← Quay lại trang sách

Phần 1 1

BƯỚC QUA CỬA SÂN BAY, TÔI ĐẾN VỚI TRUNG QUỐC.

Tôi đứng hình. Tình thế hỗn loạn trước mắt oanh tạc mọi giác quan của tôi. Cuộc chiến không khoan nhượng của cả ngàn động cơ gầm rú trong bãi đậu xe phía trước và cả ngàn tiếng người la hét vào điện thoại.

Biển báo được viết bằng cả chữ Hán và thứ chữ gì đó trông như tiếng Ả Rập. Tôi không đọc được bất kì thứ chữ nào, nên tôi quyết định gia nhập đoàn người chờ taxi. Tôi đoán thế. Hầu hết họ đều thấp hơn tôi chừng 30 phân, nhưng có vẻ như chẳng mấy ai quan tâm. Đứng giữa họ, tôi như người vô hình.

Tôi đang ở Urumqi, thủ phủ rộng lớn của khu tự trị Tân Cương, tây bắc Trung Quốc. Urumqi là thành phố xa biển nhất thế giới. Đi máy bay từ Bắc Kinh, tôi thấy địa hình chuyển từ những dãy núi lởm chởm phủ đầy tuyết đến vùng sa mạc hoang vu trải rộng mênh mông. Đâu đó dưới kia, ban tổ chức giải đua đã lên lộ trình đường chạy dài 155 dặm vượt qua cả những đỉnh núi băng giá, gió thổi liên miên. Vùng đất cằn cỗi, hoang vu và thiếu vắng sự sống đó chính là sa mạc Gobi. Tôi sẽ chạy xuyên qua sa mạc. Bốn ngày đầu, mỗi ngày hoàn thành suýt soát một đường chạy cự li chuẩn. Tiếp đó là quãng đường dài gần gấp đôi cự li chuẩn trong ngày thứ năm. Mùa giải sẽ khép lại với màn chạy nước rút 6 dặm chót trong một giờ đồng hồ.

Những giải như thế được gọi là “Giải chạy siêu bền đa chặng”. Bạn khó có thể tìm được thử thách nào kiểm nghiệm cả độ bền tinh thần và thể chất cam go hơn thử thách này. Những người như tôi phải bỏ ra hàng nghìn đôla mới giành được đặc quyền “chuốc khổ vào thân”, rồi phải giảm thêm 10% cân nặng, nhưng sự hi sinh này hoàn toàn đáng giá. Chúng tôi có dịp chạy qua những vùng hẻo lánh nhưng đẹp nhất trên hành tinh. Chúng tôi được đội ngũ nhân viên hỗ trợ, tận tâm bảo vệ và đội ngũ chuyên viên y tế chăm sóc tận tình. Đôi khi, những thử thách có thể khắc nghiệt đến cùng cực, nhưng nhờ thế mà cuộc đời ai đó có hẳn một bước ngoặt lớn. Chưa kể, cán đích chính là một trong những trải nghiệm tuyệt nhất của đời người.

Mọi chuyện đôi khi không được suôn sẻ cho lắm. Ví như lần cuối cùng tôi gắng chạy quãng đường dài bằng sáu lần cự li chuẩn trong vòng một tuần. Kết cục là tôi phải từ bỏ giữa chừng, trong đau đớn. Ấy là lúc tôi sụp đổ, tưởng như chẳng bao giờ thi đấu được nữa. Nhưng tôi đã hồi phục, đủ để “nổ một phát súng” cuối cùng. Nếu thể hiện tốt trong Giải chạy Gobi lần này, có lẽ tôi sẽ đăng ký mấy mùa giải nữa. Dẫu sao, sau ba năm tham gia các giải chạy một cách nghiêm túc, tôi nhận ra cảm giác được đứng trên bục vinh quang mới tuyệt vời làm sao. Nhưng trong tôi luôn canh cánh nỗi lo rằng mình không bao giờ thi đấu được nữa.

Chẳng may đời tôi chấm hết giống như tuyển thủ cùng giải vài năm trước thì sao.

Tôi đã tra trên mạng rồi. Ngồi xe từ sân bay đến khách sạn mất chừng hai mươi, ba mươi phút. Nhưng càng gần giờ cao điểm, tài xế càng nôn nóng hơn. Anh ta bắt đầu cáu kỉnh khi biết tôi là một du khách nói tiếng Anh, thét giá gấp ba lần số tiền tôi dự tính. Từ đó, mọi chuyện bắt đầu tệ hơn.

Xe đỗ xịch trước một tòa nhà xây bằng gạch đỏ, tài xế xua tay và cố đuổi tôi ra khỏi xe. Tôi nhìn tòa nhà qua cửa xe, rồi nhìn lại tấm ảnh mờ mà tôi cho anh ta xem trước khi xe chuyển bánh. Nheo mắt lại nhìn thì đúng là hơi giống thật. Nhưng rõ ràng là anh ta không đưa tôi đến đúng chỗ.

“Tôi nghĩ anh cần đeo kính đấy, anh bạn!” Tôi mở lời, gắng nói thật nhẹ nhàng để xoa dịu anh ta. Nhưng chẳng ăn thua.

Anh ta miễn cưỡng nhấc điện thoại lên và gắt gỏng với ai đó ở đầu dây bên kia. Hai mươi phút sau, chúng tôi mới đến đúng chỗ. Anh ta cáu tiết, dứ nắm đấm về phía tôi rồi phóng xe lao vụt đi.

Chuyện ấy chẳng mảy may khiến tôi bực mình. Không khác chạy siêu bền là mấy. Nó vừa hành hạ cơ thể anh, vừa tra tấn đầu óc anh, nhờ thế anh sẽ nhanh học được cách tĩnh tâm trước những phiền toái không đáng có như bật móng chân hay chảy máu núm vú. Do vậy, không có lý do gì mà tôi phải nhọc thân vì một gã tài xế taxi nổi khùng.

Ngày hôm sau là một câu chuyện khác.

Sân khấu chính của giải đua được đặt tại một thị trấn lớn có tên là Hami. Tôi phải ngồi tàu cao tốc vài trăm dặm mới đến được đó. Ngay từ giây phút tôi bước vào nhà ga Urumqi, tôi mới nhận ra cuộc hành trình này đang thử thách lòng kiên nhẫn của tôi.

Đời tôi chưa từng thấy sân ga nào có lực lượng an ninh hùng hậu như ở đây. Xe quân sự ở khắp mọi nơi. Người đi bộ và các phương tiện phải đi trong lối đặt rào chắn tạm thời có lính gác vũ trang. Người ta bảo hai giờ nữa tôi được lên tàu, nhưng nhìn dòng người dài dằng dặc đằng trước, tôi băn khoăn: Có chắc là chỉ cần đợi hai giờ thôi không? Nếu hỏi chuyến taxi ngày hôm trước đã dạy cho tôi điều gì thì chính là: Nếu lỡ chuyến tàu này, tôi không chắc mình có thể đánh bại rào cản ngôn ngữ và đặt thêm một tấm vé khác hay không đây. Chẳng may không kịp tham gia cuộc gặp gỡ các tuyển thủ hôm nay, thì ma nào biết người ta có cho tôi xuất phát hay không?

Hoảng sợ cũng chẳng ích gì nên tôi thở đều, tự nhắc mình phải bình tĩnh và chậm rãi đi qua cửa an ninh đầu tiên. An toàn đi qua cửa an ninh, đến quầy lấy vé, tôi phát hiện ra mình đứng sai hàng. Đến lúc tôi chuyển sang đúng hàng thì thời gian không còn nhiều. Nếu đây là một cuộc đua thì, tôi nghĩ, mình sẽ về đích sau cùng mất. Tôi chưa nếm cảm giác về đích sau cùng bao giờ.

Lấy được vé, tôi chỉ còn bốn mươi phút nữa để qua một cửa an ninh khác trước khi tàu chạy. Một cảnh sát soi từng chi tiết trong hộ chiếu của tôi xem có hợp pháp không rồi đẩy tôi vào trước một hàng năm mươi người đang chờ làm thủ tục lên tàu. Tôi đứng đó, miệng há hốc, thở hổn hển rồi cuống quýt ngó đủ thứ biển báo, bảng hiển thị không biết tên. Quỷ tha ma bắt! Sân ga của tôi ở chỗ quái nào chứ?

May thay, tôi không hoàn toàn vô hình. Một anh bạn người Trung Quốc từng học tại Anh vỗ vai tôi.

“Anh cần giúp gì không?” anh ta hỏi. Tôi chỉ thiếu nước ôm chầm anh ta nữa thôi.

Tôi vừa đặt mông xuống ghế chờ khởi hành thì mọi người xung quanh quay sang nhìn theo đoàn tàu mới sượt qua chúng tôi. Quang cảnh một sân bay những năm 50 hiện ra: Các tài công khoác trên mình bộ đồng phục trắng không tì vết, đeo găng tay trắng ; không khí nghiêm cẩn; mấy cô tiếp viên ăn vận chỉn chu, trong tư thế sẵn sàng.

Tôi theo lên tàu, thả mình vào ghế, kiệt sức. Gần ba mươi sáu giờ kể từ khi rời khỏi quê nhà Edinburgh, tôi cố gắng xua tan hết tất thảy những căng thẳng chất chứa trong cả tâm trí lẫn thể xác. Ngồi trên tàu, tôi hướng ra cửa sổ xem có thứ gì hay ho không, nhưng qua nhiều giờ ròng rã, quanh đi quẩn lại vẫn chỉ là một thứ phong cảnh nhạt nhẽo, chẳng phải đất trồng trọt trong trang trại cũng chẳng hoang vu như sa mạc. Chỉ có đất, đất và đất, trải dài hàng vạn dặm.

Mệt lử và căng thẳng. Đây không phải trạng thái mà tôi muốn khi mùa giải quan trọng nhất trong sự nghiệp chạy đường trường ngắn ngủi của mình đang đến gần. Tôi đã có dịp tham gia một vài giải chạy danh tiếng hơn thế, ví như Giải Marathon des Sables tại Ma rốc được cả thế giới biết đến là giải chạy bộ khắc nghiệt nhất hành tinh. Hai lần đứng trong hàng ngũ 1.300 vận động viên chạy qua sa mạc Sahara dưới nền nhiệt ban ngày chạm ngưỡng 52oC và ban đêm, nhiệt độ giảm xuống còn hơn 4oC. Chưa kể, tôi còn về đích với thành tích đáng nể - đứng thứ ba mươi hai toàn đoàn - trong lần thứ hai tham gia. Nhưng mười lăm tháng trôi qua, nhiều thứ đã không còn như trước.

Tôi bắt đầu nhận thấy những thay đổi trong cuộc đua dài 155 dặm qua sa mạc Kalahari, Nam Phi. Tôi đã quá tham vọng khi ép mình hoàn thành mục tiêu về thứ hai chung cuộc và “đứng trên bục vinh quang lần đầu tiên” trong một cuộc đua đa chặng. Ấy vậy mà do uống không đủ nước, nước tiểu của tôi có màu như màu Coca. Trở về nhà, bác sĩ riêng nói rằng thận của tôi bị teo lại do thiếu chất lỏng, rồi chạy bộ khiến thận bị dập và đi tiểu ra máu.

Một vài tháng sau, khi tôi tham gia một cuộc đua khác, triệu chứng đánh trống ngực bắt đầu xuất hiện. Tim tôi đập dồn dập, cảm giác buồn nôn và choáng váng ập đến.

Tất cả triệu chứng này đồng loạt tái phát lúc tôi bắt đầu chạy Marathon des Sables. Dĩ nhiên, tôi làm ngơ và gắng gượng trên suốt đường chạy để đạt mục tiêu lọt top 50. Hậu quả là, về đến nhà, cơ gân khoeo chân trái đau điếng mỗi khi tôi cố đi bộ, chứ đừng nói gì đến chạy vài bước.

Mấy tháng đầu sau mùa giải, tôi nghỉ hẳn. Mấy tháng tiếp, tôi đi khắp các phòng tư vấn vật lý trị liệu, nghe hết người này đến người kia bảo tôi phải thử những phương pháp mới kết hợp các bài tập thể lực với bài tập bổ trợ mà họ gợi ý. Tôi thử hết. Nhưng vô vọng.

Sau đúng một năm, tôi mới tìm được một chuyên viên vật lý trị liệu và một huấn luyện viên. Họ đều là chuyên gia về chạy bộ và hiểu rõ căn ng uyên của bệnh phần nhiều là do tôi chạy không đúng. Tôi cao trên một mét tám, sải chân dài và vững chãi giúp bước chạy trở nên dễ dàng và thuần thục. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà tôi không điều động hết tất cả các cơ cần thiết, khiến cẳng chân bị co thắt đột ngột mỗi khi chạy.

Cuộc đua cam go ở Trung Quốc lần này là cơ hội để tôi thử nghiệm cách chạy mới, bước ngắn hơn nhưng nhanh hơn. Đúng ra thì, tôi cũng nóng lòng muốn thử lắm. Ở nhà, tôi có thể chạy hàng giờ liền mà không đau chân và tuân thủ chế độ ăn trước cuộc đua nghiêm ngặt hơn trước đây. Từ ba tháng trước, tôi bỏ tất cả đồ uống có cồn và đồ ăn vặt, chỉ ăn thịt gà và rau xanh. Tôi thậm chí còn cai cả cà phê, những mong sẽ không bị đánh trống ngực nữa.

Nếu những nỗ lực từ trước đến nay phát huy tác dụng, tôi có thể thi triển đúng năng lực của mình trong cuộc đua tại Trung Quốc, sau đó thử sức trong giải đua danh tiếng băng qua hoang mạc Atacama, Chilê, được tổ chức vào cuối năm nay. Nếu giành chiến thắng, tôi sẽ trở lại giải Marathon des Sables năm tới với tâm thế tốt nhất và làm nên tên tuổi.

Tàu tiến vào Hami. Là hành khách đầu tiên xuống tàu nên tôi dẫn đầu dòng người ào về phía lối ra. Có thế chứ, tôi nghĩ.

Quả nhiên, tôi không nên vui mừng quá sớm. Lính gác chốt an ninh chặn tôi lại và hỏi:

“Anh đến đây làm gì?”

Trông ra ngoài cửa, tôi thấy một hàng taxi dài dằng dặc đỗ bên vỉa hè, chờ những hành khách đi cùng chuyến tàu với tôi vẫy xe. Tôi gắng giải thích với anh ta về giải đua, bày tỏ nguyện vọng muốn đi bắt một chiếc taxi, nhưng tôi biết mà, vô dụng thôi. Anh ta nhíu mày, hết nhìn tôi lại nhìn hộ chiếu của tôi, rồi ra hiệu cho tôi đi theo anh ta vào một xe moóc to gấp đôi một văn phòng.

Tôi mất nửa giờ để giải thích công dụng của từng bịch gel bổ sung năng lượng và đồ khô. Tôi dám thề là anh ta chả tin đâu. Tôi nghĩ anh ta cho tôi đi phần vì anh ta chán ngán lắm rồi.

Lúc tôi đi ra, vỉa hè vắng tanh, người và taxi đều đi hết rồi.

Hay thật.

Tôi đành đứng chờ một mình. Tôi đã quá mệt mỏi và chỉ muốn cuộc hành trình ngớ ngẩn này mau mau kết thúc.

Ba mươi phút sau, một chiếc taxi đến. Trước khi rời khỏi Urumqi, tôi đã cẩn thận in địa chỉ khách sạn bằng chữ Hán ra giấy. Tôi đưa tờ giấy đó cho tài xế và mừng vì dường như cô ấy biết khách sạn đó. Tôi trèo lên ghế sau, co giò ngồi trong một cái lò sắt và tranh thủ chợp mắt khi xe lăn bánh.

Mới đi được mấy chục mét, chiếc xe đột nhiên dừng lại. Tài xế đang vẫy một hành khách khác. Nhập gia tùy tục, Dion.

Tôi không thấy có gì đáng phàn nàn ở đây cả. Ít nhất là không cho đến khi cô ấy quay sang chỗ tôi, chỉ tay ra cửa, ý bảo người kia hiển nhiên là một khách hàng tiềm năng hơn tôi. Vậy nên, tôi không còn được chào đón trên chiếc xe này nữa.

Tôi đi bộ quay trở lại, rồi mất thêm hai mươi phút để được đi qua các chốt an ninh khác, rồi lẳng lặng xếp hàng lần nữa, một mình, ở trạm bắt taxi vắng vẻ.

Cuối cùng, một chiếc taxi khác cũng xuất hiện. Tài xế rất vui tính, lịch sự và biết chính xác nơi cần đến. Sự thực chứng minh anh ta tự tin thái quá. Mười phút sau, anh ta dừng xe trước một toà nhà quy mô lớn, màu xám. Còn tôi thì chẳng buồn kiểm tra xem có đúng khách sạn đó không. Tôi chỉ trả tiền, xách ba lô ra khỏi xe và nghe tiếng xe đi xa dần.

Tận lúc bước vào sảnh, tôi mới nhận ra mình đến nhầm chỗ. Đây không phải khách sạn mà là một toà nhà văn phòng. Một toà nhà văn phòng mà không ai biết nói tiếng Anh.

Bốn mươi phút, tôi và các nhân viên văn phòng vẫn nỗ lực thông ngôn với nhau. Các cuộc điện thoại đến người- không-quen-biết cũng không mấy tác dụng. Chỉ khi trông thấy một chiếc taxi từ từ lướt qua trước tòa nhà, tôi vội chộp lấy ba lô, chạy ra, và nài nỉ người lái xe đưa tôi đến nơi tôi cần đến.

Rốt cục, ba mươi phút sau, đứng sững nhìn chiếc giường trống không trong khách sạn bình dân mà ban tổ chức đã đặt trước, tôi thề thành tiếng:

“Tôi sẽ không bao giờ quay lại Trung Quốc nữa!”

Tôi phiền lòng không phải vì nỗ lực giao tiếp không thành hay vì những cơn đau cơ và uể oải. Cả ngày nay, tôi phải cố gắng lắm mới ngăn không cho mình luống cuống, và giờ tôi chỉ cảm thấy bực dọc khi kết quả không như mong đợi. Điều này không hợp lý tí nào. Những nỗ lực của tôi hoàn toàn vô nghĩa. Tôi đã tự thuyết phục rằng mình vẫn còn đủ thời gian đi từ Bắc Kinh đến điểm xuất phát, mà nếu như có lỡ tàu đi chăng nữa thì tôi vẫn có thể tìm cách khác. Tôi cũng hiểu rõ, tất cả những cơn đau góp nhặt trong hai ngày qua sẽ sớm tiêu tan một khi tôi bắt đầu chạy.

Ấy thế mà, khi có mặt tại khách sạn gần địa điểm tổ chức giải đua, tôi còn thấy lo lắng hơn bất cứ giải đua nào tôi từng tham gia trước đây. Không phải những nỗi lo về chuyến đi, hay sức khỏe trước mắt, mà là một cái gì đó sâu xa hơn thế.

Tôi lo đây có thể là cuộc đua cuối cùng trong đời tôi. Tôi sợ mình sẽ không giành chiến thắng trong một cuộc đua mà chỉ có chiến thắng là động lực thúc đẩy tôi tham gia thi đấu.

Thứ Ba, ngày 3 tháng 1 năm 1984. Ngày đầu tiên sau sinh nhật chín tuổi chính là lúc tôi bắt đầu hiểu cuộc sống thay đổi nhanh đến chừng nào. Một ngày tuyệt vời, ngập tràn ánh nắng mặt trời mùa hạ tuyệt đẹp ở Australia. Buổi sáng hôm ấy, khi tôi cưỡi chiếc xe đạp qua những chướng ngại vật tự sắp, bố mẹ tôi đang đọc báo và cô em gái ba tuổi thì đang chơi trong sân gần phòng của bà ở dưới tầng, đằng cuối ngôi nhà. Trình diễn xong cú nhào lộn quá ư là hoàn hảo trên giàn nhún, sau bữa trưa, bố và tôi cầm gậy cricket và mấy quả bóng cũ ra ngoài.

Bệnh nhiễm trùng ngực của bố mới hồi phục. Nhiều năm rồi ông mới cùng tôi chơi thể thao ngoài trời. Bố dạy tôi cầm gậy đúng cách để bóng bay thật mạnh, thật cao, vụt qua bãi cỏ trụi lủi và bay xa ra khỏi đất nhà chúng tôi.

Về nhà lúc chiều tối, mùi thức ăn mẹ nấu lan tỏa khắp nhà. Mẹ đã hấp bánh pudding sô-cô-la mấy giờ liền và làm sốt thịt bò bằm siêu ngậy đến nỗi tôi chỉ muốn chúc đầu vào nồi, hít hà mùi nước sốt thơm nức đến tận khi hơi nóng hừng hực phả ra mới thôi.

Một ngày tuyệt vời biết mấy.

Như mọi đứa trẻ chín tuổi khác, đến giờ đi ngủ, tôi liền khăng khăng là con không mệt. Nhưng chẳng bao lâu sau, tôi đã nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, mơ mơ màng màng thấy mẹ ra khỏi nhà đến lớp học Aerobic mỗi tối Thứ Ba, còn bố vặn nhỏ âm lượng, xem một trận cricket trên tivi.

“Dion!”

Tôi không muốn dậy đâu.

Trời vẫn còn tối mà tâm trí tôi thì đang mắc kẹt trong thế giới của những giấc mơ lý thú.

“Dion!” Tôi lại nghe bố gọi. Cả căn nhà hết sức yên ắng, không có tiếng tivi, cũng chẳng có tiếng của mẹ.

Tôi không hiểu sao bố gọi tôi như thế nên tôi cứ ngủ tiếp. Tôi không biết bố đã liên tục gọi tên tôi bao lâu, chỉ biết mình phải thức dậy, đi xem bố muốn gì.

Bố đang đắp chăn, nằm trên giường. Khi tôi bước vào, ông không nhìn tôi, mà tôi cũng không muốn đi hẳn vào phòng.

Hơi thở của bố có gì đó không ổn, như thể ông cố hết sức mới hít được một chút ít không khí vào phổi. Ông bị ốm thật rồi.

“Dion, đi tìm bà nội con.”

Tôi vội chạy xuống tầng, gõ cửa phòng bà.

“Bà ơi”, tôi gọi. “Bố cháu cần bà. Có chuyện không ổn bà ạ.” Bà tôi lao ra ngay, tôi nối gót bà lên tầng. Tôi nhớ lúc đó mình đã nghĩ bà từng là y tá mà, bố sẽ không sao đâu. Mỗi khi tôi, hoặc em gái Christie bị thương, bà vừa bôi thuốc vừa kể chuyện thời bà còn làm y tá trưởng ở một bệnh viện phục hồi chức năng thời chiến để chọc chúng tôi cười. Bà là một người phụ nữ cứng cỏi, một chiến binh mà tôi tin là mang trong mình sức mạnh chữa lành mọi bệnh tật và đau đớn.

Vừa nhìn thấy bố, bà liền đi gọi một chiếc xe cứu thương. Còn tôi ở lại với ông. Ngay sau khi bà trở lại, bà bảo tôi ra ngoài.

Christie vẫn đang yên giấc ở phòng sát vách. Tôi vừa đứng trông em vừa nghe tiếng bố thở ngày một khó nhọc và giọng nói mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ của bà. “Garry,” Bà thốt lên, to hơn bình thường. “Xe cứu thương đang đến rồi. Con chỉ bị lên cơn hen thôi. Bình tĩnh, Garry. Ở lại với mẹ.”

Tiếng ồn đã đánh thức Christie. Nó bắt đầu khóc toáng lên. “Bố bị ốm thôi, Christie,” tôi dỗ dành, cố gắng nói át đi tiếng bà. “Nhưng xe cứu thương sắp đến rồi.”

Tôi chạy qua hành lang để mở cửa ngay khi nghe thấy tiếng xe cứu thương đỗ bên ngoài. Các nhân viên y tế mang theo cáng và máy thở lên trên tầng. Tôi chỉ biết lặng nhìn. Vài phút sau, mẹ chạy vội vào nhà. Tôi nghe tiếng mẹ sụt sùi bên giường, vẫn chưa hiểu thế nghĩa là sao. Một lát sau, khi họ đẩy cáng ra, tôi không dám nhìn bố lấy một lần. Ông vẫn còn khó thở, đầu ông run lên bần bật. Tôi có thể nghe thấy tiếng bánh xe cáng cứu thương rít lên. Tôi đi theo mọi người ra ngoài, nơi cả đèn đường, đèn pha và đèn báo động nhấp nháy chiếu rọi mọi ngóc ngách như thể đêm tối đã qua. Khi các nhân viên y tế nâng cáng vào xe cứu thương, bố nói bố yêu mẹ. Tôi đứng bên cạnh bà, bàn chân trần giẫm trên cỏ lạnh. Mẹ thủ thỉ: “Sẽ ổn cả thôi.” Tôi không biết mẹ đang nói với ai.

Bà, Christie và tôi ở lại, còn mẹ đi theo xe cứu thương. Tôi không biết chúng tôi chờ đợi bao lâu, hay làm gì. Tôi chỉ nhớ, chừng nửa đêm, cửa nhà cuối cùng cũng mở. Mẹ đi vào cùng một bác sĩ. Hai người họ lặng thinh. Tới lúc ấy, bà và tôi đều hiểu. Trong chốc lát, bà, mẹ và tôi oà khóc. Không lâu sau thì điện thoại reo. Bà thấp giọng trả lời. Cuộc điện thoại chỉ kéo dài vài phút. Chuông cửa reo, những người hàng xóm đầu tiên đến nhà và ôm mẹ thật chặt. Còn tôi lủi về phòng mình.

Ngày đưa tang, tôi thấy người ta đẩy quan tài bố vào xe tang. Giãy khỏi cánh tay mẹ đang ôm vai mình, tôi chạy ra chặn họ lại. Tôi cố hết sức ôm vòng quanh chiếc hộp gỗ, nhưng không được. Hai cánh tay tôi quá nhỏ bé. Tôi oà khóc nức nở, lồng ngực thắt lại khi có người gỡ từng ngón tay tôi ra.

2

SAU KHI BỐ RA ĐI, MẸ NHƯ QUAY TRỞ VỀ thời còn là một đứa trẻ. Mẹ chuyển xuống tầng dưới ở, nơi bà chăm sóc cả mẹ, Christie và tôi. Mẹ không còn đủ sức chăm sóc chúng tôi đúng như một người mẹ nữa.

Phải, tôi mới chỉ là một đứa bé chín tuổi thôi, nhưng kẻ ngốc cũng nhận ra những dấu hiệu bất thường. Có hôm, tôi lững thững bước vào phòng mẹ. Thấy trên gò má bà vẫn còn vệt nước mắt chảy dài, tôi mới hiểu mẹ vẫn chưa vượt qua được.

Lúc đó đã vài tuần sau khi bố mất. Sau đó mấy tháng, tôi phát giác nỗi đau mất chồng không phải là căn nguyên duy nhất. Một tối nọ, mẹ và tôi đều ở trong bếp. Mẹ đang lau dọn - một hành vi ám ảnh mới xuất hiện gần đây thôi - và tôi ngồi bên bàn đọc sách.

“Dion”, mẹ lên tiếng, “Bố Garry không phải bố ruột của con.”

Tôi không nhớ mình đã bật khóc hay chạy trốn thế nào. Tôi không nhớ mình đã la hét hay ép hỏi mẹ ra sao. Tôi không nhớ sau đó mình đã nói những gì. Và tôi cũng không tài nào nhớ nổi cảm giác của mình lúc đó. Vô vàn ký ức nay chỉ còn là một khoảng trống rỗng. Thử nghĩ mà xem, cái tin tức đó phải xót xa nhường nào mới khiến tôi muốn quét sạch mọi dấu vết về nó trong ký ức.

Nhưng tôi biết chắc rằng sự ra đi của bố tôi - Garry - đã gây ra vết thương lòng, thay đổi mọi thứ nơi tôi.

Đến tận hôm nay, mẹ tôi vẫn sẽ khóc mỗi khi tôi và bà nhắc tới sự ra đi của bố Garry. Mẹ sẽ nói chỉ hai mươi phút trên xe cứu thương thôi cũng đủ để thay đổi cuộc sống của chúng ta. Mẹ đã đúng, nhưng không hẳn: Vài phút có thể khiến cuộc sống hỗn loạn, nhưng chỉ tám từ đã đủ khiến trái tim tang thương của tôi vỡ vụn.

Tôi luôn giấu kín bí mật này. Trong một, hai năm đầu biết chuyện, tôi thấy tủi hổ về quá khứ của mình: không chỉ vì tôi là một đứa trẻ mồ côi cha, mà còn vì trong số bạn bè, tôi là người duy nhất thuộc gia đình đơn thân. Khách ghé thăm gia đình sau đám tang từ lâu đã chẳng còn ai. Tiền bạc cạn dần, buộc mẹ phải ra ngoài tìm việc làm. Mỗi khi ở nhà, mẹ liền dành hàng giờ đồng hồ dọn đi dọn lại căn nhà và mở loa thật to, nghe những bài hát của Lionel Richie trong phòng ăn xưa cũ.

Trong tâm trí tôi, hình như tất cả bạn bè tôi đều có một gia đình lý tưởng, bởi cả nhà họ đều đi nhà thờ vào mỗi Chủ nhật, còn tôi thì tự đi một mình. Tôi không muốn cảm thấy tách biệt khỏi mọi người, và tôi cũng thích được cho một vốc bánh nhỏ sau buổi lễ nữa. Tôi không để tâm đến mấy bài thuyết giảng lắm - dù đôi khi chúng khiến tôi cảm thấy bản thân mình tốt đẹp hơn. Nhưng nhìn phản ứng của mọi người lúc tôi lởn vởn gần bàn trà cuối buổi lễ, tôi biết họ thấy tôi không giống họ. Tôi có thể nghe thấy tiếng họ xì xào bàn tán sau lưng. Khi quay lại, trước mặt tôi là bầu không khí tĩnh lặng đến khó xử và những nụ cười giả tạo.

Mẹ cũng bắt đầu nhận được những cuộc điện thoại. Tôi rón rén trên hành lang, nhìn mẹ. Bà đang khom người, đứng quay mặt vào tường. Những cuộc gọi ngắn ngủi. Tôi chỉ nghe loáng thoáng vài từ. Thỉnh thoảng, khi gác máy, mẹ quay lại, thấy tôi đang nhìn thì kể cho tôi nghe những tin đồn mới nhất về chúng tôi đang lan truyền trong thị trấn.

Ít lâu sau, tôi bị tẩy chay. Một buổi chiều thứ Bảy, tôi đến nhà một người bạn chơi. Tôi biết cậu ta đang ở nhà vì tôi thấy xe đạp của cậu ta đang dựng ở bãi cỏ trước sân. Thế nhưng mẹ cậu ta lại nói cậu ta không được ra ngoài chơi.

“Đừng có mà đến tìm Dan nữa.” Nói xong, cô ấy đóng sầm cửa lại.

“Cô Carruthers, sao lại thế ạ?”

“Mày là thằng sao chổi, Dion. Chúng tao không muốn mày lảng vảng quanh đây.”

Tôi suy sụp ra về. Tôi không uống rượu, không nói tục, không phá bĩnh ở trường hay gặp rắc rối với cảnh sát. À, tôi háu ăn bánh ngọt ở nhà thờ. Nhưng ngoài chuyện đó ra thì tôi luôn lịch sự và tử tế cơ mà.

Cô ấy chắc hẳn đang ám chỉ đến một thứ.

Lúc ấy tôi cũng chưa có tiếng xấu. Nhưng tôi đã dần dần ghét cay ghét đắng cái cảm giác bị tẩy chay. Năm mười bốn tuổi, tôi mới biết chính xác vị trí của bản thân trong cuộc đời này: tôi là kẻ ngoài lề.

Khi nhân viên ban tổ chức chào đón các vận động viên và bắt đầu phổ biến quy tắc an toàn, tôi ngồi một mình một góc, như mọi khi, tách biệt với những người khác. Tôi chưa từng làm việc với đội tổ chức giải đua lần này, nhưng tôi đã tham gia nhiều buổi gặp mặt thế này, quá đủ để biết sắp tới mình phải làm gì.

Mối nguy lớn nhất đối với bất cứ ai tham gia giải chạy siêu bền đa chặng dưới cái nóng của sa mạc là tình trạng kiệt sức do nhiệt - triệu chứng thường gặp gồm: mất nước, chuột rút, chóng mặt và mạch đập nhanh. Nghiêm trọng hơn có thể dẫn tới sốc nhiệt, mất ý thức, mất phương hướng và lên cơn co giật. Anh sẽ không ý thức được chuyện gì đang diễn ra, anh không thể tự mình nhận ra những thay đổi trong cơ thể. Kết quả là anh nằm co quắp dưới rãnh hoặc đưa ra quyết định sai lầm vào đúng thời khắc mà anh cần phải ra khỏi khu vực nắng nóng, bổ sung muối, nước và tìm mọi cách hạ nhiệt độ cơ thể. Nếu không, anh sẽ rơi vào tình trạng hôn mê và tử vong.

Ban tổ chức giải đua cho biết vận động viên nào bị nghi có triệu chứng kiệt sức do nhiệt buộc phải rời cuộc đua ngay lập tức. Có điều, họ không nói gì về vụ một vận động viên tham gia giải đua tử vong do sốc nhiệt sáu năm trước. Micro được chuyển sang cho một phụ nữ người Mỹ. Tôi nhận ra bà ấy. Bà là nhà sáng lập giải đua này. “Giải đua năm nay của chúng ta có sự góp mặt của những vận động viên tầm cỡ,” bà cất tiếng, “trong đó có Tommy Chen.” Hàng trăm vận động viên có mặt trong khán phòng vỗ tay. Mọi người tập trung chú ý vào một thanh niên người Đài Loan, có đội ngũ quay phim riêng đứng cạnh, sẵn sàng ghi lại khoảnh khắc này. Tiếp sau đó, chúng tôi được nghe một tràng chiến tích và bí quyết đằng sau chiến thắng của cậu ta.

Lúc ở nhà, tôi đã nghiên cứu kĩ về những vận động viên mà tôi nghĩ là đối thủ đáng gờm. Vì thế, tôi biết Tommy là một trong những người giỏi nhất. Cậu ta là một siêu sao chạy đa chặng đích thực và rất khó đánh bại.

Trước khi rời Scotland, tôi đã đọc email liệt kê top mười vận động viên sáng giá nhất mà ban tổ chức gửi. Danh sách đó không có tên tôi, mặc dù tôi từng đánh bại vài người có tên trong danh sách. Tôi phần nào vẫn tức anh ách về cái danh sách ấy, không phải vì tổn thương lòng tự trọng của tôi. Cũng đúng thôi, họ không có lí do để tin tôi sẽ tỏa sáng. Đã tám tháng nay tôi không đua, kể từ lần tham gia giải chạy cự li 132 dặm ở Campuchia. Tôi cảm thấy mình bị lãng quên, nhưng tôi không đổ lỗi cho họ vì đã bỏ qua tôi.

Tôi chỉ giận chính mình. Mới chạy được ba năm, nhưng tôi đã được đứng trên bục vinh quang vài lần. Đến với thể thao quá muộn, tôi biết mình chỉ có một cơ hội nhỏ để chứng minh bản thân. Với tôi, khoảng thời gian tám tháng nghỉ phục hồi quá phí phạm.

Trước buổi họp mặt, chúng tôi phải kiểm tra hành lý để đảm bảo rằng tất cả các vận động viên đều có đủ vật dụng bắt buộc cho cuộc đua. Chúng tôi phải mang tất cả đồ ăn, mặc, ngủ đủ dùng trong sáu chặng, bảy ngày đua, nhưng vẫn phải đảm bảo trọng lượng ba lô ở mức tối thiểu. Đối với tôi, điều đó có nghĩa là không thay quần áo, không chiếu ngủ, không sách, không điện thoại để giải trí suốt cuộc đua. Tôi chỉ mang theo túi ngủ, một bộ quần áo, và lượng thực phẩm tối thiểu đủ dùng trong ngần ấy ngày. Tôi cần 2.000 calo mỗi ngày, dù biết khi chạy, tôi sẽ đốt cháy gần 5.000 calo. Đến lúc về nhà, người tôi trông như bộ xương khô, nhưng đáng giá.

Hôm sau, chúng tôi đi xe khách đến điểm xuất phát, cách Hami hai giờ đi đường. Ngoài cuộc trò chuyện ngắn ngủi với anh bạn ngồi bên cạnh, phần lớn thời gian tôi đều im lặng và cố ngăn chặn tiếng ồn từ ba cậu thanh niên người Ma Cao ngồi sau. Họ cười cười nói nói suốt đường đi. Thỉnh thoảng tôi quay lại và gượng cười ái ngại với họ, mong họ hiểu mà giữ trật tự giùm. Nhưng họ lại cười nhăn nhở và tiếp tục bữa tiệc như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Xe dừng bánh. Tôi hơi mệt và muốn xuống xe, tìm chỗ nào đó yên tĩnh để chuẩn bị tinh thần cho cuộc đua phía trước.

Người dân địa phương chào mừng chúng tôi bằng điệu múa đặc trưng, cưỡi ngựa và tổ chức một trò chơi tương tự như mã cầu nhưng không phải chơi với bóng mà chơi với một con cừu chết. Tôi lẻn về lều trước để giữ chỗ. Hầu như giải chạy siêu bền đa chặng nào các vận động viên cũng được phân lều và cố định trong suốt giải đua. Anh không bao giờ biết được mình sẽ ở với ai, nhưng ít nhất anh có thể đảm bảo chỗ ngủ của mình không quá kinh khủng.

Tôi đứng trong chiếc lều quân dụng cũ, tự hỏi nên nằm ở đâu. Tôi ghét nằm gần cửa vì gió lùa, và cuối lều thường lạnh hơn. Được rồi, chọn chỗ giữa vậy. Hi vọng các bạn cùng lều không ngáy ngủ hoặc làm ồn.

Tôi kiểm tra hành lý lần cuối thì ba người đầu tiên vào. Trông họ khá an phận và không cãi vã gì khi chọn chỗ.

Lòng tôi bỗng chùng xuống khi nghe thấy tiếng cười. Tôi ngẩng đầu nhìn lên và thấy ba cậu người Ma Cao bước vào.

Mặc dù bấy giờ đang là mùa hè nhưng sau khi mặt trời lặn, nhiệt độ giảm đột ngột. Ngài thị trưởng đang phát biểu gì đó, nhưng tôi nghe không hiểu. Được cái màn trình diễn múa Mông Cổ và phi ngựa nước đại khiến tôi không rời mắt nổi. Một vài vận động viên đang ngồi quây lại thành vòng tròn, ăn bữa tối, còn tôi thì dạo quanh. Tôi thơ thẩn nhìn đoàn làm phim của Tommy Chen một lúc rồi định quay về lều. Thấy mọi người bắt đầu hỏi nhau đi loại giày nào, ba lô nặng bao nhiêu kí, hay có ai mua thêm đồ dự trữ không, thì quả đã đến lúc tôi rời đi rồi. Tham gia mấy cuộc chuyện trò kiểu này trước khi cuộc đua bắt đầu rõ ràng không phải ý hay. Bởi khi anh phát hiện ra người ta làm khác mình, anh sẽ bắt đầu nghi ngờ chính bản thân mình.

Tôi xem đồng hồ - sáu giờ ba mươi. Đến giờ ăn rồi. Dù quá trình chờ đợi không mấy vui vẻ, bản thân thì đang lo lắng và trời đã tối rồi, nhưng tôi luôn nhắc nhở bản thân phải ăn đúng bữa trước mỗi ngày đua. Anh không nên ăn quá sớm, vì như thế sẽ khiến cơ thể tiêu tốn calo trước khi anh chạy.

Tôi lấy thức ăn, chui vào túi ngủ, và lặng lẽ ăn tối trong lều.

Tôi định sẽ ngủ say trước khi có người về.

3

MỌI NGƯỜI LUÔN DẬY QUÁ SỚM VÀO NGÀY đầu tiên của cuộc đua. Họ không ngủ được vì lo lắng. Hai, ba tiếng trước khi xuất phát, cả lều xôn xao hẳn lên. Mọi người loay hoay sắp đồ, ăn uống, tán gẫu, và băn khoăn không biết mình còn thiếu vật dụng nào không hay có ăn đúng và đủ bữa sáng hay chưa.

Tôi hiểu tâm trạng đó. Bởi tôi cũng đã từng như thế. Nhưng giờ thì không. Tôi xây dựng cho mình một thói quen.

Chín mươi phút trước giờ xuất phát - thức dậy, thay đồ, vệ sinh cá nhân.

Sáu mươi phút trước giờ xuất phát - ngồi trong túi ngủ ấm áp và ăn bữa sáng giàu calo.

Mười lăm phút trước giờ xuất phát - gấp gọn túi ngủ và đệm hơi, rời lều và tiến vào hàng.

Trước giờ xuất phát một tiếng đồng hồ, có thể một số người sẽ cảm thấy thói quen của tôi có chút kỳ quặc. Bởi tôi ngồi trong túi ngủ suốt, đến tận lúc vào hàng mới chịu ra. Trong khi mọi người lục đục ra ngoài ăn đồ khô thì tôi vẫn cuộn mình trong túi ngủ, đội mũ len beanie1* che kín đầu, và ngấu nghiến một hộp đồ ăn đông lạnh gồm có đậu, xúc xích, thịt xông khói và nấm. Một vài người tò mò nhìn tôi. Trong suy nghĩ của họ, chẳng có vận động viên chạy đa chặng nào lại mang theo đồ hộp cả bởi vì chúng nặng hơn đồ khô. Tôi chỉ ăn một hộp trước khi cuộc đua bắt đầu. Những ánh nhìn nghi hoặc, chê tôi nghiệp dư của đám người kia không đáng gì so với việc bổ sung 450 calo.

1* Mũ beanie: mũ len có hình dáng tròn hoặc bầu dục, kiểu dáng đơn giản và ôm sát đầu.

Tự dưng tôi lại thấy mấy món này thơm ngon lạ thường. Có lẽ bởi sáu ngày tới, tôi sẽ chỉ được ăn mấy thứ đồ khô cong, lạnh toát, có vị như cá hồi hay mì Ý sốt thịt bò bằm; rồi thi thoảng mới được nhấm một ít thịt khô Biltong2* thái lát, một ít đậu, và mấy tá gel bổ sung năng lượng. Chưa nổi một tuần, chắc tôi sẽ phát ốm với thứ thức ăn này mất. Nhưng biết sao được, chúng vừa nhẹ vừa dinh dưỡng.

2* Thịt khô Biltong: đặc sản Nam Phi, thường là thịt phi lê đà điểu, ướp gia vị rồi treo lên cho khô.

Tôi nhai ngồm ngoàm thức ăn trong miệng. Tôi không thấy ba anh chàng người Ma Cao đâu cả, nhưng tôi dám cá những người còn lại trong lều - hai người Anh và một người Mỹ - đang nhìn tôi chằm chằm như thể tôi là một thằng ngốc hết thuốc chữa. Không ai nói gì cả. Ăn xong, tôi lại nằm xuống và cuộn mình thật chặt trong túi ngủ. Tôi đoán chắc họ vẫn đang nhìn tôi.

Còn mười lăm phút nữa. Tôi ra khỏi túi ngủ, gói ghém đồ đạc cho vào trong ba lô, và thẳng tiến tới vạch xuất phát. Tôi biết mọi người lại đang nhìn mình. Ngày đầu tiên, họ luôn thế mỗi khi thấy tôi đi đến. Áo trên bó sát màu vàng sáng in logo của nhà tài trợ. Người tôi vừa cao vừa gầy nên trông tôi đúng như một trái chuối. Lúc chuẩn bị và tập luyện trước cuộc đua tự tin bao nhiêu thì lúc nhìn vạch xuất phát tôi lại nghi ngờ bản thân bấy nhiêu. Dù có cố lảng tránh thế nào thì suy nghĩ các vận động viên khác trông giỏi hơn mình vẫn luôn ám ảnh tôi. Trông họ cơ bắp, khỏe khoắn, và bền bỉ như những vận động viên thực thụ khiến tôi chợt thấy mình không khác gì dân nghiệp dư. Cách duy nhất giúp tôi vượt triệu chứng này là nghiến chặt răng, giấu mình sau chiếc kính râm và tự nhủ đến lúc phải tập trung vào nhiệm vụ chính rồi.

Với nhiều vận động viên marathon, hành động buộc dây giày, nhìn về phía trước, tìm được sự đồng điệu giữa hơi thở và bước chạy giữa thiên nhiên là một trải nghiệm tuyệt vời. Đó là lúc ta được nếm sự tự do, bình yên, khoảnh khắc thời gian như dừng lại và những lo toan về cuộc sống thường nhật biến mất.

Tôi không nằm trong số họ. Nhưng vợ tôi thì có đấy. Lucja chạy vì cô ấy thích, đua vì cô ấy yêu tình bạn và thích sống giữa mọi người. Tôi thì không. Tôi không thích chạy. Không thích một chút nào. Nhưng tôi thích đua. Tôi mê thi đấu.

Quãng thời gian ba mươi bảy năm giúp tôi nhận ra rằng tôi được sinh ra để đua. Từ thuở niên thiếu đến những năm hai mươi, tôi đã đấu cricket và khúc côn cầu. Ngay từ đầu, tôi đã mê đường chuyển động của bóng ném, tư thế quật bóng qua vòng biên hoàn hảo và cú đánh tên lửa trúng góc phải cầu môn. Đối với tôi, cả hai môn thể thao này đều mang lại cảm giác hạnh phúc và yên bình trào dâng như lúc Lucja chạy vậy. Nhưng mà tinh thông kỹ thuật chặn bóng và ném bóng thì sao chứ, tôi vẫn không thể năng nổ dưới vai trò thành viên của một đội. Đã rất nhiều lần, trong các trận đấu, tôi chứng kiến đồng đội lên cơn thịnh nộ vì tôi chơi không tốt. Từ đó, tôi nhận ra mình hợp với các môn thể thao cá nhân hơn.

Bằng chứng là tôi từng chơi golf một thời gian và chơi khá tốt - tốt đến mức cuối tuần nào tôi cũng tiếp các tay golf trên sân cỏ khắp các vùng ngoại ô phía tây Sydney, và kiếm đủ tiền sinh hoạt cho gia đình trong một tuần. Nhưng chính luật chơi ngặt nghèo chọc tôi phát cáu. Cuối cùng, sau cả đống lần nổi cơn tam bành và bẻ gãy vô số chiếc gậy, tôi quyết định golf không phải là môn thể thao dành cho mình.

Sau đó, đến với chạy, tình cờ tôi ngộ ra, bản tính thích ganh đua của mình đã quay trở lại. Thời điểm đó, gia đình tôi đã rời khỏi London, và đến Manchester sinh sống. Ấy là đêm Giao Thừa, tôi nghe Dan, một người bạn trong đội cricket, huyên thuyên về việc tham gia một giải bán marathon1* vào mùa xuân năm nay. Cậu ấy nói muốn phá kỷ lục một giờ bốn mươi lăm phút của chính cậu. Qua Lucja, tôi cũng biết chút ít về chạy đường trường. Một giờ bốn mươi lăm phút không phải là một thành tích đáng nể nhưng cũng hơn khối người trong nghề rồi. Thân hình Dan khá cân đối nên tôi có lí do để tin rằng cậu ta hoàn toàn có khả năng chạy nhanh hơn.

1* Bán marathon: Cự li 13,1 dặm Anh, tương đương 21,1 kilomet.

Thấy cậu ta quá tự mãn, tôi đặt chai bia xuống và lên tiếng: “Tôi có thể đánh bại cậu.”

Dan cười phá lên. Tiếng nhạc ầm ĩ nên cậu ta phải ghé lại gần tôi để chắc chắn mình không nghe nhầm. “Sao cơ?”

“Tôi có thể đánh bại cậu. Dễ ợt.”

“Không thể nào. Cậu không phải một vận động viên chạy bộ, Dion.”

“Dan, dám cá là tôi sẽ về trước cậu năm phút.”

Câu chuyện dần vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Mọi người cười cợt và la ó ầm ĩ, ngay sau đó, thỏa thuận được xác lập. Nếu thành tích của tôi không nhanh hơn Dan năm phút, tôi sẽ phải mời hai vợ chồng cậu ta và Lucja ăn tối. Ngược lại, nếu tôi thắng, cậu ta chủ chi.

Lucja liếc xéo tôi, Lại thế nữa. Tôi chỉ cười trừ, rồi giơ tay đầu hàng. Tôi chỉ muốn kiếm một bữa ăn miễn phí cho hai vợ chồng thôi mà.

Cuộc đua diễn ra vào cuối tháng Ba. Theo sơ đồ đường chạy, tôi phải leo qua hai ngọn núi. Tôi đã chạy được một, hai năm nay, nhưng chưa bao giờ chạy quá hai, ba dặm bởi nếu chạy nhiều hơn thế, tôi sẽ bắt đầu thấy chán nản. Tôi ghét chạy khi trời lạnh và ẩm ướt lắm, mà tháng Một, tháng Hai ở Manchester thì chả có gì ngoài lạnh và ẩm ướt. Cũng chính vì lẽ đó nên qua mấy tuần rồi mà vụ tập chạy của tôi vẫn gần như chưa bắt đầu.

Dan thuộc tuýp vận động viên cuồng khoe khoang. Lần nào đua về, cậu ta cũng không nhịn được đăng thành tích lên Twitter. Cho nên, ngay trước khi chứng tự tin thái quá của cậu ta được đà tái phát, tôi đã kịp tìm hiểu cự li và tốc độ chạy của đối thủ. Nhờ thế, tôi mới có động lực ra khỏi ghế sô pha và ra đường. Tôi biết, chỉ cần tôi gắng chạy nhanh hơn và xa hơn thành tích mà Dan đăng, tôi có thể đánh bại cậu ta.

Tôi đứng kế bên Dan và Lucja tại vạch xuất phát. Trông Dan đầy sung sức và sẵn sàng. Lucja thì thích đoạn phim tuyên truyền phát trước cuộc đua và tiết mục khởi động tập thể lắm. Người phát ngôn hay dùng chiêu này để đẩy không khí lên cao trào trước khi xuất phát. Còn tôi thì thấy bản thân mình lạc lõng trong số hàng nghìn vận động viên mà ai nấy đều có vẻ có trang bị tốt hơn của tôi.

“Cậu biết là tôi sành rượu thế nào mà,” Dan nói. “Có khi cậu cần vay thế chấp lần hai để trả cho bữa ăn tối nay đấy, Dion.”

Tôi chỉ cười không đáp.

“Nghiêm túc đấy, anh bạn.” Cậu ta nói tiếp, làm như quan tâm tôi lắm. “Mà này, cậu chống đỡ được chứ? Chưa gì tôi đã thấy hừng hực rồi này. Đừng cố quá.”

Tôi đang hồi hộp đây. Miệng tôi khô khốc. Điều duy nhất tôi có thể làm lúc này là hít càng nhiều không khí vào phổi càng tốt.

Súng nổ, và chúng tôi xuất phát. Dan đang chạy kế bên tôi. Chúng tôi duy trì nhịp độ vừa phải. Lucja đã bị tụt lại phía sau, chỉ còn hai chúng tôi chạy cùng nhau. Cậu ta thật mạnh mẽ và kiểm soát tốt cơ thể của mình. Tôi dễ dàng bắt kịp cậu ta và vui vì cuộc đua giữa hai chúng tôi đã chính thức bắt đầu.

Khi chúng tôi cán mốc một dặm đầu tiên, tôi chợt giật mình nhận ra, chỉ còn mười hai dấu mốc nữa để về trước Dan năm phút. Vậy là tôi làm điều duy nhất tôi nghĩ đến lúc này. Tôi quyết định bỏ hết vốn liếng, chạy nhanh hết sức có thể. Không lâu sau, hai lá phổi bắt đầu đau nhói. Tôi thấy như thể mình không còn đủ không khí để thở nữa. Vốn muốn thả chậm tốc độ một chút và hồi phục, nhưng tôi lại ép bản thân mình duy trì tốc độ. Để cán đích trước Dan 5 phút, tôi phải kéo dãn khoảng cách với cậu ta.

Tôi không quay nhìn lại lấy một lần. Bởi tôi biết, có nhìn cũng vô dụng. Tôi có thể mất bình tĩnh khi thấy cậu ta ngay sau mình, hoặc chạy chậm lại nếu thấy cậu ta còn xa mới bắt kịp tôi. Tôi hiểu, thắng hay thua đều phụ thuộc rất nhiều vào tâm lý. Vì vậy, nếu tôi tập trung và gắng sức, tôi sẽ không bị phân tâm.

Dan nói đúng. Hôm nay quá nóng. Ngày trước ở Manchester, tôi chưa từng trải qua trận nóng nào tương tự vào thời gian này trong năm. Suốt cả buổi sáng, hết tiếng ồn của đám đông lại đến tiếng còi xe cứu thương chuyên chở các vận động viên bị kiệt sức trên đường chạy. Dù vậy, với tôi, cái nóng không phải là mối đe dọa. Nó giống một người bạn hơn. Nó nhắc tôi nhớ về thuở ấu thơ ở Australia, những ngày hè tôi chơi cricket hoặc đạp xe hàng giờ liền dưới cái nóng 43 đến 48 độ. Bởi lẽ đó, sức nóng suốt cuộc đua này không là gì với tôi cả. Thậm chí, nhiệt độ càng cao và chạy càng xa, tôi càng thấy sung sức hơn.

Ít nhất là thế đến tận dặm thứ mười một. Kể từ đây, tôi bắt đầu thấy đuối sức. Chân tôi tê liệt và yếu dần, như thể có ai đó tước mất một nửa cơ trên chân tôi. Nhưng tôi vẫn chạy, cố gắng hết sức và nhắc nhở bản thân: tất cả vì lòng tự tôn.

Tôi cán đích sau một giờ ba mươi tư phút, nhanh hơn thành tích cao nhất của Dan 9 phút. Một thành tích đáng nể với người lần đầu tham gia cuộc đua bán marathon. Nhưng liệu đã đủ? Dan xuất phát khá nhanh và tập luyện giúp anh ta có cơ hội về nhất. Còn tôi, tất cả những gì tôi có thể làm sau khi về đích là cúi người thở dốc, chờ nhịp thở bình thường trở lại và đếm từng giây, hi vọng không trông thấy cậu ta.

Lucja về sau tôi hơn năm phút. Chúng tôi đập tay mừng chiến thắng và mỉm cười nhìn Dan về đích sau đó mười phút. “Cậu làm thế nào thế?” Cậu ta hỏi khi lấy lại sức. “Chạy không thấy bóng luôn. Chắc cậu phải luyện tập chăm hơn đã nói nhiều...” Tôi cười và vỗ vào lưng cậu ta. “Bạn thân mến, cậu nên cai Twitter đi thôi.”

Tương tự như bất cứ cuộc đua nào khác trên thế giới, mỗi vận động viên có cách ổn định tâm lý khác nhau khi đứng sau vạch xuất phát. Tôi đứng ở mạn sườn, hàng thứ hai hay thứ ba từ trên xuống, liếc mắt nhìn những người chung quanh để tránh căng thẳng. Tommy Chen cũng có mặt, tâm thế sẵn sàng và tập trung, với đội quay phim kế bên và người hâm mộ vây quanh. “Chúc may mắn, Tommy,” ai đó hô. “Chúc cậu ẵm huy chương!”

“Cám ơn mọi người,” cậu ta đáp, di chân tới lui. Tôi để ý thấy nụ cười tắt ngúm trên gương mặt cậu. Cậu ta cũng lo như chúng tôi thôi. Có khi còn hơn ấy chứ. Tôi biết cậu ta là một trong nhiều ngôi sao chạy siêu bền đa chặng mới nổi. Tuy vậy, cuộc đua đầu tiên trong năm cuộc đua tổ chức năm nay, cậu ta chỉ về thứ nhì. Áp lực đè nặng lên vai cậu ta.

Để tránh rảnh rỗi rồi lại nghĩ linh tinh, tôi kiểm tra tư trang thêm lần nữa, xem dây đai quanh ngực đã chặt chưa. Đồ ăn chuẩn bị cho chặng này đã ở trong ba lô. Ghệt màu vàng sáng đã thắt chặt quanh giày. Tôi biết sớm nay chúng tôi sẽ chạy qua cồn cát. Bốn, năm tiếng ma sát trên cát có thể khiến bàn chân phồng rộp và nhiều chấn thương khác.

Còi đã vang lên, thế giới quanh tôi chợt tĩnh lặng. Cuộc đua bắt đầu trên một đồng cỏ trải rộng. Còi vang, dòng người chen chúc nhau, ào ào xông lên. Ai cũng muốn dẫn đầu trong ngày đầu tiên, còn tôi thì không để tâm nhiều đến thế. Đây chính là nét đẹp riêng của các cuộc đua - nơi vận động viên đẳng cấp thế giới đồng hành cùng vận động viên nghiệp dư, không phân thứ hạng hay cấp bậc. Nếu anh dẫn trước, giữ vững tốc độ thì anh trở thành đồng bạn của tôi.

Tôi nghĩ thế này, lúc xuất phát sẽ khó mà chạy nhanh được vì mọi người hay kết bè, nên tôi độc hành, tránh xa những người còn lại. Tôi không muốn vướng víu tay chân. Nếu chạy đủ nhanh, tôi có thể dẫn trước phòng khi đường chạy hẹp và phải băng qua hẻm đá.

Chiến lược bước đầu hiệu quả. Sau 100 mét đầu tiên, tôi bám sát Tommy. Tối qua trời không mưa, nhưng con đường đá vẫn trơn do sương sớm. Vậy nên, cũng như Tommy, giữ vững nhịp chạy và bước chạy, với tôi, không dễ chút nào. Tôi đoán chắc, cả hai chúng tôi đều biết nếu tiếp đất sai, bị sái mắt cá chân, thì chúng tôi, hoặc sẽ ráng chịu đau trên 150 dặm còn lại, hoặc nghiêm trọng hơn, bỏ cuộc giữa chừng.

Tôi nghe loáng thoáng có tiếng bước chân đằng sau, rồi thấy một anh chàng Rumani sượt qua. Cậu ta bật nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác như thể chúng là những giàn nhún siêu nhỏ. Khi Tommy thấy mình sắp bị tụt lại sau anh chàng kia, cả hai người họ nhanh chóng tăng tốc, kéo dãn khoảng cách với tôi. Bình tĩnh, tôi tự nhủ. Không cần lo lắng gì cả. Tôi cùng huấn luyện viên đã cùng nhau vạch ra một chiến lược đua chi tiết theo từng chặng trước khi tôi rời Scotland. Chúng tôi cùng nhìn lại các giải đua tôi tham gia trước đó, và nhận thấy tôi hay mắc cùng một lỗi.

Tôi thường xuất phát chậm, sau tăng tốc để thu hẹp khoảng cách trong một tuần tiếp đó, nhất là ngày đua dài, cự li từ năm mươi dặm trở lên, đúng như điểm mạnh của mình. Thực sự thì tôi không phải là người khởi đầu tốt. Buổi sáng đầu tiên bao giờ cũng khó khăn với tôi. Chẳng thế mà cuối ngày đầu tiên, tôi thường chậm hơn những người thuộc tốp đầu những hai mươi phút đồng hồ, và gần như không có khả năng lật ngược tình thế.

Ngay cả khi tập luyện cũng vậy. Trong một, hai dặm đầu, tôi vừa chạy vừa tự vấn liệu tôi có nên chạy tiếp. Đúng hơn thì mấy phút đầu tôi chỉ toàn nghĩ vẩn vơ hơn là tập trung chạy. Nhưng nếu vượt qua đoạn này thì tôi sẽ phi như bay trong nửa cuối đường đua.

Tin rằng thành tích ngày đầu tiên sẽ không tệ nếu tôi giữ vững khoảng cách với Tommy và anh chàng người Rumani kia. Nếu cứ duy trì tốc độ này đến gần cuối chặng một, không nóng vội, thì những ngày đua còn lại tôi có thể đạt thành tích cao nhất.

Nửa chặng trôi qua, anh bạn Rumani bắt đầu đuối sức, và tụt lại tít phía sau. Tôi không còn nghe thấy tiếng bước chân của cậu ta nữa. Tôi trông lên cồn cát cao ngất đằng trước. Dốc, trải rộng và phải cao đến hơn 90 mét. Tôi từng thấy những cồn cát dạng này ở Ma rốc, nhưng cái này có vẻ hơi khác. Tuy cát ở mạn sườn trông chắc và đặc hơn nhưng khi tôi chạy lên, nó lại mềm và gần như sụp lún ngay tức khắc.

Có một bí quyết chạy qua cồn cát, cũng là bài học xương máu mà tôi đã đúc rút được từ lần đầu tham gia Giải Marathon des Sables. Lúc ấy, tôi vốn không biết phải bước càng ngắn càng tốt, tốc độ phải nhanh bởi nếu chẳng may dính phải, cát lún sẽ kìm hãm bước chân bạn. Tôi không biết đường dài đôi khi dễ đi hơn đường ngắn. Dĩ nhiên, tôi bị kẹt cứng và về tít cuối ngày thứ nhất, thậm chí còn suýt bị loại thẳng.

Tommy bước chân lên cồn cát trước tôi, nhưng mới bước được đôi bước đã phát hiện ra cát ở sa mạc Gobi khác cát ở sa mạc Sahara. Có vẻ mưa cục bộ suốt đêm khiến cát sậm màu và lộn nhộn hơn. Chỉ cần một lực nhẹ cũng làm cát trượt xuống như bùn nhão. Nhiều lúc, tôi phải dùng cả tay để bò lên. Chúng tôi đây không phải chạy mà là trườn trên cát mất rồi. Rốt cục, khi leo tới đỉnh, cả cồn cát hiện rõ trước mắt chúng tôi. Chiến lược duy nhất là chạy dọc theo đỉnh hẹp dài chưa đến một dặm. Bởi cả hai sườn đều dốc, nếu chẳng may lỡ bước, anh sẽ bị lăn xuống đáy ngay. Sau đó, lại phải tốn thêm thời gian và năng lượng quý báu để leo lên lần nữa.

Tommy có vẻ thích quang cảnh này. “Nhìn kìa!” Cậu ta hét lên. “Ngoạn mục nhỉ!”

Tôi không đáp. Tôi sợ độ cao và càng sợ bị ngã xuống. Nên tôi bước từng bước cẩn trọng về phía trước. Mấy lần trượt chân suýt ngã, tôi chới với khua tay cố lấy lại thăng bằng. Những lúc ấy, tôi chẳng còn đủ sức quan tâm Tommy đã cách tôi bao xa nữa, mà chỉ chăm chăm nhìn xuống chân, thầm mong cát đừng có sụt xuống.

Ghét cay ghét đắng là thế, nên đến lúc được chạy xuống, tôi sướng rơn. Tiếp thêm năng lượng cho đôi chân, tôi lao xuống như bay. Đến chân cồn cát, tôi đã vượt Tommy. Nghe tiếng bước chân bám sát phía sau, tôi có thể cảm nhận được cậu ta sững sờ thế nào.

Chúng tôi chạy song song một đoạn, rồi đua nhau lội qua mấy cánh đồng ruộng, chạy trên những cây cầu bắc qua một hồ chứa khổng lồ. Sa mạc Gobi với bãi cát mênh mông và cái nóng tàn khốc vẫn còn cách chúng tôi vài ngày đường nữa. Lúc chạy qua những thôn làng hẻo lánh như từ thế kỷ trước, chúng tôi bắt gặp những căn nhà ọp ẹp đổ xô trên mặt đất như phim trường bỏ hoang. Thỉnh thoảng, chúng tôi gặp cả người dân bản địa. Họ vừa đứng vừa hờ hững nhìn chúng tôi. Họ nín thinh. Có vẻ như họ không mấy quan tâm đến sự xuất hiện của chúng tôi. Dẫu sao thì bấy nhiêu thứ không ảnh hưởng gì đến tôi. Tôi đang phi như bay, tràn trề hi vọng rằng Sa mạc Gobi không phải là cuộc đua cuối cùng trong đời tôi.

4

TÔI SINH RA Ở SYDNEY, NEW SOUTH WALES, nhưng lớn lên ở một thị trấn hẻo lánh có tên Warwick, thuộc Queensland, Australia. Đó là một vùng quê mà những người dù chưa ghé thăm bao giờ nhưng chỉ cần nhìn bạn là họ biết bạn đến từ Warwick. Một vùng nông nghiệp, với nhiều giá trị truyền thống và trọng gia đình. Giờ nó đã thay đổi nhiều rồi, trở thành một thành phố nhỏ sôi động. Nhưng hồi tôi còn là thiếu niên, Warwick chỉ đông vui vào tối thứ Sáu. Những con người cần mẫn chen chúc trong các quán bar, chờ mong một buổi tối xả hơi với bia bọt, đôi cuộc ẩu đả và vi vu đến trạm xăng - nhiều người Úc hay gọi vui là servo3* - để lấy một cái bánh nhân thịt cứng như đá vì để trong lồng hấp cả ngày trời.

3* Tiếng lóng của Úc, có nghĩa là trạm xăng.

Họ đều tốt bụng cả, nhưng hồi ấy họ thích chia bè kết phái. Chẳng thế mà mọi người đều biết tỏng chuyện của nhau. Còn tôi thì không thuộc về nơi này.

Mọi người không chấp nhận tôi không chỉ vì vụ tai tiếng về thời thơ ấu dị thường và hoàn cảnh gia đình, mà còn vì cách tôi xử sự, vì con người tôi khi lớn lên. Từ một đứa trẻ lễ phép, dễ mến, tôi biến thành một thằng ngoa ngoắt, sao chổi và to mồm. Năm mười bốn tuổi, tôi vào vai thằng hề của lớp, chọc tức giáo viên bằng những lời lẽ pha trò, bị đuổi khỏi lớp, rồi vênh váo đi ra cổng trường, đến trạm xăng cho kịp mẻ bánh đầu giờ chiều trong khi những thằng ngốc khác vẫn phải ngồi trong lớp học.

Lễ tổng kết cuối khoá, nếu thầy hiệu trưởng thân mật bắt tay từng đứa và tặng chúng những lời chúc tốt đẹp thì đến tôi, ông ta lại nói, “Tôi sẽ đến thăm trò khi trò ở tù.”

Tất nhiên, mọi việc đều có nguyên do của nó. Tôi trở nên như vậy không chỉ vì tôi mất bố - không những một mà hai lần liền.

Tôi sa ngã bởi cả nhà tôi đều thế.

Nỗi đau mất chồng đã khiến mẹ tôi gục ngã. Đau đớn. Ông ngoại, cũng giống như nhiều thương binh khác trở về sau Thế chiến II, mượn rượu để làm tê liệt cơn đau. Tuổi thơ đã dạy mẹ một điều: Khi gia đình không yên ấm, nhà không phải lúc nào cũng là nơi trú ẩn tốt nhất.

Vì vậy, mới đầu ba mươi đã góa chồng, cắp theo hai đứa con, bà chọn cách giải quyết duy nhất mà bà biết: trốn tránh. Tôi nhớ những tháng ngày bà khóa trái cửa, nhốt mình trong phòng ngủ, mặc tôi tự sinh tự diệt. Những ngày như thế, tôi tự nấu món trứng trên bánh mì hoặc làm spaghetti bằng lon, hoặc đến nhà bà nội, nhà hàng xóm, hoặc đến nhà thờ nếu hôm ấy là Chủ nhật.

Tôi chứng kiến mẹ trải qua cái thời tự dưng dọn dẹp nhà cửa. Bà dọn không biết mệt, và vào một dịp kì cục nào đấy, bà tự nấu ăn, tất tưởi kì cọ bếp những hai giờ liền. Tôi và em gái, Christie, đều có lúc mắc lỗi. Suy cho cùng, chúng tôi vẫn là trẻ