Góc đường Tự do Gửi N. N. T.
Người thiếu nữ vừa nghiêng nón bưóc xuống lề đường. Chiếc bóng dài thon đổ về phía trước người đang đi tới. Những tảng nắng nhòa nhòa trên những nếp áo. Nhị nghĩ đến người thiếu nữ 46 trong một họa phẫm của Tô Ngọc Vân.
Bỗng anh kêu lên:
- Hương!
Người thiếu nữ đứng sững lại giữa lòng phố. Ít nhiều tảng nắng dạt khỏi tà ào. Mới đầu, chỉ là hai con mắt rất to và rất đen nhìn về phía anh. Thăm thẳm ánh lên một thoáng ngạc nhiên bỡ ngỡ. Huơng ngập ngừng trên đường tiến. Những chiếc xe hơi nhiều mầu vùn vụt băng qua. Những đợt ầm rú của máy nổ. Rồi mặt đường rộng trở lại quang đãng. Hương đã đến dưới gốc cây, chỗ Nhị đứng. Người thiếu nữ bỏ nón. Nắng gội chan hòa trên mái tóc Hương. Sự hiển hiện này chấp chới bóng nắng.
Thời gian của Nhị và của Hương bây giờ là 8 giờ sáng. Không gian của hai người là một góc đường tự do. Dăm ba người đi đường dừng lại vì tiếng gọi của hai người. Họ mỉm cười, nhìn thân mật, rồi bỏ đi.
- Hương vào đây từ bao giờ?
- Em vào từ tháng chín năm ngoái.
- Em ở đâu?
- Phan Thiết anh ạ!
- Bây giờ cơ mà?
- Vẫn Phan Thiết anh ạ!
Hai người yên lặng nhìn nhau.Thêm một phút trao gửi đằm thắm. Đủ rồi. Họ cùng mỉm cười. Nhị đưa Hương vào một tiệm nước ở góc đường. Những giẫy bàn ghế kê thành hàng dài chờ đón những người thủy thủ, những người thường dân phần nhiều là Mỹ và Phi Luật Tân đến uống rưọu, khai vị dưới mái hiên nhìn ra những đoàn pháo thuyền đậu đã hàng tháng ở ngoài bến. Nhưng chỉ từ năm sáu giờ chiều trở đi. Buổi sáng, căn phòng rộng rãi vắng vẻ chỉ có Nhị và Hương. Họ ngồi trước mặt nhau. Những ngón tay dài thon của người thiếu nữ đặt thoải mái trên mặt bàn. Đã lâu lắm, Nhị mới lại sống một cảm giác thư thái sung sướng. Từ những khoảng nắng ngoài kia, bóng tối nơi này phủ xuống từng đợt mát lạnh. Nhị nhìn Hương nghĩ thầm:
"Hương vẫn thế."
Anh nghĩ đến một mé biển Phan Thiết. Đến tháng chín năm ngoái, ngày Hương rời bỏ Hà Nội. Hương đã sống nhiều ngày tháng nắng lớn. Da Hương nâu hẳn đi.
Đến lượt Hương đưa mắt nhìn anh. Nhị đoán được câu hỏi. Anh trả lời:
- Anh vào đây được mười ba tháng rồi. Trong đợt di cư đầu tiên. Anh vẫn ở Sài Gòn. Sống bình thường. Có một số bạn hửu cũng ở đây. Nam, Thư, Ngự. Hương còn nhớ các anh ấy chứ? Họ vẫn hỏi thăm đến Hương luôn. Anh bảo Hương đã ở lại Hà Nội. Nhưng chẳng ai chịu tin cả.
Nhị ngừng lại, không nói nữa. Hương chợt bắt gặp trong mắt anh một thoảng tối buồn rầu. Từ lâu rồi, mắt Nhị vẫn có những tảng bóng tối thoảng vụt đến như thế. Nhị hút một điếu thuốc lá. Anh cố làm ra vẻ thản nhiên. Hương nhìn Nhị chờ đợi ở anh một cái gì sáng tỏ, rõ rệt.
"Anh Nhị bảo mình đã ở lại Hà Nội rồi. Thế là thế nào? Không tin ở mình đã đành. Nhưng có còn tin tưởng ở chính anh ấy nữa không?"
Lòng Hương chợt nhói lên một súc cảm chua sót. Từ lúc gặp lại Nhị hết sức đột ngột ngoài đường, cho đến lúc đi theo anh vào ngồi trong tiệm nước, Hương đã nghĩ rằng từ một ngày rời bỏ vĩ tuyến, cuộc phiêu lưu đã chấm dứt sáng hôm nay, và ngày tháng tới rồi sẽ vững vàng nhiều. Người thiếu nữ đến một mình trên đất nước tự do bát ngát xa lạ, bắt đầu hưởng tới một sự che chở bằng những ý nghĩ thương mến nhất của gửi gấm. Nhưng cùng một lúc, Hương cũng nhận thấy Nhị đã thay đổi nhiều.
Điều mà Hương không hiểu được là Nhị đã thay đổi thế nào. Cuộc sống của Hà Nội, của hậu phương, của cuộc di chuyển rộng lớn, cuộc sống lửa đạn của thời đại mấy năm nay hình như không thuộc về những người đàn bà như Hương nữa. Nhị xa cách khuất vắng luôn luôn. Anh đổi khác thật nhiều. Lắm lúc anh như mất hẳn. Bây giờ Hương lại có anh, nhưng Hương chưa giám tin rằng anh còn là con người đã đến với Hương trong ngày cũ. Những người trạc tuổi Nhị, những người bạn của Nhị, từ ngày bùng nổ những tiếng trọng pháo mười năm, Hương gặp nhiều trên những ngả đường. Nhưng họ đều bước đi những bước mải miết, mắt nhìn thẳng, rắn lạnh như những đoàn người đi về những phía chiến trường. Cuộc sống nào cũng mang nặng những hình ảnh trận tuyến. Hương rơi vào cái mịt mùng của trận tuyến. Hương chìm vào lãng quên của những lớp người hậu phương. Đôi mắt của lớp người trẻ tuổi sống giữa chiến thời, Hương nhìn thấy ánh lên trên cái nền trời hoang tàn đổ vỡ, rất nhiều thảm thê hải hùng và rất nhiều bóng tối.
Bây giờ ngồi trước mặt Nhị, Hương có cảm tưởng như vừa gặp lại những đôi mắt ấy. Một niềm sợ hải không đâu tràn tới. Hương ngồi yên lặng, không hiểu nên bắt đầu bằng gì? Quá khứ, hiện tại, hay tương lai? Người thiếu nữ rung động mãnh liệt với phút gặp lại của hiện tại, đã sống cả cái tâm tình phơi phới của tương lai. Nhưng còn dĩ vãng? Còn sự xa cách mười năm? Còn chiến thời đã đi qua và chưa dứt hẳn. Còn đôi mắt Nhị ở bên kia bàn mà Hương vẫn chưa tìm thấy cái vùng trời tươi sáng quen thuộc của ngày xưa. Cuộc sống riêng lẻ của Nhị đổi thay nhiều đến nỗi Hương không giám đoán nổi cái thực trạng sau những lớp đổi thay nữa. Quá khứ đè nặng xuống, chìm chìm phảng phất chung quanh chỗ ngồi. Nó đọng lại trong những bờ mắt thành từng lớp kỷ niệm trùng điệp. Những ngọn sóng đang trùng điệp dâng lên. Nhị đang nhớ trở về. Như thế nào cũng có một lần anh phải nhớ trở về. Thái độ của con người hôm nay ở Nhị là sự kết tinh, sự chắt gạn, sự rút tỉa của những nỗi niềm xa thẳm đã về cũ đang kết thành hộ thống. Ngồi đây với Hương, nhưng anh về với dĩ vãng rồi. Trở về lần cuối cùng. Ở một nơi nào trong tâm hồn người, một cánh cửa vừa đóng sập xuống. Tiếng sập khô gọn. Dĩ vãng về đầy trong hồn Nhị.
Anh nhớ lại.
Tất cả, và từ đầu.
Thời gian ngược đường về dĩ vãng, qua từng chặng từng đoạn một. Mỗi chặng mỗi đoạn, một mớ hình ảnh. Từng vùng từng miền riêng lẻ. Chỉ có một thời gian cho rất nhiều không gian. Những mảnh năm tháng đã tan vở khít liền lại bởi một giòng tình cảm không đứt đoạn, không ngắt quãng. Nhi nhớ lại thẳng tắp một hơi, về tận những hình ảnh khởi đầu. Những tầng đáy cũ, những nếp sống cũ, những kỷ niệm xa xôi, thăm thẳm. Qua biết bao nhiêu giông bão, bốn năm lần chuyển đổi chính thể, mà giòng tình cảm vẫn chạy đi, như một đời suối nhỏ chảy ngầm trong lòng đất. Thầm lặng nhưng liệt.
Nhị trở về từng vùng trời cũ. Mỗi vùng một mớ hình ảnh.
1945.
Phố Hiến. Sự gục đổ của đế quốc Nhật Bản. Hình ảnh cũ đứng lại dưới một chân đê. Bờ đê bên kia, sông Hồng suối băng, tiếng lũ tháng bảy thao thiết đổ về mạn Nam Định. Nam Định là quê Nhị. Ý nghĩ đứng tại dưới chân con đê này, rồi đi dần vào một vùng chói nắng. Nắng lắm. Như một vòng sáng điện từ chao đèn tỏa xuống đường phố, nhưng thiên nhiên hơn. Ánh nắng chói chang rực rở. Nhưng chùm hoa gạo bừng bừng trên đầu Nhị. Từng cành rụng xuống vai Nhị, trên mái tóc cua Hương. Hoa dỏ rơi xuống Hương, trên một thứ suối tóc mun óng của 17 tuổi. Nhị nhìn lên: Khối hoa nhòa nhòa trên một đường chu vi. Nắng bám chặt lấy rối tan vở ngay ở đó gây cho Nhị một cảm giác choáng váng đầy đặc. Nhị 20 tuổi. Đế quốc Nhật Bản đang gục đổ trên những chiến trường Đông Nam Á Châu. Hoa gạo nở, viết một thứ phấn đỏ trên cái bảng đen của tình cảm. Nhị vừa ra khỏi trường. Vụ nghỉ hè bắt đầu.
Anh đứng với Hương dưới chân con đê chạy vòng quanh tỉnh Hưng Yên. Buổi trưa tình lẻ yên tĩnh thoải mái. Hai người chia tay nhau. Hôm sau Nhị về Hà nội. Nhị yêu Hương qua tình yêu bén nhậy, mãnh liệt của tuổi hai mươi của lần thứ nhất. Mặc dầu những vết giầy đinh, những lưỡi lê sáng loáng, những ruộng đay, những tiếng hò hét của bọn lính Nhật Bản, anh yêu và sống tự do.
1945 với những đêm tắt đèn phòng thủ,những toán lính Nhật, những chiếc pháo đài bay Mỹ vụt qua không phận đất nước chỉ mới rung động đến cái toàn thể của đời sống thôi. Ở một mặt khác, tình yêu của anh với Hương vẫn được nguyên vẹn và Hương, Hương vẫn nguyên là Hương của anh.
Vẫn 1945.
Hà Nội. Một tháng sau. Nhị bỏ học đi theo Cách mạng. Không khí Hà Nội ngột ngạt, náo nức. Những sự kiện bay múa nhất của Cách Mạng mở cho Nhị những ngày tháng hăng hái tin tưởng nhất của chiến đấu. Những cửa lớp Việt Nam Học Xá đón nhận những tuổi 20 vác súng đến tranh đấu chính trị trên những hàng ghế. Cuối lớp Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đầu lớp, Việt Minh. Người giáo sư già bỏ dở một bài giảng văn, nhìn bọn học trò tranh luận kịch liệt về những đường lối của 1945, của bấy giờ. Nhị quên dứt Hương, Hương ở Ngọc Hà. Đến khi anh nhớ đến Hương thì Hương đã từ Hưng Yên về Ngọc Hà rồi. Người thiếu nữ hiền hậu bé nhỏ đã bị anh bỏ quên trong cái cuồng nhiệt của cuộc sống hàng ngày của anh từng phút từng giây, đến bị Cách Mạng lôi cuốn trước đoạt mất. Cuộc sống không thuộc về Nhị nữa, càng không thuộc về Hương. Cách Mạng với những cạnh khía máu lửa đỏ khé, chưa hủy diệt tình cảm Nhị nhưng đã khoác lên đó cái mầu sắc của giai đoạn, của chiến thời. Đôi khi vào một buổi tối. anh đạp xe lên vùng Ngọc Hà tìm Hương. Nhưng hai người không mấy lúc được gặp nhau lâu.
1945 tổng kết một sự gục đổ Nhật Bản.
1945 mở đầu cho những giai đoạn cách mạng.
Xây dựng ở đâu chưa biết chứ đổ vỡ ở tình yêu. Nhị vẫn còn Hương nhưng nếp sống mới đã làm hai người xa nhau. Những rung động cũng bắt đầu nhạt loãng trong xa cách. Đôi khi anh nghĩ đến tình yêu của hai người, anh thấy mình tội lỗi, yếu đuối.
Sang 1946.
Đợt súng đầu tiên bùng nổ. Chiến tranh trường kỳ khởi đầu bằng tiêu thổ kháng chiến đã san phẳng cái tỉnh lỵ thân yêu của hai người. Cây gạo bị chặt đổ nằm chết gục dưới chân đê cũ. Chiến tranh lan đi. Nhị rời bỏ mặt đất, xuống những đường hầm. Một tin tức về Hương vụt đến rồi tan nhoè giữa hai đợt súng nổ. Tình yêu của một tên lính trong trung đoàn đóng giữ thành phố đã chạy theo những đường cống lãnh đen đặc trôi ra ngoài hậu phương. Nhị xa hẳn Hương, xa hẳn. Chiến thời mịt mùng gió bão. Không một cánh thư. Không một địa chỉ. Không một hình ảnh. Tình yêu rời bỏ cái địa hạt cụ thể của sự sống đi sang cái địa hạt trừu tượng của những bóng hình. Những bóng hình thấp thoáng ấy đi theo Nhị trên những ngả đường đào chữ chi, những xóm làng, những đô thị tàn phá, rồi về nằm dưới đáy bạc đà kháng chiến.
Nhị không sống thêm được gì nữa.
Như thế, từ 1946 đến tận 1948.
Những hình ảnh của đoạn đường này: một thôn xóm hẻo lánh, cuối đáy Thanh Hóa. Trung tâm tản cư chợ Đại Cống Thần, với những giòng sông hốt hoảng hỗn loạn nhất của con người và thời đại.
Chuyển dịch không ngừng không nghỉ, nhưng Nhị không sống với sự chuyển dịch này. Anh buông thả anh để bị cuốn hút đi. Thế thôi. Một tháng ở rừng núi. Một tháng ở đồng bằng. Giữa cuộc sống ồ ạt bề mặt, thiếu bề sâu, lòng Nhị khép kín lại. Anh bắt đầu cảm thấy thấm thía một sự trống vắng tâm hồn rộng lớn. Tình yêu của ngày nào đã thành những kỷ niệm những thương nhớ chua xót hôm nay. Trên những ngả đường tàn phá anh đi tìm Hương.1945 với bọn lính Nhật Bản, Hà Nội hủy phá, với những đêm tắt đèn phòng thủ với những rãnh chiến hào, những hàng cây gục đổ trên nhưng đầu ô, nhưng toàn thể còn chứa đựng một cái gì tươi mát của đầu mùa cách mạng. Hồi đó, Nhị vẫn còn yêu tha thiết, sống tin tưởng. Không gặp Hương, nhưng anh vẫn có Hương trong cuộc sống tình cảm của anh. Bây giờ thì anh đã mất hẳn Hương. Tình yêu gần biến thành một thứ sự kiện khách quan. Cái chủ quan, cái con người yêu thương trong anh đã đổi khác ghê gớm. Tình yêu tách rời với cuộc sống đứng giữa những biên giới ớn lạnh. Chính thể chứa tới giai đoạn cấm đoán anh yêu thương, nhưng những sự kiện ngoại cảnh đã tác động dữ dội đến nội giới. Nhị yếu đuối quá bé mọn quá trước ngoại cảnh sô đẩy mãnh liệt. Xa cách dài hạn, đến chính anh cũng thay đổi. Nhị đau khổ, ngờ vực. Hương ở đâu? Hương làm gì? Hương có thay đổi? Hương còn nhớ hay Hương đã quên anh? Nhưng câu hỏi, những sao suyến thắc mắc, Nhị không giải quyết được gì. Anh đã đến một giai đoạn mà con người không có quyền được giải quyết bất cứ điều gì, dù là một vấn đề tình cảm riêng lẻ. Con người anh khô cằn. Những lớp mưa nắng cứ dãi xuống, cứ thấm xuống, đã làm loãng nhạt tình cảm còn làm loãng nhạt những kỷ niệm.
1949.
Cuối mùa thu. Anh được tin Hương ở miền Ba Đông Hưng Yên. Rời bỏ Hà Nội, Hương theo gia đình về quê, ở một miền đồng nội xa cách hẳn với thành phố tàn phá. Anh tìm đường đến chỗ Hương ở. Nhưng một trận sốt rét rừng kịch liệt đã giữ anh lại cơ quan. Nhị viết cho Hương một lá thư dài. Lá thư duy nhất trong bốn năm trời. Lá thư gửi đi, nhưng không nhận được trả lời. Chiến thời không gửi trả những hồi âm của tình cảm mà chỉ gửi trả lại những đợt trọng pháo cho những đợt trọng pháo. Nhiều đêm không ngủ được, anh thức giấc làm lại với anh một thứ kiểm thảo tình cảm để khảm phá một cách chua sót rằng anh vẫn yêu Hương. Như một tên tù nằm trong nhà tù khám phá rằng mình vẫn tự do. Chua sót là không được tự do. Anh cố gắng nhớ đưọc một khuôn mặt hiền hòa, một đôi mắt tham thẳm vì chỉ thấy mầu đen đen thăm thẳm, một hình nón đội nghiêng trên một mái tóc. Và mầu đỏ của hoa gạo. Những hình ảnh lành khỏe cao đẹp của Hương lại là những hình ảnh lành khỏe tươi đẹp của cuôc sống. Mất tình yêu, anh đã mất luôn cuộc sống. Vậy mà anh đang ở giữa chết chóc, thiêu hủy. Một đô thị tàn phá trơ trụi. Những rãnh chiến hào xâu tối. Ba giai đoạn của chiến tranh trường kỳ. Những ngả đường đất nước hoang vắng. Anh bám víu lấy những hình ảnh cũ, sống với những hình ảnh này.
1950. Nhị ở ngoài hậu phương. Hương đã trở về Hà Nội.
1951. Một năm. Thế là Hương đã trở về bên kia. Nhị ở lại giữa lòng biên giới cũ, giữa 1951, với những hình ảnh đen tối khủng khiếp. Một căn nhà sàn heo hút ở Khu Tư. Bóng cây bóng lá dầy dặc. Con đường nhỏ chìm khuất chạy đưới lớp cỏ hoang ngút ngàn. Một giòng suối độc. Những cơn sốt rét rừng vật vã. Màu vàng bệch của da mặt người ốm. Những viên ký ninh. Cuộc sống không còn là cuộc sống, chỉ còn là những viên thuốc ký ninh. Đôi mắt Hương thăm thẳm giữa hai viên thuốc đắng chát. Tình yêu nghiêng ngã tan vỡ thành những mảnh vụn. Nhị có còn Hương không? Anh không giám biết nữa. Anh sợ cả đến tình cảm mình. Vì đã đến thời kỳ mà người ta không cho phép anh còn được có tình cảm nữa. Ở thế giới cộng sản, tình cảm đã là một sự trạng kỳ quái. Một đôi mắt đẹp, một suối tóc óng mượt, cũng giống như kẻ thù phong kiến tư bản. Những cánh thư cũ bị lôi khỏi đáy bạc đà và bị đốt cháy. Dĩ vãng, kỷ niệm, tình cảm bị khai quật lên. Không còn đôi mắt Hương nhìn xuống những trang sách học tập đường lối của đoàn thể. Chỉ còn những đôi mắt căm thù. Phải cười thế này. Khóc thế này. Cấm buồn. Cấm cả vui. Những tình cảm cuối cùng bi xếp hàng bên cạnh những nếp sống những tư tương phản động. Anh không được nhớ đôi mắt đẹp, mà chỉ được nhớ đến một giai cấp phản động. Một buổi kiểm thảo, người ta bắt anh nói đến Hương. Anh kể lại hết: Từ 1945 đến 1950, đến bây giờ. Những ngày Hưng Yên của anh. Những ngày Ngọc Hà. Cả đến nội dung những bức thư của hai người. Qua một tình yêu bị kiểm thảo, người ta sác định cho Nhị một lập trường tình cảm mới. Một nhà lảnh tụ ngoại bang đến đứng trên chỗ đứng của Hương. Hương, người thiếu nữ của giai cấp địa chủ. Đôi mắt thăm thẳm hiền hậu ấy là của thành phần phản động bóc lột. Phải cắt đứt.
Hết 1950.
Nội giới anh, có chỗ đứng của Hương từ 1945 trống vắng cái trống vắng của con người 51.
1952.
Nhị bỏ hậu phương về Hà Nội. Rã rời, mỏi mệt, không một chút tin tưởng. Nhị gặp lại Hương một vài lần. Rồi thôi, anh không tìm gặp Hương nữa. Tình yêu cũng như cuộc sống, đều là một thứ mùa màng, không chắp nối lại được trên những mảnh đất đã rách nát, tan vỡ. Tình cảm Nhị tê dại hẳn đi. Những mặc cảm kéo đến chồng chất: mặc cảm tội lỗi. Mặc cảm thất bại. Mặc cảm thiên đường đổ vỡ. Ngày tháng nghiêng đi. Cuộc sống, tình yêu trở về những bước chậm chạp trên một địa hạt đã cằn cỗi.
1952. 1953. Rồi 1954.
Tình yêu khởi đầu từ 1945 trên sự gục đổ của đế quốc Nhật Bản, chưa trở về anh bằng thất thủ Điện Biên. Tiếng súng nổ chung quanh Hà Nội. Những ngày tháng không tin tưởng. Người ta chờ đợi một cái gì rõ rệt. Có thể đau đớn hơn, nhưng phải rõ rệt hơn. Tháng bảy 1951. Hiệp định Genève nổ tung như một tiếng chuông báo nguy. Những phút sống còn bừng lên ngọn triều quật khởi, nối liền vào những chuyến đi. Nhị vào Nam. Anh đi một mình. Cũng không biết Hương có đi hay Hương đã ở lại.
Hương đã đi. Hương đã nghỉ ở đây, trước mặt anh. Những ngón tay thon dài, bé nhỏ đặt thoải mái trên mặt bàn. Nhị nhìn xuống những ngón tay, bắt đầu ý thức được rõ rệt và đằm thắm một thực thể hiện tại. Dĩ vãng chỉ còn là âm vang một tiếng cửa vừa đóng sập trong hồn anh, cùng một lúc với sự lắng chìm của những sự kiện xưa cũ vừa trở về và vừa đi khỏi. Hiện tại gửi tới một cảm giác bình yên giải thoát. Hình như ở một chiến trường nào những đợt trọng pháo vừa im ngớt, những tiếng hò hét vừa tắt lặng, và người lính vừa cởi bỏ khỏi mình mũ áo ngụy trang đi thong thả về thành phố. Hình như gió bão cũng vừa thôi gào thét. Nhị nghe một tiếng hát thanh thanh. Một tiếng chim hót nhỏ trên cành. Nhị nhắm mắt lại. Một giây phút không động ngắn ngủi. Tiếng sập cửa ban nẫy. Anh mở mắt ra. Ánh sáng chói lòa. Anh ở bên này rồi. Bên kia bàn, khuôn mặt Hương, đôi mắt hiền hậu nhìn sang anh. Những thời gian của hủy phá ghê khiếp, của biến chuyển tàn nhẫn, của mất mát rộng lớn, bây giờ đã nằm yên ở một miền nào tối tăm tàn tụi mà Nhị không nhìn thấy nữa. Anh nghĩ đến hình tròn của một trái đất vẫn tròn, để những hướng đời chia biệt, cách sống cách núi, bây giờ lại được gặp nhau. Một sự kiện gì vẫn không thay đổi. Một sự kiện gì vừa khởi đầu. Cuộc sống mới trên một miền đất nước phơi phơi nắng gió đã giúp đở thật nhiều cho sự kiện này được khởi đầu. Từ nhành hoa gạo tưng bừng dưới chân đê 46 đến một cánh thư không gửi đi. Đến những tờ kỷ niệm bị đốt cháy. Đến những đợt trọng pháo, những viên ký ninh, những ngả đường đào chữ chi, đến hiện tại, đến buổi sáng gặp lại, đến những ngày ở bên này vĩ tuyến, đến Hương đến anh và Hương, đến hôm nay. Và Nhị chợt khám phá được điều này: là sự hủy diệt lâu dài rộng lớn nào, ở một hình thức nào, cũng không bao giờ được hoàn toàn. Trên những bề phẳng đổ vỡ nào, cũng mở ra một cạnh khía để vươn lên. Rồi chính bởi những hủy phá, bởi những vươn tới ấy mà con người có được niềm tin khi sống lại những ngày tháng khởi đầu. Hương đến với anh hôm nay như một người bạn đường vừa gặp lại.vNhư một hình ảnh đôn hậu chung thủy, lại như một thực tại cụ thể của Khởi Đầu. Nhị đã sống trọn vẹn lịch sử của anh. Bây giờ thì là những trang sách mới của một kỷ nguyên mới. Học lại bài học chua sót của đời mình, của dân tộc, ngược đường về lịch sử, cũng chỉ là để đi tới đúng hướng, sống thêm tin tưởng cái phần tương lai. Hương đã có chung với anh một dĩ vãng. Hương sẽ có chung với anh một tương lai. Từ những hủy phá ngày nào, Nhị đã nhận được một cái gì. Một dấu vết. Một điểm sáng. Một bài học. Một hướng đi. Và bây giở thì Nhị và Hương đã có một thái độ rõ rệt với đời sống vừa khởi dựng.
- Bây giờ Hương ở đâu?
Hương nhìn anh mỉm cười:
- Anh hỏi em ban nẫy rồi mà! Em ở Phan Thiết.
Câu hỏi lần này mới là câu hỏi thực. Ban nẫy là hỏi chỉ là để hỏi không thôi. Người hỏi cũng vừa về đến thực tại.
Nhị biết rằng thực ra anh vẫn không đổi thay gì. Không có một cái gì có thể thay đổi được con người nửa. Nhị đã trở về người. Với những rung động của anh, với đời sống, với tình yêu của anh. Cuộc gặp lại dưới góc đường Tự Do một buổi sáng có nắng, còn là sự gặp lại trên một địa hạt tình thần nào nữa. Ở đó, con người đã gặp lại bản thể của mình.
Nhị đưa Hương ra khỏi tiệm nước.
Trưa nay Hương về Phan Thiết một mình. Nhưng anh sẽ không hao giờ mất Hương nữa. Người thiếu nữ của tình yêu còn là người bạn đường sẽ đi với anh hết thế hệ này. Hai con người gặp lại nhau, cùng đi một ngả đường, song song hước xuống hè phố.
Hai bóng nắng cộng thành làm một. Một ngả đường. Một cuộc sống. Một mùa xuân.
ĐÊM GIẢ TỪ HÀ NỘI CỦA MAI THẢO IN LẦN THỨ HAI TẠI NHÀ IN DÂN CHỦ THEO GIẤY PHÉP SỐ 1003 - T X B
NGÀY 28 - II- 1955 NGOÀI 5.000 BẢN THƯỜNG CÓ THÊM BA MƯƠI BẢN ĐẶC BIỆT DÀNH RIÊNG CHO TÁC GIẢ
KHÔNG BÁN