← Quay lại trang sách

3. TẾT

Cứ gần đến Tết, điều bọn trẻ con sơ tán quan tâm nhất là năm nay có thỏa thuận ngừng bắn hay không. Nếu ngừng bắn, trường sẽ cho học sinh về Hà Nội.

Năm đó, Tự Thắng nảy ra ý định xin ba nó, ông Thiện, cho Sơn về Hà Nội ăn Tết. Nó cũng không ngờ vừa nói là ba đồng ý. Về sau nghe ba kể, Tự Thắng mới biết ba nhận ra ông Hải ngay từ lần đầu gặp, nhưng ông không biết ba. Trong cải cách ruộng đất, ba nó có mặt trong đoàn Thanh tra Chính phủ về kiểm tra đúng ngày ông bị xét xử. Theo ba, đó là một câu chuyện buồn, nếu gia đinh ông Hải không nhắc tới thì đừng gợi lại.

Được về Hà Nội, Sơn vô cùng sung sướng. Ngồi trên ô tô, gặp ai nó cũng vẫy như muốn cho cả làng biết nó được đi Hà Nội ăn Tết.

Những ngày giáp Tết, bên bể nước công cộng, mọi người chen chúc vo gạo, đãi đỗ, rửa lá dong, lấy nước dự trữ… Nhà Thảo chỉ gói có bốn chiếc bánh chưng nên cô Thu nhờ má Tự Thắng luộc hộ. Tự Thắng và Sơn nhận nhiệm vụ ngồi canh nồi bánh chưng ở ngoài sân. Gần nửa đêm, Thảo cũng ra ngồi hóng. Dù buồn ngủ díp mắt, nhưng nó chỉ chịu về khi chiếc bánh chưng con được vớt ra.

Tết là khoảng thời gian tuyệt vời nhất của bọn trẻ con trong khu tập thể. Chúng được ăn những bữa no và ngon nhất, được gặp lại bạn cũ. Tụi con gái chơi chuyền, trồng nụ trồng hoa, nhảy dây, nhảy ngựa, ô ăn quan. Con trai chơi đá bóng gôn tôm, bắn bùm, đánh đáo, chơi quay. Quay bằng gỗ là trò du nhập từ nơi sơ tán, còn quay bằng đồng xèng là đặc sản Hà Nội. Nắp chai bia được đập dẹt, đặt lên đường ray tàu điện. Chỉ một lần tàu chạy qua là có đồng xèng mỏng dính. Đục hai lỗ, luồn qua một sợi dây đay, dây gai, hoặc dây chỉ tháo từ vỏ bao xi măng, là có ngay con quay rút. Tự Thắng luôn mài cạnh đồng xèng của mình sắc lẻm, thừa lúc đối phương không để ý, cho xèng cứa đứt dây quay đối thủ. Năm nay còn có thêm trò chọi gà, do mấy thằng sơ tán ở Hà Nam mang về. Riêng trò đánh khăng, ban đầu vẫn chơi nhưng sau đó bị cấm, vì thỉnh thoảng lại có đứa vụt con khăng vào những người đi qua. Tệ nhất là Thảo. Nó vụt con khăng vào giữa mặt chú Tài, bảo vệ khu. Chỉ lệch thêm tí nữa thi chú đã phải khoét một mắt. Thảo không dùng lực cổ tay đánh con khăng như mọi người, mà xoay cả người lấy đà. Sau cú vụt của nó, bao giờ cây khăng cũng vắt ra sau vai. Cách đánh đó tuy mạnh nhưng không chính xác.

Khu tập thể có rất nhiều chuột. Khó chịu nhất là bọn chuột nhắt. Cái gì chúng cũng cắn, từ hộp mứt, gói kẹo, cái bánh chưng đến áo len, gáy sách, thậm chí cả dây điện… Với loại chuột này, mèo khinh không thèm bắt, mà muốn bắt cũng khó, vi chúng quá nhanh lại nhỏ, thoắt ẩn thoắt hiện ở những chỗ mèo ít qua lại như bàn thờ, giá sách, ngăn kéo, tủ quần áo. Mặt khác, lũ mèo được chiều nên ngày càng lười biếng. Chúng quen với việc cọ người vào chân chủ, ngước cặp mắt trong veo lên chớp chớp khi bữa cơm được dọn ra thay vì đuổi, lao, vồ, cắn kẻ thù để thỏa mãn cái dạ dày, nên mất dần bản năng chiến đấu. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới sau này hậu duệ nhà mèo được phong làm “tiểu hổ”, sánh ngang với chó trong việc trèo lên đĩa trong các quán nhậu bình dân.

Tết này, trật tự trong nhà Tự Thắng và Việt Bắc được lập lại, khi những chuyên gia săn chuột từ nơi sơ tán trở về. Chuột lớn đến chuột bé trong nhà lần lượt bị hai đứa tóm hết. Thay bằng đập chết lũ phá hoại này, Tự Thắng nghĩ ra trò “đốt xe tăng địch”. Đó là buộc giẻ tẩm dầu hỏa vào đuôi những con chuột to rồi châm lửa. Bọn trẻ con đứng trong sân, mỗi đứa cầm một cái que, xua con chuột chạy lòng vòng quanh mấy bức tường, hò reo ầm ĩ. Theo Tự Thắng, làm thế những con khác sẽ sợ, không dám vào nhà nữa.

Chiều 29 Tết, Sơn tóm được một con chuột đang tìm cách cạy vung nồi thịt đông. Con này to và đen như Hắc toàn phong Lý Quỳ trong truyện Thủy hử . Tự Thắng cẩn thận tăng thêm số vải tẩm dầu buộc vào đuôi chuột. Khi quả cầu lửa bùng cháy, “Lý Quỳ” cuống cuồng lao thẳng qua rừng chân trước mặt rồi phóng lên cầu thang như một cơn lốc. Sau ba cú chuyền, nhảy, nó phi xuống mái nhà tắm. Cú rơi từ trên cao làm con chuột lăn mấy vòng rồi ngất xỉu. Ngọn lửa nhanh chóng bùng lên trên nóc mái nhà lợp bằng giấy dầu. Khói đen kịt bốc lên nghi ngút. Nếu lửa lan sang dãy nhà tập thể một tầng bên cạnh, có nguy cơ cháy cả khu.

Nhìn nhà tắm bốc cháy, Việt Bắc phóng tới chiếc kẻng, làm bằng vỏ quả bom ở gần phòng bảo vệ, đánh liên hồi. Cả khu tập thể nhốn nháo. Tự Thắng vớ đại một chiếc quần chẳng biết của ai trong chậu giặt, leo lên mái nhà tắm dập lửa. Sơn làm theo, vơ hai cái áo hoa mới, vừa may để mặc Tết của chị em cái Huyền, đập lấy đập để vào chỗ cháy. Mấy bác lớn tuổi chuyền các xô nước lên cho hai đứa hắt vào ngọn lửa. Từ trong nhà tắm thơm sực nước lá mùi già, các cô, các chị chạy túa ra. Người che bằng tay, người che bằng khăn, người che bằng xô, người che bằng chậu, che trên hở dưới, che dưới hở trên, làm buổi chữa cháy náo nhiệt như đi xem hội.

Tối hôm đó, mẹ cái Huyền dẫn hai đứa con gái nước mắt lã chã sang nhà Tự Thắng. Má Tự Thắng phải đền tờ phiếu vải 4 mét*. Tiền mua vải và công may thì thôi, vì dù sao hai cái áo ấy sau khi giặt sạch, vá lại vài chỗ vẫn còn dùng tạm được.

Thời bao cấp, tất cả các mặt hàng thiết yếu như gạo, vải, thực phẩm, chất đốt… đều phải mua theo chế độ tem phiếu.

Nhưng ấn tượng nhất vẫn là trò chơi phóng tàu vũ trụ.

Trò này do Thống Nhất, anh trai Tự Thắng nghĩ ra. Thống Nhất cho mình là người lớn, coi khinh các trò chơi quay, đánh đáo, bắt dế, bắt chuột. Nó gạ anh Hoàng Minh, một kỹ sư tên lửa đang tán tỉnh chị Hòa Bình, làm giúp cho một quả tên lửa để phóng vào đêm giao thừa.

Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn được cô chị phải chiều cậu em . Anh Hoàng Minh sốt sắng nhận lời. Anh còn tỏ ra nhiệt tình tới mức hứa làm cho Thống Nhất hẳn một con tàu vũ trụ. Để giữ bí mật, tàu được làm ở trong nhà anh. Tàu có ba khoang. Mỗi khoang tạo thành từ nhiều lớp giấy, được bồi bằng hồ gạo. Cấu tạo như vậy giúp cho khoang có trọng lượng nhẹ, dễ phóng lên cao. Vỏ ngoài của khoang được bọc bằng các loại giấy màu, trông rất bắt mắt. Cái dù gắn ở khoang trên cùng. Khoang này có một ô cửa bằng giấy bóng kính cho phi công quan sát. Phi công là những chú dế chọi đen nhánh. Để đủ trọng lượng kéo căng dù khi bung ra khoảng không, khoang phi công được gắn thêm một hòn sỏi. Lũ dế phải thi đấu qua các vòng. Con vô địch được tuyển làm phi công.

Chế tạo dù là khâu cầu kỳ nhất. Anh Hoàng Minh vẽ đi vẽ lại kiểu. Hết dùng dây thép lại chuyển sang cật tre để làm gọng. Anh cắt nát cả chiếc khăn dù trắng, kỷ niệm của bố trước lúc đi chiến trường. Có thể nói, chiếc dù của anh Hoàng Minh là một tuyệt phẩm. Khi đi cứu phi công, bọn trẻ con trong khu tập thể chỉ nhăm nhăm cướp cái dù.

Khoang dù được nối với khoang thứ hai bằng một sợi dây chun nhỏ. Khi bốc cháy, khoang này sẽ tách khỏi khoang dù. Khoang thứ ba là khoang chứa thuốc phóng, đặt trên một bệ có ba chân, uốn bằng dây thép. Bạn của Hoàng Minh bên kho quân khí cho anh mấy viên đạn để tháo lấy thuốc phóng. Loại thuốc đầu tiên cháy nhanh quá, anh Hoàng Minh phải đổi đi đổi lại mấy lần mới tìm ra loại thích hợp.

Khi con tàu đầu tiên hoàn thành, thấy vẫn còn nhiều vật liệu thừa, Thống Nhất năn nỉ anh Hoàng Minh “chuyển giao kỹ thuật” chế tạo cho mình. Đang sẵn sàng làm tất cả để chứng minh tình yêu với chị Hòa Bình, anh Hoàng Minh cho luôn Thống Nhất chỗ vật liệu còn lại và hướng dẫn nó rất tỉ mỉ. Gọi là “chuyển giao kỹ thuật”, nhưng thực chất là anh ngồi làm cùng với nó.

Tàu vũ trụ được phóng vào 9 giờ tối đêm 30 Tết. Dây cháy chậm, gồm những sợi pháo dây nối với nhau. Nhìn những tia nhỏ li ti nhảy múa trên đường dẫn tới bệ phóng, đứa nào cũng cảm thấy hồi hộp và phấn khích. Ngọn lửa bùng lên và con tàu bay vút vào không trung. Ở độ cao khoảng một trăm mét, dù bung ra. Tàu của Thống Nhất còn phóng cao hơn cả tàu của anh Hoàng Minh, do tăng thêm lượng thuốc vào khoang phóng.

Tuy vậy, loại tàu vũ trụ này cũng có nhược điểm. Đó là tất cả các phi công dế đều tử nạn do không được cấp đồ bảo hộ thích hợp để chống lại sức nóng của thuốc phóng lên tới trên ngàn độ… Đã chiến tranh thì phải biết chấp nhận hy sinh. Chắc các phi công dế cũng hiểu được chết trên bầu trời phố Lý Nam Đế khi làm nhiệm vụ là một vinh dự vô cùng to lớn.

Khi anh Hoàng Minh và Thống Nhất chế tạo tàu vũ trụ, Tự Thắng và Sơn luôn ngồi bên cạnh xem. Sơn xin Thống Nhất một ít thuốc phóng để làm “đạn” cho khẩu súng lục gỗ, có bộ phận điểm hỏa làm từ chiếc van xe đạp. Khi dùng thuốc lấy ra từ những viên đạn, tiếng nổ to hơn hẳn loại thuốc cạo từ đầu que diêm hoặc rút ruột quả pháo đùng. Tự Thắng ngạc nhiên khi thấy Sơn rất say sưa với những gì liên quan đến súng ống, thuốc nổ. Nó ngồi chăm chú xem ba Tự Thắng lau khẩu súng săn, hỏi hết cái nọ đến cái kia. Khi ở nhà chỉ có hai đứa, nó cầm cây súng lên ngắm nghía mãi không chán. Tự Thắng nói:

– Những lần đi công tác ở vùng rừng núi, bao giờ ba tao cũng mang theo súng để bắn chim.

– Nhà mày có nhiều đạn không?

Tự Thắng lấy chiếc chìa khóa mẹ giấu trên nóc tủ, mở ngăn kéo, lấy hộp đạn cho Sơn xem. Nó nói với vẻ tự hào:

– Đạn này ba tao và tao tự chế tạo đấy.

Tất nhiên Tự Thắng nói thế cho oai. Khi ba làm đạn, nó chỉ ngồi hóng bên cạnh, thỉnh thoảng được ba sai vặt. Thấy Sơn tỏ vẻ thán phục, Tự Thắng càng tỏ ra mình hiểu biết. Nó giảng giải:

– Để làm đạn săn, đầu tiên phải có chì… Chì được nấu chảy, đổ vào dầu qua một tấm lưới kim loại. Gặp dầu lạnh, những giọt chì quay tròn, tạo thành các viên bi, to hay nhỏ tùy thuộc vào mắt lưới. Hòn chì phải tròn, khi bắn mới đi thẳng. Khi dầu nóng lên, viên chì trông như hạt chanh.

– Trong mỗi viên đạn có bao nhiêu hòn chì?

– Cũng tùy. Số lượng hòn chì trong một viên đạn có thể nhiều hoặc ít, nhưng trọng lượng chì không được thay đổi. Bắn hổ dùng loại đạn 1 hòn chì, bắn hoẵng dùng loại 9 hòn, bắn ngỗng trời 15 hòn, còn chim nhỏ thì dùng loại vài chục hòn…

– Các viên đạn bên ngoài đều giống nhau, làm sao phân biệt được viên nào bắn chim, viên nào bắn hổ?

– Ba tao đánh số các viên đạn và để riêng từng gói.

– Viên đạn này có đầu nhọn bằng sắt. Khi đổ các viên chì vào thì tháo đầu đạn vứt đi à?

– Vứt đi chứ giữ làm gì.

Sơn thắc mắc:

– Để bắn chim phải làm đạn ghém bằng chì, nhưng để bắn hổ tại sao không dùng luôn đầu đạn nhọn, lại bỏ đi, thay một hòn chì vào?

Tự Thắng không biết trả lời thế nào. Những điều nó giải thích cho Sơn chỉ là kể lại những gì được ba giảng giải trong lúc nấu đạn. Sơn nói:

– Ở chỗ tao, thợ săn không bao giờ dùng súng săn bắn chim. Thú nhỏ cũng không bắn. Mỗi viên đạn của họ phải đổi một con hổ, cùng lắm cũng là hươu, nai, sơn dương. Mày có biết bắn súng không?

– Tất nhiên. Bắn nhiều là khác, nhưng chỉ bắn chim thôi. Tao tiếc là chưa gặp được con hổ nào khi đi săn.

Thực ra, dù ba hướng dẫn Tự Thắng cách sử dụng súng khá kỹ, nhưng cũng mới cho nó bắn chim có hai lần.

– Nhà thằng Sính con chú Lễ, em họ bố tao, cũng có một khẩu giống hệt khẩu này. Chú Lễ đổi một bộ xương hổ lấy khẩu súng. Nhưng khó kiếm đạn lắm.

– Các chú ở đơn vị cho bố tao cả thùng.

– Từ khi chú Lễ mất, súng nhà thằng Sính để không. Mày có thể xin ba vài viên đạn không? Chỉ cần đạn bắn chim thôi. Mình sẽ mượn súng nó đi bắn. Tao biết một nơi có nhiều chim lắm.

– Được chứ.

Sở dĩ Tự Thắng nói vậy vi nó biết ba chẳng bao giờ đếm trong ngăn kéo có bao nhiêu đạn. Lấy vài viên ba cũng chẳng biết.

Trước hôm lên trại, nghĩ mình đã học được cách làm tàu vũ trụ, Tự Thắng xin Thống Nhất hai viên đạn thừa để lấy thuốc phóng. Thống Nhất không đồng ý vì nghĩ cho bọn nhóc con chơi với đạn và thuốc nổ lành ít, dữ nhiều.

Xin không được, Tự Thắng thủ luôn chục viên đạn của ba mang đi. Nó dự định ngoài đi săn sẽ tháo lấy thuốc phóng để làm tàu vũ trụ. Có thể thuốc này không tốt bằng của đạn trung liên, đại liên, nhưng tàu không bay cao thì bay thấp cũng có sao. Nếu nó phóng trên đỉnh đồi Nùng thì còn cao bằng mấy lần anh Thống Nhất phóng ở sân khu tập thể.