← Quay lại trang sách

Hồi 8 Lên thang lầu, Địch Công bị theo dõi-Bỏ hoài nghi, tri huyện gặp Thiên sư

Họ đi theo lối cũ đến chiếu nghỉ phía trên thượng điện. Tiểu đồng băng qua lối đi đối diện với đường dẫn đến gian nhà kho. Đó là một hành lang dài thẳng tắp, chỉ được chiếu sáng bởi một ngọn đèn lồng rách.

Đột nhiên Địch Nhân Kiệt cảm thấy bất an, như thể có người đang theo dõi phía sau. Ông dừng bước và ngoái đầu lại, thấy một bóng đen lướt ngang qua đầu hành lang. Có vẻ như đó là một nam nhân mặc y phục xám. Ông vừa đi tiếp vừa hỏi tiểu đồng, “Các đạo sĩ có thường qua lại lối này không?”

“Bẩm đại nhân, không ạ! Tiểu nhân chỉ đi đường này để tránh mưa mà thôi. Tất cả đạo sĩ muốn đến dãy nhà phía Tây đều phải lên xuống cầu thang xoắn ốc, gần cánh cửa đối diện với nhà ăn.”

Khi họ đến một sảnh đường nhỏ vuông vức, huyện lệnh dừng lại để định vị phương hướng.

“Đường này dẫn tới đâu?” Ông trỏ vào cánh cửa hẹp bên tay phải.

“Bẩm đại nhân, nó dẫn tới Diêm La Thập điện, nằm ở bên trái sau trung viện. Thân phận thấp kém như tiểu nhân không được phép vào đó.”

“Một nơi tốt để răn đe phàm nhân chót phạm tội!” Địch Nhân Kiệt nhận xét. Ông biết, đạo quán lớn thường dựng một gian Diêm La Thập điện. Cảnh tượng tội nhân bị trừng phạt thảm khốc dưới mười tầng địa ngục được vẽ chi tiết trên tường, hoặc được khắc họa bằng những pho tượng đất sét, hay được khắc trên những bức phù điêu gỗ.

Trong lúc họ bước về bên trái, tiểu đồng cảnh báo, “Đại nhân, xin hãy cẩn thận! Hàng lan can của chiếu nghỉ trước cửa buồng của Thiên sư đang được sửa lại. Ngài hãy bám sát lấy tiểu nhân ạ.”

Đứng trước cánh cửa sơn son, Địch Nhân Kiệt nhận thấy đúng là có một đoạn lan can bị khuyết. Ông nhìn xuống cầu thang tối om và sâu hun hút ấy.

“Bẩm, đây chính là cái cầu thang hồi nãy tiểu nhân nhắc đến. Nó thông với dãy nhà phía Tây ạ,” tiểu đồng giải thích. “Đi theo cầu thang này xuống ba lầu nữa là tới phòng ăn.”

Tiểu đồng nhận một tấm bái thiếp* từ Địch Nhân Kiệt rồi gõ cửa.

bái thiếp là tờ thiếp đưa trước cho gia chủ để thông báo danh tính và thời điểm khách nhân vãng lai.

Một giọng nói sang sảng mời họ vào.

Dưới quầng sáng chói lòa của bốn chân nến bạc, một nam nhân cao to đang ngồi đọc sách bên một án thư lớn chất đầy sách vở văn thư. Tiểu đồng cúi thật thấp, đặt tấm bái thiếp lên bàn. Tôn Thiên sư liếc nhìn tấm thiếp, nhanh nhẹn đứng dậy và bước về phía Địch Nhân Kiệt.

“Vậy ra đại nhân chính là huyện lệnh của đạo nhân chúng ta!” Ngài cất giọng trầm ấm, “Hoan nghênh ngài tới ghé thăm đạo quán Triều Vân này.”

Địch Nhân Kiệt cúi đầu, hai tay trịnh trọng khoanh lại, xếp gọn trong đôi ống tay áo rộng.

“Bái kiến đại nhân, vãn bối thật không dám ngờ,” Địch Nhân Kiệt nói, “một sự cố nhỏ xảy ra trên đường lại chính là cơ duyên để vãn bối được diện kiến một bậc cao nhân như ngài.”

“Chớ có khách sáo!” Tôn Thiên sư vui vẻ đáp. “Mời Địch huyện lệnh an tọa bên án thư, ta đang dở tay xếp gọn mớ văn thư.”

Đoạn, ngài quay về chỗ ngồi sau án thư, nói với tiểu đồng đang châm hai chén trà, “Được rồi, giờ ngươi lui đi. Ta sẽ đích thân đón tiếp vị khách quý này.”

Vừa nhâm nhi chén trà nhài thơm ngát, huyện lệnh vừa quan sát vị Thiên sư mau mắn sắp xếp lại chỗ văn thư trước mặt. Tôn Thiên sư cao ngang tầm Địch Nhân Kiệt, nhưng ngài phương phi hơn ông chút đỉnh. Bờ vai rộng vồng lên khiến chiếc cổ dày trông như bị rụt lại phân nửa. Thiên sư đã trạc lục tuần, nhưng gương mặt đầy đặn và hồng hào của ngài không có lấy một nếp nhăn. Bộ râu quai nón ngắn đã ngả muối tiêu, còn mái tóc hoa râm được búi cao để lộ vầng trán rộng. Hàng ria ngắn được tỉa gọn, nhưng đôi lông mày rễ tre lại để rất rậm. Do tu luyện tại đạo quán dưới danh nghĩa ẩn sĩ nên ngài chỉ để đầu trần. Cả người ngài toát lên phong thái của một bậc đạo nhân tư chất phi thường.

Địch Nhân Kiệt còn đọc lướt qua các cuộn tranh chữ về Đạo giáo được treo trên vách trong khi chờ đợi.

Thu xếp xong chỗ văn thư, Tôn Thiên sư sắc sảo nhìn thẳng vào Địch Nhân Kiệt, “Hồi nãy ngươi có nhắc đến một sự cố trên đường, ta mong là chuyện không có gì nghiêm trọng.”

“Bẩm đại nhân, không có gì! Vãn bối đã lưu lại kinh thành trong hai tuần, đến sáng nay mới ngồi xe ngựa trở về Hán Nguyên. Những tưởng xe có thể hồi gia trước bữa tối, nhưng ngay sau khi vào địa giới huyện, thời tiết trở nên tồi tệ, trục xe bị gãy trên đường lên núi. Vì vậy vãn bối cùng gia quyến mới phải tá túc tại đạo quán này, sáng mai mới khởi hành. Nghe chừng những cơn dông bão mùa thu sẽ không kéo dài quá lâu.”

“Vận rủi của ngươi lại chính là vận may của ta!” Tôn Thiên sư mỉm cười. “Ta rất thích được đàm đạo với các quan viên tuổi trẻ tài cao, đáng nhẽ Địch huyện lệnh nên đến đây sớm hơn! Đạo quán này cũng thuộc huyện Hán Nguyên do ngươi trị nhậm mà.”

“Vãn bối quả là sơ suất rồi ạ!” Địch Nhân Kiệt vội vàng nói. “Công vụ ở trấn Hán Nguyên chất cao như núi.”

“Ta đã nghe chuyện!” Tôn Thiên sư ngắt lời, “Ngươi đã xuất sắc ngăn chặn được một cuộc tạo phản lớn.”

Địch Nhân Kiệt cung kính khoanh tay nhận lời khen, “Chắc chắn vãn bối sẽ sớm quay lại lãnh giáo với đại nhân.”

Thấy cựu thái phó có vẻ niềm nở, Địch Nhân Kiệt nghĩ mình nên tranh thủ cơ hội tìm lời giải đáp nan đề về nữ nhân cụt tay.

Sau một thoáng do dự, ông lên tiếng, “Đại nhân, vãn bối đang gặp phải một khúc mắc nhỏ ở nơi này, không biết đại nhân có thể chỉ giáo luôn?”

“Được chứ! Chuyện gì đã xảy ra?”

“Chuyện là,” Địch Nhân Kiệt thuật lại, thoáng chút bối rối, “vãn bối cũng không rõ chính xác là chuyện gì. Lúc đi lên buồng nghỉ được các đạo sĩ bố trí cho, vãn bối thoáng thấy một cảnh tượng đã xảy ra cách đây hơn trăm năm, khi quan binh triều đình tàn sát quân phản loạn tại chính đạo quán. Liệu có chuyện như thế chăng?”

Ngả lưng vào ghế, Tôn Thiên sư nghiêm nghị đáp, “Ta không dám nói chuyện đó là không thể, Địch huyện lệnh ạ. Đã khi nào ngươi bước vào một căn buồng trống và cảm giác như ai đó vừa ở bên trong không? Đó là một cảm giác khó lý giải. Có lẽ người vào căn buồng trước ngươi đã để lại một hơi hướm của mình, dù người ấy không làm gì đặc biệt, chỉ là đọc một cuốn sách hay viết mấy dòng thư. Giả sử, người ấy bị giết một cách dã man trong căn buồng, thế là cảm giác đau đớn kinh hoàng thấm sâu vào bầu không khí và ám ảnh căn buồng suốt nhiều năm trời. Nếu một người yếu bóng vía hay mẫn cảm do ốm đau bước vào, tức thì liền cảm nhận một bầu không khí như vậy. Những lời trên đây đã giải thích được cảnh tượng mà ngươi chứng kiến hay chưa?”

Địch Nhân Kiệt gật gù. Tôn Thiên sư quả là đã dày công nghiên cứu những vấn đề thần bí như vậy. Lời giải thích tuy thiếu thuyết phục nhưng cũng là một khả năng cần lưu ý.

Ông kính cẩn thưa, “Bẩm đại nhân, có lẽ ngài nói đúng, vãn bối thấy trong người không được khỏe, do mắc mưa bên ngoài mà cảm mạo. Với thể trạng như vậy…”

“Cảm mạo ư? Đã ba mươi năm rồi ta chưa ho lấy một tiếng!” Tôn Thiên sư ngắt lời. “Ngươi thấy đó, ta luôn nghiêm ngặt tuân theo giới luật để bồi dưỡng nguyên thần.”

“Vậy đại nhân có tin vào việc tu tiên để đạt tới cảnh giới trường sinh bất tử không ạ?” Địch Nhân Kiệt hỏi, lòng đôi chút thất vọng.

“Tất nhiên là không!” Tôn Thiên sư khinh khỉnh trả lời. “Nam nhân chỉ bất tử khi để lại dòng giống của mình trên nhân thế. Hoàng thiên đã định đoạt cho phàm nhân một thọ nguyên hữu hạn, mọi nỗ lực học phép luyện đan nhằm thoát khỏi quy luật sinh tử đều tốn công vô ích. Chúng ta cần cố gắng giữ thân thể tráng kiện và tinh thần minh mẫn cho đến khi lìa trần bằng cách sống thuận theo tự nhiên. Thần khẩu hại xác phàm, Địch huyện lệnh hãy cẩn trọng trong ẩm thực!”

“Vãn bối vốn là môn đồ của đức Khổng tử,” Địch Nhân Kiệt đáp, “nhưng phải thừa nhận rằng Đạo giáo sở hữu nhiều nội hàm uyên bác và thâm thuý.”

“Đạo giáo tiếp bước từ nơi mà Khổng phu tử dừng chân,” Tôn Thiên sư bình phẩm. “Nho giáo giảng giải về cách đối nhân xử thế của bậc quân tử trong xã tắc tôn ti. Còn Đạo giáo giải thích mối tương quan giữa nhân sinh và vũ trụ, trong đó tôn ti xã tắc chỉ là một khía cạnh.”

Ngay lúc này, Địch Nhân Kiệt không mấy hăng hái tham gia đàm đạo lắm, nhưng ông cảm thấy không nên rút lui trước khi làm rõ hai điểm. Chờ cho thích hợp, ông ướm hỏi, “Thưa đại nhân, liệu những phần tử tệ hại bên ngoài có trà trộn vào đây không? Vừa nãy, khi được tiểu đồng đưa đến, vãn bối cảm giác như mình bị theo dõi, ngay tại hành lang nối thượng điện với tòa lầu này.”

Tôn Thiên sư nhìn ông dò xét, ngẫm nghĩ một hồi rồi đột nhiên hỏi, “Ngươi có thích ăn cá không?”

“Dạ thưa, vãn bối khá thích ăn cá,” Địch Nhân Kiệt chưng hửng đáp.

“Vấn đề chính là ở đó! Địch huyện lệnh à, cá làm kinh mạch tắc nghẽn, khí huyết trì trệ và thần trí thiếu minh mẫn, vì nó mà ngươi nhìn thấy những điều không thực đấy! Ta nghĩ đại hoàng là một vị thuốc quý dành cho ngươi. Nó giúp thanh lọc khí huyết và an vị ngũ tạng. Ta sẽ tra cứu trong bộ dược thư đồ sộ của mình. Sáng mai hãy nhớ nhắc ta kê cho ngươi một đơn thực dưỡng.”

“Đa tạ đại nhân. Vãn bối quả thực không muốn làm phiền ngài, nhưng vẫn còn một điểm khúc mắc mà vãn bối chưa được tỏ tường. Thiên hạ đồn rằng một số đạo sĩ hạ lưu đang nhân danh Chính đạo để truy hoan trác táng, ép buộc các thiếu nữ tham gia những buổi hành lễ dâm ô. Xin hỏi những lời đồn đại này liệu có thật không?”

“Tất nhiên là không!” Tôn Thiên sư thốt lên. “Hoàng thiên ơi, làm sao những đạo sĩ vốn luôn chay tịnh lại có thể tổ chức các cuộc truy hoan trác táng? Ngoài kia thiên hạ đồn thổi đủ chuyện điên rồ trên đời!”

Thiên sư đứng lên, “Giờ nên xuống lầu rồi, buổi tiệc hẳn sắp bắt đầu và đạo trưởng đang chờ chúng ta ở đó. À, ta muốn dặn dò ngươi, tuy đạo trưởng không phải là một học giả thông thái, nhưng ông ta là một người thiện tâm và biết cách cai quản đạo quán.”

“Đó là một trọng trách to lớn.” Địch Nhân Kiệt cũng đứng dậy theo. “Triều Vân quán giống như một tiểu trấn. Vãn bối muốn thăm quan thêm nhiều nơi, nhưng các đạo sĩ lại không sở hữu tấm sơ đồ nào, khách nhân lại không được đặt chân vào khu biệt điện.”

“Ồ, đó chỉ là một mánh khóe diễu võ dương oai trước bách tính nhẹ dạ cả tin thôi! Có Hoàng thiên chứng giám, ta đã nói với đạo trưởng biết bao nhiêu lần rồi. Thức nhị thập bát trong vương pháp đã quy định rõ mọi nơi thờ tự đều phải có sơ đồ kiến trúc hoàn chỉnh. Địch huyện lệnh hãy qua đây, ta sẽ mô tả vắn gọn cho ngươi.”

Tôn Thiên sư tiến về phía một cuộn tranh treo trên vách, “Đây là giản đồ ta đích thân vẽ. Kết cấu Triều Vân quán thực ra khá đơn giản. Hai trăm năm trước, khi xây dựng nơi này, tiền nhân muốn thiết kế một đạo quán vừa tượng trưng cho vũ trụ vừa tượng trưng cho con người, vốn là bản thể thu nhỏ của vũ trụ. Phác thảo tổng thể của toàn bộ khu nhà có hình trái xoan, biểu trưng cho khởi nguồn nguyên thủy. Triều Vân quán hướng mặt về phía nam dọc rìa phía đông có một khe vực sâu, còn phía tây là rừng rậm. Bốn khu tiền điện, đại điện, trung điện và biệt điện được xây thành bốn cấp dựa vào sườn núi.

“Giờ chúng ta sẽ bắt đầu từ khu tiền điện tam giác, xung quanh là nhà bếp, chuồng ngựa, nơi ở của các đạo đồng và tiểu đồng. Rồi chúng ta đến khu đại điện với sân thượng điện nằm giữa hai dãy nhà vuông vức, mỗi dãy có ba tầng lầu. Ở dãy nhà phía Tây, lầu trệt dựng nhà ăn; lầu hai đặt tàng thư các; lầu ba gồm buồng riêng của giám viện, đạo sĩ phát chẩn và tri khách. Ở dãy nhà phía Đông, lầu trệt đặt đại sảnh làm nơi diễn xướng, ngoài ra còn có các thư phòng; lầu hai và lầu ba dành cho khách lai vãng nghỉ chân. Chắc hẳn ngươi cùng gia quyến đang ở dãy nhà này.”

“Đúng là vậy,” Địch Nhân Kiệt đáp, “hiện vãn bối cùng các phu nhân ở căn buồng đôi rộng rãi ở góc tây bắc lầu ba.”

“Tốt, vậy chúng ta tiếp tục đến khu trung điện. Băng qua sân là thượng điện, ở đây trưng bày nhiều pho tượng cổ đáng để chiêm ngưỡng. Sau thượng điện là sân giữa, mỗi góc sân đều dựng một tòa lầu. Ngươi đang ở Tây Nam lầu do ta cai quản. Bên trái sân giữa là Diêm La Thập điện, một đức tin đã ăn sâu vào tâm trí phàm nhân! Phía bên phải là gian nhà dành cho chúng đạo nhân. Sau sân giữa, đi qua cánh cổng, là hậu viện của đạo trưởng. Cuối cùng là khu biệt điện hình viên nguyệt. Theo thứ tự, chúng ta có một hình tam giác, hai hình vuông, một hình vuông lớn và một hình tròn. Mỗi hình đêu có một ý nghĩa riêng nhưng chúng ta không cần bàn đến đó. Quan trọng là giờ ngươi có thể tự định hướng được rồi. Hàng trăm thông đạo, hành lang và cầu thang nối nhau tồn tại trong đạo quán này, nhưng nếu có tấm giản đồ, ngươi sẽ không bị lạc quá xa!”

“Đa tạ đại nhân chỉ giáo,” Địch Nhân Kiệt đầy hàm ơn nói. “Mạn phép cho vãn bối được hỏi khu biệt điện gồm những kiến trúc gì?”

“Chỉ có một tiểu điện đặt tro cốt của sư tổ mà thôi.”

“Vậy có ai sống ở đó không ạ?”

“Tất nhiên là không! Ta đã đích thân ghé thăm nơi ấy rồi, chỉ có một tiểu điện và tường vây mà thôi. Nhưng biệt điện là nơi linh thiêng nhất đạo quán nên ta không vẽ vào, tránh làm phật lòng đạo trưởng. Thay vào đó, ta vẽ một Thái cực đồ ở trên như ngươi đã thấy. Theo quan niệm của Đạo giáo, Thái cực đồ tượng trưng cho sự vận hành của vũ trụ. Nó đại diện cho tương tác của cặp phạm trù nguyên thủy, nhịp điệu vĩnh cửu của tự nhiên mà chúng ta gọi là Đạo. Ngươi có thể tùy ý coi chúng là Sáng và Tối, Dương và Âm, Nam và Nữ, Nhật và Nguyệt. Theo Thái cực đồ, khi Dương suy đến cực điểm sẽ trở thành Âm và ngược lại, khi Âm thịnh đến cực điểm sẽ chuyển hóa thành Dương. Địch huyện lệnh, ngươi thấy không, học thuyết tối cao của Đạo giáo được thể hiện bằng một biểu tượng hết sức đơn giản!”

“Vậy thì, đại nhân, ý nghĩa của chấm tròn trên mỗi nửa của Thái cực đồ nghĩa là gì?” Địch Nhân Kiệt hỏi, làm vẻ quan tâm.

“Chúng có nghĩa là trong Dương có Âm và ngược lại, trong Âm có Dương. Vạn vật trong tự nhiên, bao gồm cả Nam và Nữ đều như vậy. Trong mỗi nam nhân đều tồn tại tính nữ, trong mỗi nữ nhân đều có tính nam.”

“Quả cũng đúng là thế!” huyện lệnh trầm ngâm suy ngẫm, đoạn hỏi thêm, “Vãn bối từng trông thấy Thái cực đồ này ở đâu đó, nhưng nó được đặt theo chiều ngang. Như vậy có ý nghĩa gì đặc biệt không, thưa đại nhân?”

“Ta không rõ, Thái cực đồ phải chia theo chiều dọc như ta vẽ đây. Mà thôi, không nên để đạo trưởng đợi thêm nữa. Vị lão bằng hữu của ta rất chỉn chu và chuẩn chỉ!”

Khi họ bước qua ngưỡng cửa, Tôn Thiên sư nói nhanh, “Cẩn thận, lan can ở đây bị hỏng. Các đạo đồng cứ đổ lỗi rằng việc chuẩn bị cho buổi lễ quá bận rộn nên họ không có thời gian sửa nó. Thật là một đám biếng nhác! Đây, để ta nắm tay và dẫn lối cho ngươi. Ta không ngại bất cứ độ cao nào!”