← Quay lại trang sách

PHẦN I SƠ TÁN 1. TỰ THẮNG

Có một ngôi trường mà sau bảy mươi năm, chỉ còn lưu giữ trong ký ức của một số ít người. Đó là Trại Nhi đồng Khe Khao, nhà trẻ nội trú đầu tiên của ngành giáo dục mầm non nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trại được thành lập đầu năm 1951 tại ATK* Chợ Đồn, tỉnh Bắc Cạn.

An toàn khu, là khu vực Quân đội Nhân dân Việt Nam kiểm soát gần như tuyệt đối trong kháng chiến chống Pháp.

Tự Thắng là một trong những học sinh của Trại Nhi đồng Khe Khao.

Khe Khao ở độ cao 1000m so với mặt biển. Nơi đây không khí trong lành, sáng và tối phủ đầy sương, ban ngày bầu trời trong xanh. Bọn trẻ con được các chú bộ đội và người dân địa phương cho vào thúng, gánh lên núi, qua một chặng đường dốc ngược quanh co, hai bên phủ đầy lau sậy. Ngày trước vùng này có một mỏ kẽm, do Pháp khai thác, nay đã đóng cửa. Mấy gian nhà gạch, khi xưa là nơi ở của nhân viên người Pháp, được cô Tụy Phương cải tạo lại, làm phòng ăn, phòng ngủ, phòng chơi, trạm xá. Khi các cháu đông lên, phải làm thêm hai dãy nhà tranh.

Gần trại, có một hang đá. Mỗi lần máy bay Pháp đến, mọi người đều chạy vào hang trú ẩn. Trong hang có một dòng suối mát lạnh, chảy róc rách suốt đêm ngày. Sáng sáng, các cô dẫn cả lớp đến hang rửa mặt. Một hôm có hai con trăn cuộn lấy nhau, trôi trên suối. Chú Sáng chạy theo tìm cách bắt mà không được. Từ đó, chẳng đứa nào dám đi ngược lên vùng tối phía bên trong hang nữa.

Những ngày đầu, sau khi rửa mặt xong, các cháu được dẫn xuống khúc suối bên dưới đi vệ sinh. Vừa sạch sẽ, lại sẵn nước rửa. Sau đó, cô Tụy Phương nhận thấy làm thế sẽ ảnh hưởng tới nguồn nước của đồng bào ở chân núi. Chú Sáng nhận nhiệm vụ đào những cái hố để các cháu đi ị. Hố đầy, các cô lấp lại, một thời gian sau trồng rau lên trên, vừa ăn, vừa để ngụy trang. Những giàn bí và su su trong trại đặc biệt xanh tốt là nhờ phần lớn ở công đóng góp của các cháu.

Mùa đông, độ bốn năm giờ chiều là trời bắt đầu tối. Đêm lạnh buốt, mờ mịt sương. Ăn xong, các cô mắc màn, bắt tất cả lên giường. Tự Thắng nhớ có lần cả lớp đang thiu thiu ngủ, bỗng nghe tiếng chân chạy thình thịch ngoài sân, tiếng loảng xoảng của xoong chậu va vào nhau, rồi cánh cửa bị xô mạnh. Một con vật kỳ lạ, trên người có rất nhiều chấm sao lao vào. Nó đi một vòng từ đầu đến cuối lán, ngơ ngác nhìn quanh. Đâu đó vẳng một tiếng chó ăng ẳng rồi tắc nghẹn. Tiếp đó là tiếng răng rắc của đồ gỗ rơi gãy. Các cô từ phòng họp hốt hoảng xách đèn bão chạy về. Bọn trẻ trên hai dãy giường làm bằng những tấm phản gỗ ghép đều đã ngồi dậy, tranh nhau kể về một con vật kỳ lạ. Đúng lúc đó, chú Sáng hổn hển chạy tới. Chú cho biết một con hươu sao bị báo đốm đuổi đã tông cửa chạy vào đây. Mất dấu con mồi, báo đốm vồ luôn con chó Mực của trại. Vì đi họp nên chú không mang súng, chỉ kịp nhặt chiếc ghế gỗ ném theo.

Sau lần báo đốm vào trại, tối nào chú Sáng cũng để cây súng bên mình. Chừng một tháng sau, khi mọi người chuẩn bị đi ngủ thì bên ngoài có tiếng sột soạt. Chú đẩy cửa bước ra. Thấy phía trước có hai đốm sáng, đoán là mắt hổ bắt đèn nên chú nổ súng. Sớm hôm sau, mọi người mới biết con vật bị giết là ngựa của bác Hoàng Quốc Việt* xổng chuồng. Ở vùng rừng núi, ngựa là phương tiện đi lại chính. Mỗi khi quân Pháp mở đợt càn quét lên ATK, Bác Hồ lại yêu cầu đưa những con ngựa khỏe nhất đến chuyên chở đồ đạc và cử các chiến sĩ đến cõng các cháu, giúp nhà trẻ sơ tán sang dãy núi khác.

Năm 195, đồng chí Hoàng Quốc Việt là Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Dân vận - Mặt trận, Chủ tịch tổng Công đoàn Việt Nam

Ở Khe Khao lâu, mọi người cũng quen dần với việc gặp hổ báo. Một lần Tự Thắng rủ Việt Bắc trốn ngủ trưa đi chơi. Khi hai đứa đang tìm cách vượt hàng rào ra ngoài thì một con hổ lững thững đi tới. Lần đầu tiên gặp hổ, cả hai trố mắt ngạc nhiên. Con hổ cũng đứng im nhìn hai đứa bé nhỏ xíu, mặc quần “cổng chào”*, bên trong hàng rào. Thỉnh thoảng nó lại thè lưỡi liếm mép. Rất may lúc đó kẻng báo thức. Các cô chú cấp dưỡng trông thấy hổ liền lôi hết xoong, nồi ra gõ để xua nó đi. Có lần cả lớp sang xưởng sản xuất vũ khí của ông Trần Đại Nghĩa* xem biểu diễn văn nghệ. Trên đường đi cô Tụy Phương phát hiện có nhiều vết chân lạ. Hỏi những người dân địa phương, họ nói là vết chân hổ. Không có chú Sáng mang súng đi cùng, cô Tụy Phương nghĩ ra cách vừa đi vừa hát và vỗ tay thật to để đuổi hổ. Cô Lan Hương nói hổ sợ tiếng nứa đập vào nhau, thế là các cô chặt nứa, bổ thành các thanh, vừa đi vừa gõ lách cách… Lần khác, cả lớp trên đường đi chơi về trại thì phát hiện hổ đang ăn thịt một con trâu ở bụi lau phía dưới. Bọn con gái khóc thút thít vì thương con trâu, còn lũ con trai tranh nhau ngó nghiêng, có đứa nhặt hòn đá định ném. Chú Sáng nói: “Khi hổ đang ăn mồi, nó không quan tâm đến xung quanh, nhưng các cháu phải im lặng. Nếu làm nó nghĩ mình định tranh mồi của nó, mình sẽ gặp nguy hiểm.” Thế là cô trò lặng lẽ rời xa chỗ đó.

Quần có lỗ thủng ở đáy.

Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Quân giới, người đặt nền móng xây dựng ngành khoa học kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng Việt Nam.

Đi lạc trong rừng Khe Khao là một trong những chuyện Tự Thắng không thể nào quên. Đầu giờ chiều một ngày nắng đẹp, khi sương mù tan hết, không khí bắt đầu ấm lên, các cô tổ chức đi chơi. Toàn trại xếp hàng đôi, mỗi đoạn lại có một cô đi kèm. Thảo quên mũ trong lớp nên cô Tụy Phương bảo Tự Thắng cùng nó quay lại lấy. Tự Thắng nhanh nhẹn nên hay được cô tin tưởng, giao nhiệm vụ giúp đỡ các bạn. Khi Thảo lấy được mũ, Tự Thắng bảo nó chờ, để mình đi ị. Phía trên dốc, tiếng cười đùa ríu rít. Thảo đợi một lát không thấy Tự Thắng ra nên đi lên đỉnh dốc. Các bạn đã đi khuất, nhưng vẫn nghe thấy tiếng cười đùa từ xa vọng lại. Chờ thêm một lúc vẫn không thấy Tự Thắng lên, Thảo bắt đầu lo lắng. Tiếng cười đùa của các bạn ngày càng xa và nhỏ dần. Sợ bị lạc, Thảo đuổi theo. Nó chạy về hướng trước đó nghe thấy tiếng cười, nhưng không thấy ai. Thảo càng đi tìm, càng lạc sâu vào rừng.

Mặt trời dần khuất sau những ngọn cây. Sương bắt đầu xuống. Mây mù từng lớp kéo về. Rừng trở lạnh. Thảo vừa đi, vừa khóc, vừa gọi Tự Thắng. Nó gọi tới khi lạc hết cả giọng. Mệt lả, Thảo ngồi bệt dưới gốc cây ven bờ suối. Dù rất khát nước, nhưng nó không dám xuống uống, vì nhớ tới đôi trăn trôi trên dòng suối trong hang hôm nào. Đêm hạ tuần tối đen như mực. Những con thú bắt đầu đi kiếm ăn. Tiếng kêu gọi bầy và cả những tiếng gầm gừ trong đêm làm Thảo rất sợ. Tiếng khóc của nó chìm trong bóng đêm và tiếng gió ngàn, rồi chuyển thành tiếng ư ử trong cổ họng…

Tự Thắng ị xong, chạy lên dốc không thấy Thảo. Đoán Thảo đã đi cùng cả lớp, Tự Thắng đuổi theo. Lúc trước nó nghe cô Tụy Phương nói hôm nay sẽ lên chơi đền Bà chúa Thượng Ngàn, là nơi nó đã được chú Sáng cho đi “tiền trạm”, nên chạy về hướng đó. Tới nơi không thấy Thảo, Tự Thắng hốt hoảng báo với các cô. Cô Tụy Phương lập tức cử cô Lan Hương ở lại với lớp, còn các cô cùng chú Sáng chia nhau đi tìm. Tìm tới khuya vẫn không thấy Thảo. Tuy không nói ra, nhưng trong lòng ai cũng sợ nó bị thú dữ ăn thịt. Ngoài chuyện đó, cô Tụy Phương còn một mối lo nữa. Trước khi đi tìm Thảo, cô đã hỏi đi hỏi lại Tự Thắng lúc về lấy mũ Thảo có mặc thêm áo ấm không, và rất lo lắng khi biết nó chỉ mặc một chiếc áo khoác mỏng. Đêm trong rừng, mặc phong phanh dễ cảm lạnh.

Ở trại, cô Tụy Phương là người rất quan tâm đến cách ăn mặc của các cháu. Việc chăm sóc những đứa trẻ quá kỹ lưỡng đã làm cô bị hiểu không đúng. Có người đưa ra cuộc họp, phê bình cô giáo dục theo kiểu tiểu tư sản, xa rời bản chất giai cấp công nông. Họ dẫn ra việc ngày nào cô cũng bắt thay áo cho các cháu ba lần và rửa đít cho các cháu bằng tay, trong khi đồng bào ở đây chỉ rửa bằng đầu ngón chân. Về chuyện thay áo, cô Tụy Phương giải thích: “Buổi sáng ở Khe Khao nhiều sương lạnh, phải mặc cho các cháu đủ ấm. Trưa trời hửng, các cháu ra nhiều mồ hôi, phải cởi bớt áo ra. Tối trời trở lạnh, phải mặc thêm áo…” Còn chuyện rửa đít bằng tay, cô biết mọi người phản đối chỉ vì quan điểm khác biệt, chứ ai cũng coi các cháu như con mình, và sẵn sàng làm những điều tốt nhất cho các cháu. Vì vậy, cô kiên trì thuyết phục và trực tiếp dùng tay rửa khi các cháu đi vệ sinh. Theo cô, da các cháu còn mỏng, nếu dùng ngón chân cái ngoáy ngoáy, có thể làm da bị xước, gây nhiễm trùng. Cuối cùng, mọi người cũng ủng hộ cô. Việc làm này vẫn được duy trì cho tới cả khi các cháu chuyển về Trại Nhi đồng Miền Bắc ở Hà Nội.

Khoảng mười giờ đêm, đầu trại có ánh đuốc và giọng nói lao xao. Một nhóm người dân tộc đưa Thảo về trại. Họ đi rừng về muộn, tình cờ nghe như có tiếng trẻ con khóc nên chia nhau tìm và phát hiện Thảo đang ngồi dưới gốc cây. Ban đầu họ hỏi bằng tiếng dân tộc, làm Thảo đã sợ càng thêm sợ. Sau đó, có một người nói bằng tiếng Kinh lơ lớ. Thảo nghe mãi mới hiểu họ hỏi có phải ở Trại Khe Khao không và gật đầu. Thế là mọi người thay nhau cõng nó về trại.

Vì tất cả đều lo tìm Thảo nên mọi sự quan tâm của các cô tập trung vào nó. Đến lúc gặp được Thảo, mọi người mới nhận ra trại còn thiếu một người nữa. Đó là Tự Thắng.

Khi chú Sáng và các cô đi tìm Thảo được một lát, Tự Thắng chạy theo. Lo Thảo lạc trong rừng sẽ bị hổ hoặc báo ăn thịt, nó chạy khắp nơi để tìm, quên cả sợ, quên cả trời đang tối. Đến khi không nhìn thấy đường nữa thì Tự Thắng mới hốt hoảng, gọi cô Tụy Phương và chú Sáng. Tiếng của nó chìm nghỉm trong sương mù mờ mịt. Gió thổi ào ào. Lạnh quá, Tự Thắng vun lá khô dưới gốc cây lại làm ổ, bẻ các cành cây nhỏ phủ lên trên rồi chui vào trong, nằm co ro và ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Cũng may nó nằm cạnh con đường mòn đi rừng của người địa phương nên sáng sớm hôm sau được người dân phát hiện, đưa về trại.

Sau đêm đó, Tự Thắng bị sưng phổi. Cũng vì cái vụ ốm này mà Tự Thắng bị gọi là sờ tờ cờ . Một cái tên đệm khiến Tự Thắng vô cùng tức tối. Tất cả chỉ tại thằng Việt Bắc.