đã gợi tính tò mò của các phu nhân ở Xêvilơ nên họ kéo tới gần như đủ mặt. Các bạn gái của Đônha Xôn ngồi trên xe chào nàng và thấy nàng rất đẹp trong bộ quần áo nửa nam nửa nữ. Các cô em họ của nàng, con gái của hầu tước Đờ Môraima, cô thì chưa lập gia đình, cô thì đến với chồng, khuyên nàng phải cẩn thận:
- Nhân danh Chúa, chị Xôn ơi, xin chị đừng liều quá!...
Những người đến thử bò cưỡi ngựa vào trong khu nhốt bò. Họ được những thường dân tới dự hội hoan hô nhiệt liệt. Những con ngựa trông thấy từ xa và đánh hơi ra kẻ thù, bắt đầu lồng lộn, dậm chân trước và hí lên dưới bàn tay cứng cáp của người cưỡi.
Lúc đó, đàn bò mộng đã được quây lại ở giữa khu nhốt. Có những con bình tĩnh gặm cỏ hoặc đứng im lìm trên cánh đồng đã hơi úa đỏ vì khí lạnh mùa đông, bốn chân chụm lại và mõm chúc xuống. Có những con nhát hơn đi từ từ về phía con sông. Nhữn