← Quay lại trang sách

Hồi 6 Tới đoàn kịch, thi sĩ châm biếm-Tiếng thầm thì dự báo tử vong

Đào Cam gật đầu đồng tình, “Bẩm đại nhân, vị phát chẩn đạo sĩ cũng kể một câu chuyện y hệt về vong hồn những người đã bỏ mạng ở đây hàng trăm năm trước. Giờ thuộc hạ đã biết lý do tiểu đồng lại chăm chú nghe ngóng ngoài hành lang!”

“Tại sao vậy?” Địch Nhân Kiệt vuốt ria hỏi.

“Bẩm, thiên hạ đồn rằng thỉnh thoảng những hồn ma này sẽ thì thầm gọi tên ai đấy, người nào nghe thấy tên mình sẽ bỏ mạng ngay sau đó.”

“Đúng là mê tín dị đoan! Mau lên buồng thay y phục thôi.”

Khi họ đặt chân lên chiếu nghỉ thứ nhất, Địch Nhân Kiệt vô tình nhìn lướt qua hành lang nhỏ hẹp tranh tối tranh sáng bên phải. Ông chợt dừng bước. Một thiếu nữ mảnh mai vận xiêm y trăng đang vội vã chạy ra.

“Đó là ả đào đã diễn kịch với con gấu!” Địch Nhân Kiệt vội nói với Đào Cam. “Ta muốn nói chuyện với cô nương ấy! Nàng ta tên gì ấy nhỉ?”

“Dạ, đó là Âu Dương cô nương.”

Huyện lệnh vội chạy theo tà áo trắng, lúc gần đuổi kịp nàng, ông gọi, “Chờ đã, Âu Dương cô nương!”

Thiếu nữ quay lại và kêu lên thảng thốt, khuôn mặt nàng tái nhợt, còn đôi mắt thì mở to đầy sợ hãi. Biểu cảm này khiến ông thấy nàng giống Bao tiểu thư đến lạ.

Địch Nhân Kiệt nhẹ nhàng lên tiếng, “Âu Dương cô nương không phải sợ hãi. Ta chỉ muốn khen ngợi màn diễn vừa rồi. Quả là…”

“Đa tạ đại nhân chiếu cố!” Thiếu nữ nền nã cắt lời ông, “Tiếc là tiểu nữ phải đi ngay, tiểu nữ đang rất vội…”

Thiếu nữ lo lắng nhìn Địch Nhân Kiệt rồi quay người dợm bước đi.

“Khoan!” Địch Nhân Kiệt ra lệnh. “Bản quan là huyện lệnh Hán Nguyên, có chút chuyện muốn hỏi cô nương. Trông ngươi khá lo lắng, họa chăng gã đào kép Mặc Đức đang quấy rầy ngươi?”

Thiếu nữ nôn nóng lắc đầu.

“Bẩm, tiểu nữ phải đi cho gấu ăn,” nàng nói nhanh.

Huyện lệnh ngó thấy cánh tay trái luôn nép sát bên hông của thiếu nữ, miệng hỏi lớn, “Cánh tay trái kia làm sao vậy? Họ Mặc đã chém trúng ngươi chăng?”

“Dạ bẩm, không phải đâu, hồi trước tiểu nữ bị con gấu cào vào tay. Thực sự tiểu nữ cần phải…”

“Đại nhân, tiểu sinh e bài thơ vừa rồi không làm ngài hứng thú?” một giọng nói hoan hỉ cất lên từ sau lưng họ.

Địch Nhân Kiệt quay lại, nhìn thấy Tông Lê đang làm bộ làm tịch khom người thi lễ.

“Quả thật như vậy,” huyện lệnh bực bội đáp. “Giả như bản quan là đạo trưởng, ta đã tống cổ ngươi ra khỏi đây!”

Ông quay sang thiếu nữ nhưng nàng đã không còn ở đó.

“Đại nhân, đạo trưởng sẽ phải suy nghĩ kỹ trước khi tống tiểu sinh đi,” thi sĩ trẻ tự mãn nói. “Gia phụ quá cố của tiểu sinh chính là Tông học sĩ, một đại thí chủ [1] của đạo quán này. Hiện Tông gia vẫn thường xuyên quyên góp công đức vào đây.”

Địch Nhân Kiệt nhìn thanh niên một lượt từ đầu đến chân.

“Ra ngươi chính là lệnh lang của cố Tuần phủ Tông Pháp Mạnh,” ông nói, “Tuần phủ đại nhân là một học giả lớn, ta đã đọc cuốn cẩm nang trị nhậm của ngài. Đến lệnh phụ của ngươi cũng không ưa nổi mấy vần thơ con cóc đó!”

“Bẩm, tiểu sinh chỉ muốn chọc tức lão đạo trưởng thôi,” Tông Lê ngượng ngùng thú nhận. “Ông ta lúc nào tự cho mình là đức cao vọng trọng hơn người! Gia phụ chưa bao giờ coi trọng ông ta.”

Huyện lệnh nói, “Dù vậy, bài thơ đó vẫn rất khiếm nhã. Quỷ thần phương nào nhập, khiến ngươi đi gieo những vần thơ ngớ ngẩn về cố chân nhân vậy?”

“Đại nhân không biết gì thật sao?” Tông Lê ngạc nhiên hỏi. “Hai năm trước, đạo trưởng tiền nhiệm của đạo quán này là Ngọc Kính chân nhân đã viên tịch, hay gọi là ‘vũ hóa’ theo cách nói văn hoa của mấy đạo sĩ. Ngài đã được ướp xác, hiện tại pháp thể được đặt tại địa cung, bên dưới tiểu điện thờ vị tổ sư sáng lập đạo quán trong khu biệt điện, cố đạo trưởng Ngọc Kính là một bậc cao nhân, cả khi còn sống lẫn lúc đã viên tịch.”

Địch Nhân Kiệt không nói gì thêm. Ông đã có đủ mối lo nghĩ, chẳng buồn quan tâm đến thân thế và sự nghiệp các vị đạo trưởng trong suốt lịch sử Triều Vân quán.

Huyện lệnh nói, “Tông công tử, bản quan đang trên đường đến buồng thay y phục của đoàn kịch, xin cáo từ.”

“Tiểu sinh cũng đang định đến đó,” thanh niên cung kính nói. “Đại nhân, để tiểu sinh dẫn đường cho ngài.”

Y dẫn hai người Địch Nhân Kiệt đi vòng vào một hành lang dài với hai dãy cửa hai bên.

“Buồng của Âu Dương cô nương có gần đây không?” Địch Nhân Kiệt hỏi.

“Bẩm, nó ở góc xa kia ạ,” Tông Lê đáp. “Tiểu sinh sẽ không liều lĩnh bước vào khi nàng ta vắng mặt đâu! Con gấu kia cực kỳ nguy hiểm.”

“Hẳn nàng ta đang ở trong buồng,” Địch Nhân Kiệt nói. “Hồi nãy gặp chúng ta, chẳng phải ngươi cũng trông thấy Âu Dương cô nương sao?”

“Đại nhân, làm sao có thể ạ?” Thi sĩ kinh ngạc. “Ngay trước khi gặp đại nhân, tiểu sinh đã trò chuyện với Âu Dương cô nương dưới sảnh đường. Nàng ta vẫn còn ở đó mà!”

Huyện lệnh trợn mắt nhìn thanh niên, rồi liếc sang Đào Cam. Trợ thủ của ông lắc đầu bối rối.

Tông Lê gõ cửa căn buồng gần cuối hành lang, rồi họ bước vào một căn buồng rộng rãi nhưng lộn xộn. Quan Lại và hai nữ nhân đang ngồi bên chiếc bàn tròn nhanh chóng đứng dậy, cúi thấp người thi lễ.

Lão Quan giới thiệu thiếu nữ xinh đẹp họ Đinh, là ả đào đóng vai Tây Vương Mẫu, còn rất giỏi nhào lộn và tung hứng mà lão đã kể lúc trước. Về phần thiếu phụ trung tuổi có phần xuềnh xoàng kia, nàng là thê tử của hí đầu.

Địch Nhân Kiệt khen vở kịch mấy câu, khiến lão choáng ngợp vì được quan trên chiếu cố. Quan Lại bối rối, không biết liệu mình có quá xấc xược khi mời huyện lệnh an tọa cùng họ hay không.

Nhưng không cần ai mời, Địch Nhân Kiệt đã tự nhiên ngồi xuống, giải tỏa sự lúng túng cho lão, Đào Cam đứng ngay phía sau huyện lệnh. Tông Lê ngồi đối diện với ông, cạnh vò rượu đất nung cũ kỹ.

Địch Nhân Kiệt lên tiếng, “Âu Dương cô nương và Mặc Đức đâu? Ta cũng có đôi lời khen ngợi họ. Kiếm thuật của họ Mặc thực tài ba, còn màn diễn của Âu Dương cô nương với con gấu đã làm ta dựng tóc gáy từ đầu đến cuối!”

Lời tán thưởng này vẫn chưa làm cho Quan Lại hết bối rối. Lúc rót rượu cho huyện lệnh, tay lão run run làm rớt một chút ra bàn. Lão lúng túng ngồi xuống, “Bẩm đại nhân, hẳn Mặc Đức đã đến nhà kho để trả lại y phục mà hắn mượn diễn.”

Chỉ vào đống giấy nhăn nhúm dính đầy phấn đỏ trên bàn trang điểm, lão Quan nói thêm, “Bẩm, hắn vừa mới ở đây để tẩy lớp phấn trên mặt. Còn Âu Dương cô nương, lúc ở lầu dưới nàng nói rằng sẽ đến đây ngay sau khi cho gấu ăn.”

Địch Nhân Kiệt đứng dậy, tiến tới phía bàn trang điểm, vờ soi gương chỉnh lại mũ. Ông liếc đống giấy nhàu nhĩ, hộp đựng sáp và phấn màu, tự nhủ những vết đỏ kia cũng có thể là máu. Khi trở lại vị trí Địch Nhân Kiệt nhận thấy Quan phu nhân đang lo lắng nhìn mình.

Ông nhâm nhi chén rượu và hỏi lão Quan về mấy ngón nghề biểu diễn trong những vở kịch lịch sử. Lão hí đầu giải thích tràng giang đại hải một hồi mà Địch Nhân Kiệt chỉ lơ đãng nghe, một tai dỏng lên nghe ngóng câu chuyện của những người khác trong buồng.

“Sao Đinh cô nương không giúp Âu Dương cô nương cho gấu ăn?” Tông Lê hỏi. “Chắc chắn nàng ta sẽ hoan hỉ lắm!”

“Việc ai người ấy lo!” Đinh cô nương trả lời cộc lốc. “Sao công tử không qua mà săn sóc bóng hồng của mình?”

Tông Lê mỉm cười ranh mãnh, “Biết làm sao được, Bao tiểu thư là một thiếu nữ duyên dáng, sao ta lại không ngâm thơ tặng nàng ấy chứ? Ta còn làm cả một bài thơ cho cô nương nữa kìa:

“Phù dung bách hợp nở rộ

Tình trong như đã mặt ngoài còn e.

Âm dương xoắn quyện với nhau

Dương trên âm dưới mới thời nên xuân.

Âm mà kết hợp với âm

Như hoa thiếu bướm, trái ngọt không đơm.”

Địch Nhân Kiệt liếc thấy gương mặt Đinh cô nương đỏ bừng. Ông nghe Quan phu nhân nhắc nhở, “Tông công tử, mong công tử chú ý lời ăn tiếng nói!”

“Ta chỉ muốn cảnh báo nàng ấy thôi,” Tông Lê bình thản nói. “Phu nhân có hay, hiện trên kinh thành đang lưu truyền một bài đồng dao?”

Y giơ ngón tay đánh nhịp, ngân nga một giai điệu vui nhộn, cất giọng trầm ấm ngâm nga:

“Đôi mươi em chưa lấy chồng,

Hãy còn mong chàng nào tới rước.

Hai nhăm xuân em vẫn nằm không,

Cả đời gối chiếc chăn đơn lạnh lùng!”

Đinh cô nương nổi giận toan lên tiếng, nhưng Địch Nhân Kiệt đã kịp thời can thiệp. Ông lạnh lùng nói với thi sĩ, “Tông công tử, ngươi đã làm gián đoạn cuộc trò chuyện của ta rồi đấy. Cho ngươi hay, ta không phải người thích bông đùa bỡn cợt đâu. Hãy dành mấy lời chòng ghẹo của ngươi cho người thích hợp đi.”

Đoạn, ông quay sang lão Quan, “Bản quan phải về thay y phục cho buổi tiệc. Lần tới gặp ta, ngươi chớ có ngại!”

Dứt lời, huyện lệnh cất bước ra ngoài, Đào Cam theo sau. Cửa đã đóng lại mà lão hí đầu vẫn chưa hết lúng túng.

Địch Nhân Kiệt dặn trợ thủ, “Trước khi đi, ta phải tìm cho được Mặc Đức. Ngươi hãy ở lại đây uống thêm vài chén với mấy người này. Ta thấy có nhiều điều mờ ám, cần ngươi tìm hiểu xem có chuyện gì đang diễn ra ở đây. Nhân thể, mấy thứ ‘âm’, ‘dương’ mà tay thi sĩ nửa mùa kia nói có nghĩa là gì?”

Đào Cam hơi ngượng ngùng, húng hắng đáp, “Bẩm đại nhân, đó là những từ thông tục, ‘dương’ ám chỉ nam nhân, còn ‘âm’ ám chỉ nữ nhân.”

“Ra vậy. À, khi Âu Dương cô nương quay trở lại, nhớ hỏi rõ nàng ta đã ở lầu dưới bao lâu. Một người không thể cùng lúc xuất hiện ở cả hai nơi được!”

“Đại nhân, hẳn tay thi sĩ kia đã nói dối về việc gặp Âu Dương cô nương! Hắn còn giả vờ không nhìn thấy thiếu nữ trò chuyện với chúng ta. Đúng là hành lang đó khá hẹp, chúng ta lại đứng chắn giữa, nhưng khó có chuyện hắn không nhìn thấy nàng ta!”

“Nếu Tông Lê nói thật thì sao?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Biết đâu thiếu nữ chúng ta gặp trong hành lang chính là Bao tiểu thư đang đóng giả làm Âu Dương cô nương. Không, không thể thế được! Nữ nhân mà chúng ta gặp luôn ép sát cánh tay vào hông. Còn Bao tiểu thư đã dùng cả hai tay để nắm lấy chiếc khăn lụa lúc hoảng sợ trước đường kiếm của Mặc Đức. Ôi, thật không hiểu chuyện này ra làm sao nữa! Thôi ngươi hãy quay lại nghe ngóng thêm rồi lên buồng ta báo tin!”

Ông đón lấy chiếc đèn lồng từ tay trợ thủ, bước lên cầu thang. Đào Cam một mình quay trở lại buồng thay y phục.

Địch Nhân Kiệt nghĩ mình có thể nhớ được đường tới gian nhà kho. Trong lúc bước lên cầu thang của dãy nhà kế bên, ông cảm thấy lưng và chân mỏi rã rời. Địch Nhân Kiệt tự hỏi, phải chăng đó là do cơn phong hàn hay do lâu rồi mình không leo cầu thang. Ông thấy có cảm tình với lão Quan, còn Tông Lê chỉ là tên nhãi nhép chẳng mấy hữu dụng. Y hành xử suồng sã với các đào kép và rõ ràng là đang có tình ý với Bao tiểu thư. Đó quả là một mối tình vô vọng, Bao tiểu thư sắp thọ giới ngay tại Triều Vân quán. Trong bài thơ khiếm nhã dành cho Đinh cô nương, y đã ám chỉ một mối quan hệ thân mật giữa nàng ta và Âu Dương cô nương. Nhưng Địch Nhân Kiệt chẳng màng đến chuyện tình cảm của thiên hạ, hiện ông chỉ chú ý đến Mặc Đức.

Huyện lệnh thở phào nhẹ nhõm khi lên đến khoảnh chiếu nghỉ có miệng giếng trời lộng gió. Ông nghe tiếng niệm khấn đơn điệu của các đạo sĩ vọng lên từ đại sảnh.

Bước vào hành lang bên phải, Địch Nhân Kiệt ngạc nhiên khi thấy nơi này tối om. Giơ đèn lồng lên ông nhận ra mình đã đi nhầm đường. Hành lang này không có dãy cửa sổ bên phải và hẹp hơn so với đường dẫn đến nhà kho. Mạng nhện giăng đầy khắp lối. Ông toan quay bước về lối cũ thì đột nhiên nghe thấy tiếng thì thào.

Địch Nhân Kiệt dừng bước lắng nghe, tự hỏi không biết tiếng động phát ra từ đâu. Hành lang hoàn toàn vắng vẻ; cuối đường chỉ có một tấm lưới sắt nặng nề. Ông bước hẳn vào hành lang, nhưng tiếng khấn của các đạo sĩ đã át hết những lời thì thầm mơ hồ kia. Khẽ nhăn mặt bối rối, ông lại trở ra.

Đến giữa hành lang, tiếng thì thầm lại nổi lên nhưng Địch Nhân Kiệt không thể luận ra một từ nào. Đột nhiên ông nghe thấy: Địch Nhân Kiệt

Rồi mọi thứ lại chìm vào im lặng.

Chú thích:

[1] thí chủ ở đây hiểu theo nghĩa người bảo trợ cho đạo quán.