Chương IV (tt)
dịch giả: nguyễn trọng định
Chương IV (tt)
ào lúc này, xung quanh Rieux, mọi người tìm cách ngồi thật khoan khoái, ngả người ra sau lưng ghế. Một cánh cửa có đệm đập khẽ, có ai đó giữ nó lại. Và Rieux, lãng ý đi vì chút tiếng động ấy, chỉ loáng thoáng nghe Paneloux tiếp tục thuyết giáo. Đại thể ông ta nói là không nên tìm cách lý giải cho mình cảnh tượng dịch hạch, mà nên cố gắng rút ra bài học có thể rút ra được. Rieux láng máng hiểu ra rằng theo cha Paneloux, thì không có gì cần giải thích cả. Ông tập trung chú ý khi Paneloux nhấn mạnh là đối với Chúa, có những điều có thể và những điều không thể giải thích được. Dĩ nhiên, có điều thiện và điều ác, và nói chung, người ta dễ dàng giải thích cái gì ngăn cách giữa thiện và ác. Nhưng cái khó bắt đầu từ bên trong cái ác. Chẳng hạn, có cái ác rõ ràng cần thiết và cái ác rõ ràng vô ích. Có don Juan [4] bị đày xuống Địa ngục và có cái chết của một đứa trẻ. Vì nếu kẻ phóng đãng đáng bị sét đánh, thì trái lại, không thể hiểu được vì sao một đứa trẻ lại phải chịu đau đớn. Và thực ra, trên trái đất, không có gì quan trọng hơn nỗi đau đớn của một đứa trẻ, sự kinh tởm mà nỗi đau có kéo theo nó, và những lý do biện giải cho nó. Còn nữa trong cuộc sống, thì Thượng đế tạo ra cho người ta mọi thuận lợi, và cho đến đây, tôn giáo chẳng có công trạng gì hết. Trái lại, ở đây, Thượng đế dồn chúng tôi đến tận chân tường. Chúng tôi ở dưới những bức tường thành của dịch hạch và phải tìm cái “lộc” của mình trong cái bóng giết người của chúng. Cha Paneloux cũng không nhận ra cho riêng mình những lợi thế có thể dễ dàng giành được và cho phép vượt qua tường. Ông có thể dễ dàng nói rằng những diễm phúc vĩnh hằng đang chờ đón đứa trẻ có thể bù đắp nỗi đau đớn của nó, nhưng, thực ra, ông chẳng hay biết gì về cái đó cả. Thật vậy, ai có thể khẳng định một niềm vui vĩnh cửu có thể bù đắp một lát nỗi khổ đau của con người? Chắc hẳn không phải là một tín đồ đạo Cơ Đốc, vì Chúa đã từng chịu đau đớn trong thịt da và trong tâm hồn. Không, cha Paneloux vẫn ở dưới chân tường, trung thành với sự phanh thây mà cái giá chữ thập là biểu tượng, mặt đối mặt với nỗi đau đớn của một đứa trẻ. Và ông không hề run sợ mà nói với thính giả hôm đó: “Hỡi những người anh em, thời cơ đã đến. Phải tin hết thảy hay phủ nhận hết thảy. Và ai đây trong số các anh em, dám phủ nhận hết thảy?”.
Rieux vừa thoáng nghĩ Paneloux sẽ đề cập tới chuyện dị giáo thì cha đã nói tiếp, một cách mạnh mẽ để khẳng định rằng mệnh lệnh ấy, yêu cầu thuần tuý, là cái “Lộc” của người tín đồ đạo Cơ Đốc. Đó cũng là đạo lý của họ. Paneloux biết rằng cái thái quá trong đạo lý ông sắp nói tới sẽ làm nhiều người khó chịu vì họ đã quen với một đạo lý khoan dung hơn và kinh điển hơn. Nhưng tôn giáo thời kỳ dịch hạch không thể là thứ tôn giáo thường ngày và, nếu Chúa có thể chấp nhận, thậm chí mong muốn, linh hồn nghỉ ngơi và hoan hỉ trong những thời kỳ hạnh phúc, thì, trái lại. Người muốn nó thái quá trong những sự thái quá của bất hạnh. Ngày nay, Chúa ưu ái đặt loài người trong nỗi bất hạnh lớn lao tới mức họ buộc phải tìm kiếm và đảm nhiệm cái đạo lý lớn lao nhất là đạo lý “Tất cả hay không gì hết”.
Trong thế kỷ trước, một tác giả ngoại đạo cho rằng ông ta đã vén được bức màn bí ẩn của Giáo hội khi khẳng định rằng không có Luyện ngục. Ông ta muốn hàm ý là không có biện pháp nửa vời, chỉ có Thiên đường và Địa ngục và người ta chỉ có thể hoặc được cứu vớt hoặc bị đọa đày tùy theo sự lựa chọn của mình. Theo Paneloux, đó là một thứ tà giáo: nó chỉ có thể nảy sinh trong một tâm hồn phóng đãng. Vì quả là có một chốn Luyện ngục. Nhưng dĩ nhiên có những thời kỳ không thể đặt quá nhiều hy vọng vào chốn Luyện ngục ấy, có những thời kỳ không thể nói tới chuyện có những tội nhẹ. Mọi tội lỗi đều có thể làm chết người và mọi thái độ thờ ơ đều mang tội. Hoặc là tất cả, hoặc không là gì cả.
Paneloux ngừng lại, và Rieux nghe rõ hơn, qua các cánh cửa, tiếng rên rỉ của luồng gió hình như đang mạnh thêm lên ở ngoài trời. Cùng lúc đó, cha Paneloux cho rằng cái đạo lý chấp nhận tất thảy ông vừa nói, không nên hiểu theo nghĩa hẹp thường ngày, rằng đây không phải là sự nhẫn nhục tầm thường, cũng không phải một sự hạ mình khó khăn. Đây là một sự sỉ nhục, nhưng là một sự sỉ nhục mà người bị sỉ nhục chấp nhận. Dĩ nhiên, nỗi đau đớn của một đứa trẻ là một sự sỉ nhục đối với khối óc và con tim. Nhưng chính vì vậy phải chịu nỗi đau khổ ấy, - chính vì vậy - đến đây Paneloux khẳng định với cử tọa rằng điều ông sắp nói không phải là điều dễ nói - chính vì vậy, phải mong ước nỗi đau đớn ấy bởi lẽ Thượng đế mong muốn nó. Chỉ có như thế người tín đồ đạo Cơ Đốc mới không né tránh gì hết và, khi mọi lối thoát đã bị bịt kín, sẽ đi vào chỗ tận cùng của sự lựa chọn cốt yếu, sẽ chọn con đường tin hết thảy để khỏi rơi vào ngõ cụt phủ nhận tất thảy. Vào lúc đó, trong các nhà thờ, sau khi biết hạch xoài là con đường tự nhiên để cơ thể tẩy ra ngoài những vi khuẩn nó bị nhiễm, những người đàn bà trung hậu đều nói: “Cầu mong Chúa ban cho nó những cái hạch xoài”. Cũng như những người đàn bà ấy, người tín đồ đạo Cơ Đốc biết phó mặc mình cho ý chí của Chúa, dù ý chí đó, không sao hiểu được. Không thể nói: “Cái đó, tôi không hiểu; nhưng cái này thì không thể chấp nhận”. Phải nhảy vào cái trung tâm cái không thể chấp nhận được đặt ra cho chúng ta ấy, chính là để làm công việc lựa chọn của mình. Nỗi đau đớn của trẻ em là miếng bánh cay đắng của chúng ta, nhưng không có thứ bánh ấy, thì tâm hồn chúng ta sẽ chết vì cái đói tinh thần.
Đến đây, bắt đầu nổi lên tiếng ồn ã vốn thường xuất hiện mỗi khi cha Paneloux ngừng lời. Nhưng bất giác nhà truyền giáo tiếp tục nói, giọng mạnh mẽ hơn, và như thể muốn hỏi vào địa vị các thính giả thì nên có thái độ ra sao. Chắc hẳn người ta sẽ thốt lên cái từ “định mệnh” khủng khiếp. Nhưng ông sẽ không lùi bước trước cái từ ấy nếu ông được phép ghép thêm vào đó tính từ “tích cực”. Dĩ nhiên, và một lần nữa, không nên bắt chước các tín đồ Cơ Đốc giáo Abyssinie mà ông đã nói tới. Thậm chí, không nên nghĩ tới việc bắt chước những người bị dịch hạch ở Ba Tư không họ cho đàn chó dữ đuổi theo những người Cơ Đốc giáo trong các tổ chức y tế, và lớn tiếng cầu Chúa bắt những kẻ dị giáo đó phải chịu dịch bệnh vì chúng muốn chống lại tai họa do Chúa ban phát. Nhưng ngược lại, cũng không nên bắt chước các tu sĩ ở Caire: trong những đợt dịch hạch thế kỷ trước, trong lúc ban thánh thể, họ lấy những cái cặp gắp bánh thánh để tránh tiếp xúc với những cái miệng ướt át và nóng bỏng có thể có mầm mống dịch bệnh. Những người bị dịch hạch ở Ba Tư và các tu sĩ ở Caire đều phạm tội. Vì, đối với những người thứ nhất, nỗi đau đớn của trẻ em không có nghĩa lý gì, và ngược lại đối với những người thứ hai, thì lòng sợ hãi - rất người - đối với đau đớn đã lấn át tất cả. Trong cả hai trường hợp, người ta đã tránh né vấn đề. Họ đều bỏ ngoài tai tiếng nói của Chúa. Nhưng Paneloux muốn nhắc tới những tấm gương khác. Theo lời người kể lại vụ dịch hạch lớn ở Marseille, thì trong số tám mươi mốt nhà tổ chức hành ở tu viện Marseille, chỉ có bốn người sống sót sau dịch bệnh. Và trong số bốn người ấy, thì ba bỏ trốn. Những người viết ký chỉ nói có vậy và theo chức năng nghề nghiệp không bình luận gì thêm. Nhưng đọc những dòng nhật ký này, Paneloux tập trung toàn bộ tư tưởng vào người ở lại, mặc dù bảy mươi bảy xác chết, và nhất là mặc dù tấm gương của ba người kia. Và nắm tay đập mạnh mép bàn, cha Paneloux thét to: “Hỡi những người anh em, chúng ta phải là người ở lại”.
Vấn đề không phải là chối từ những sự phòng ngừa và trật tự sáng suốt của xã hội trong cảnh tai họa mất trật tự. Không nên nghe theo những nhà đạo đức học bảo người ta phải quỳ gối và từ bỏ hết tất thảy. Chỉ cần bắt đầu bước lên phía trước, trong tăm tối, hơi mò mẫm chút ít, và cố làm điều thiện. Còn nữa thì phải tiếp tục tin vào Chúa, ngay đối với cả cái chết của đứa trẻ em, và không tìm kiếm sự cầu viện cá nhân.
Đến đây, cha Paneloux gợi lại hình ảnh cao đẹp của giám mục Belzunce trong vụ dịch hạch ở Marseille. Ông nhắc lại rằng, vào cuối thời kỳ dịch bệnh, sau khi làm tất cả những việc phải làm, và nghĩ không còn cách cứu chữa nào nữa, giám mục đã bịt kín cửa lại và ở trong nhà với ít cái ăn, rằng dân chúng - mà giám mục vốn là thần tượng - do một sự biến động tình cảm như thường thấy trong những nỗi đau đớn quá lớn, căm giận ông, đem xác chết vứt đầy xung quanh nhà để làm ông bị lây nhiễm và thậm chí còn quẳng xác qua tường để làm cho ông chết chắc chắn hơn. Thế là đức giám mục, trong một phút yếu đuối cuối cùng, những tưởng tách mình ra khỏi cái thế giới chết chóc, thế nhưng những xác chết lại rơi từ trên trời xuống đầu ông. Còn chúng ta nữa, chúng ta phải đinh ninh là không có ốc đảo nào cả trong dịch hạch. Không, không có cái trung dung. Phải chấp nhận điều sỉ nhục vì phải lựa chọn chết hay yêu Thượng đế. Và ai dám chọn con đường căm ghét Thượng đế?
“Hỡi các anh em, cuối cùng Paneloux nói và định kết luận, tình thương yêu Chúa là một tình thương yêu khó khăn. Nó đòi hỏi sự hy sinh hoàn toàn bản thân mình và thái độ coi thường con người mình. Nhưng chỉ có Thượng đế là có thể xóa bỏ nỗi đau và cái chết của trẻ em, dẫu sao, chỉ có Thượng đế là có thể làm cho cái chết trở nên cần thiết, bởi lẽ người ta không thể hiểu nổi mà chỉ có thể ước mong cái chết. Đấy là bài học gian khổ tôi muốn cùng chia sẻ với anh em. Đấy là niềm tin, đau đớn đối với con người, quyết định đối với Thượng đế, mà chúng ta phải tiếp cận.
Trước hình ảnh khủng khiếp này, mọi người đều phải bình đẳng. Ở đỉnh cao chót vót ấy, tất cả đều hòa đồng và bình đẳng, chân lý sẽ toát ra từ sự bất công bề ngoài. Chính vì thế trong nhiều nhà thờ ở miền nam nước Pháp, trong mấy thế kỷ nay và dưới những viên gạch lát chôn cầu kinh, đã yên nghỉ những người chết vì dịch hạch và các vị linh mục đứng nói phía trên mộ họ. Tinh thần mà các vị truyền bá toát ra từ các lớp tro mà trẻ em có góp phần trong đó”.
Khi Rieux bước ra, một luồng gió dữ dội ùa qua cánh cửa hé mở, đập thẳng vào mặt các tín đồ. Gió đưa vào trong nhà thờ một mùi nước mưa, một hương vị vỉa hè ướt át khiến họ có thể đoán được quanh cảnh thành phố trước khi họ ra khỏi nơi đây. Phía trước Rieux, một linh mục già và một trợ tế trẻ vừa bước ra cửa, vất vả lắm mới giữ được mũ. Nhưng không phải vì vậy mà linh mục già không bình luận bài thuyết giáo. Ông ca ngợi tài hùng biện của cha Paneloux, nhưng lo lắng đối với những tư tưởng táo bạo được trình bày. Ông cho rằng bài thuyết giáo chứa đựng nhiều lo âu hơn là sức mạnh, và vào cái tuổi Paneloux, một linh mục không có quyền được lo âu. Đầu cúi thấp để che gió, người trợ tế trẻ tuổi nói một cách chắn chắn rằng anh ta lui tới nhiều ở chỗ cha Paneloux nên biết được sự tiến triển về tư tưởng của ông, và bản tiểu luận của ông còn táo bạo hơn nhiều và chắc hẳn sẽ không được phép in ra.
- Thế tư tưởng của ông ta thế nào? - Vị linh mục già hỏi.
Họ đã ra tới sân trước và gió gào hú vây quanh họ, át hết tiếng người trợ tế trẻ. Đến khi nói được, anh ta chỉ nói:
- Nếu một linh mục hỏi ý kiến một thầy thuốc, thì ắt hẳn sẽ có mâu thuẫn.
Khi Rieux về kể lại những lời của Paneloux, thì Tarrou bảo là anh có biết một linh mục mất lòng tin khi nhìn thấy, trong chiến tranh, khuôn mặt một thanh niên chết trận.
- Paneloux nói có lý - Tarrou bảo - Khi trẻ thơ bị chết thì một tín đồ đạo Cơ Đốc phải mất lòng tin hay phải chấp nhận cái chết. Paneloux không muốn mất lòng tin, ông ta sẽ đi tới cùng. Đó là điều ông muốn nói.
Liệu nhận xét này của Tarrou có cho phép soi sáng chút ít những sự kiện không may xảy ra về sau và trong đó những người xung quanh hình như không thể hiểu nổi thái độ của Paneloux không? Chúng ta sẽ xét đoán.
Mấy ngày sau buổi thuyết giáo, Paneloux lo thay đổi chỗ ở. Đây là thời kỳ dịch bệnh tiến triển, khiến người ta liên tiếp đổi chỗ ở trong thành phố. Và cũng như Tarrou phải rời khách sạn đến ở nhà Rieux, cha Paneloux cũng phải bỏ lại căn nhà dòng thánh dành cho ông để đến ở nhà một bà cụ già, người thường đi nhà thờ và không bị nhiễm dịch. Trong lúc dọn nhà, Paneloux cảm thấy mỗi lúc một thêm mệt mỏi và lo âu. Và chính vì thế ông làm mất lòng tôn kính của bà cụ chủ nhà đối với mình. Khi bà cụ nhiệt liệt ca ngợi giá trị của những lời tiên tri của nữ thánh Odile, cha Paneloux tỏ một thoáng sốt ruột, chắc hẳn vì mệt mỏi. Về sau, ông hết sức cố gắng để bà cụ ít ra cũng giữ thái độ trung lập khoan hòa nhưng không sao đạt được. Ông đã gây ấn tượng xấu. Và tối nào cũng vậy, trước khi trở về căn buồng căng đầy những tấm riđô móc tay, ông cũng nhìn thấy bà cụ ngồi trong ghế xalông quay lưng lại và nghe hai tiếng “Chào cha” lạnh nhạt luôn luôn ám ảnh ông. Vào một buổi tối như thế, khi đi ngủ, đầu kêu ong ong, ông cảm thấy ở cổ tay và thái dương một cơn sốt dữ dội ủ đã từ mấy ngày nay.
Tình hình về sau xảy ra như thế nào, người ta chỉ được biết qua những lời kể lại của bà cụ chủ nhà. Buổi sáng, cụ dậy sớm, theo thói quen. Một lúc sau, ngạc nhiên không thấy cha Paneloux ra khỏi phòng, cụ quyết định gõ cửa, sau mấy phút ngập ngừng. Bà cụ thấy ông còn nằm, sau một đêm mất ngủ. Ông tức thở và có vẻ sung huyết hơn thường ngày. Theo đúng lời cụ nói, cụ lễ phép đề nghị cho mời thầy thuốc, nhưng Paneloux từ chối với một thái độ quyết liệt mà cụ cho là đáng tiếc.
Cụ chỉ còn biết rút lui. Một lát sau, cha Paneloux bấm chuông gọi. Ông xin lỗi về cử chỉ bực tức lúc nãy và nói với cụ rằng không thể có vấn đề dịch hạch, rằng ông không có triệu chứng nào của dịch hạch và đây chỉ là cơn mệt mỏi nhất thời. Bà cụ kiêu hãnh đáp rằng cụ không lo cho sự an toàn của bản thân cụ, nó nằm ở trong tay Chúa, nhưng cụ chỉ nghĩ đến sức khỏe của cha mà cụ cho là cụ có phần trách nhiệm. Nhưng vì Paneloux không nói thêm gì hết nên cụ chủ nhà, chắc hẳn vì muốn làm tròn bổn phận của mình, lại đề nghị cho mời thầy thuốc. Một lần nữa, cha Paneloux lại từ chối, nhưng bằng cách đưa thêm những lời giảng giải mà bà cụ thấy rất mơ hồ. Cụ chỉ nghĩ là mình đã hiểu và đây chính là điều mà cụ thấy là không thể nào hiểu nổi - việc Paneloux không cho mời thầy thuốc vì nó không phù hợp với các nguyên tắc của ông. Cụ kết luận là cơn sốt làm cho ý nghĩ của ông lộn xộn và cụ chỉ đưa nước thuốc sắc cho ông uống.
Lo làm thật đầy đủ những nghĩa vụ mà tình thế tạo ra cho mình, bà cụ đều đặn, cứ hai tiếng một, vào thăm người bệnh. Điều làm cụ ngạc nhiên hơn cả là thái độ bồn chồn xao động liên tục suốt ngày hôm đó của cha Paneloux. Ông quăng ra đi rồi lại kéo về, tay luôn luôn đưa lên vầng trán dâm dấp, và thường gượng dậy như để cố gắng một cơn ho bị bóp nghẹt, khàn khàn và ướt át, giống như muốn giật tung một cái gì, như muốn moi ra mà không được những cục bỏng từ sâu trong cổ họng làm ông ngạt thở. Sau những cơn bệnh biến ấy, ông ngã vật ra sau, với tất cả những dấu hiệu của một tình trạng kiệt sức. Cuối cùng, ông lại gượng dậy nửa nằm nửa ngồi và, trong chốc lát, đăm đăm nhìn ra trước mặt một cách còn dữ dội hơn cả những cơn rẫy rụa lúc trước. Nhưng bà cụ vẫn còn ngập ngừng trong việc đi mời thầy thuốc và cưỡng lại ý muốn người bệnh. Có thể chỉ là một cơn sốt, dù nó có vẻ mãnh liệt đến thế.
Thế nhưng buổi chiều, bà cụ thử hỏi lại Paneloux và chỉ nhận được những câu trả lời mơ hồ. Cụ nhắc lại đề nghị. Nhưng ông vùng dậy và với giọng tuy ngạt thở, nói rành rọt rằng ông không muốn có thầy thuốc. Bà cụ quyết định chờ tới sáng mai và, nếu lúc đó, bệnh không giảm thì cụ sẽ gọi điện theo số điện thoại mà hãng Ransdoc ngày nào cũng nhắc đến hàng chục lần trên đài phát thanh. Luôn luôn lo lắng bổn phận của mình, bà cụ đinh ninh đêm nay sẽ thức trông coi người bệnh. Nhưng tối hôm ấy, sau khi đưa nước thuốc vừa mới sắc cho ông, cụ muốn nằm nghỉ một lát và ngủ quên đi, sáng sớm hôm sau mới tỉnh giấc. Cụ vội chạy vào buồng.
Cha Paneloux nằm dài trên giường, im lìm. Tiếp theo cơn sung huyết cao độ hôm qua, là một hiện tượng xám ngắt càng rõ hơn trên dáng dấp khuôn mặt vẫn còn đầy đặn. Ông đăm đăm nhìn cây đèn chùm con con làm bằng những viên ngọc trai ngũ sắc treo đầu giường. Khi bà cụ bước vào, ông quay đầu lại. Theo lời cụ, lúc đó, ông có vẻ như đã bị hành hạ giày vò suốt đêm và không còn một chút sức lực nào để phản ứng. Cụ hỏi ông tình hình sức khỏe ra sao.
Với một giọng mà bà cụ nhận thấy âm sắc dửng dưng đến kỳ lạ, ông đáp ông không được khỏe, nhưng không phải mời thầy thuốc mà chỉ cần đưa ông đến bệnh viện để mọi sự được làm đúng theo quy tắc. Hốt hoảng, bà cụ vội chạy lại máy điện thoại.
Đến trưa thì Rieux tới. Nghe bà cụ chủ nhà kể lại, ông chỉ nói là Paneloux làm đúng và có lẽ đã quá chậm. Paneloux tiếp ông cũng với một thái độ dửng dưng. Rieux khám cho ông và ngạc nhiên không tìm thấy một triệu chứng chủ yếu nào của dịch hạch - hạch xoài hay màng phổi cả ngoài hiện tượng phổi bị ứ căng và ngạt thở. Dẫu sao, mạch cũng rất yếu và tình trạng chung rất đáng báo động, chỉ còn ít hy vọng.
- Cha không có một triệu chứng chủ yếu nào của dịch hạch cả - Ông nói với Paneloux - Nhưng thực ra, vẫn đáng nghi ngờ và cha vẫn phải cách ly.
Cha Paneloux mỉm cười một cách kỳ lạ, như thế vì phép lịch sự, nhưng im lặng. Rieux bước ra để gọi điện rồi quay trở lại.
- Tôi ở lại với cha. - Ông dịu dàng nói.
Paneloux có vẻ tỉnh táo trở lại và quay về phía Rieux cặp mắt trong đó hình như lại sống dậy một thứ nhiệt tình. Rồi ông phát âm một cách khó khăn, nên không thể biết là khi nói, ông có buồn hay không:
- Cảm ơn ông. Nhưng người tu hành không có bạn. Họ đã đặt tất cả ở Thượng đế.
Ông xin cái giá chữ thập treo trên đầu giường và, khi có trong tay, ông quay đi để nhìn.
Ở bệnh viện, Paneloux không hề hé răng. Ông phó mặc cho mọi sự săn sóc, điều trị, tựa một vật vô tri vô giác, nhưng tay vẫn nắm chặt cái giá chữ thập. Tuy thế, ca của ông vẫn nhập nhằng. Trong óc Rieux vẫn bán tín bán nghi. Là dịch hạch nhưng lại không phải là dịch hạch. Vả lại, đã ít lâu nay, hình như nó thích thú đánh lạc hướng những sự chẩn đoán. Nhưng trong trường hợp Paneloux, tình hình về sau chứng minh rằng sự ngờ vực đó là không quan trọng.
Cơn sốt tăng lên. Tiếng ho mỗi lúc một khàn thêm và hành hạ người bệnh suốt cả ngày. Cuối cùng, buổi tối, Paneloux khạc ra cái cục làm ông ngạt thở. Nó đỏ hỏn. Giữa lúc cơn sốt lên cao, Paneloux ánh mắt vẫn lạnh lùng và sáng hôm sau, khi thấy ông đã chết, nửa người thõng ra ngoài giường, ánh mắt không thể hiện gì hết. Trên tấm phiếu bệnh của ông, có ghi: “Ca không rõ ràng”.
Lễ Các Thánh [5] năm ấy không như các năm khác. Dĩ nhiên, thời tiết có thuận. Nó thay đổi đột ngột và bỗng nhiên những ngày nắng muộn mằn nhường chỗ cho những ngày dịu mát. Cũng như những năm khác, giờ đây, gió lạnh thổi liên hồi kỳ trận. Những đám mây lớn ùn từ chân trời này sang chân trời khác, phủ bóng lên những ngôi nhà và sau khi mây bay qua, ánh sáng lạnh lẽo vàng rực của bầu trời tháng mười một lại ập xuống. Những chiếc áo mưa đầu tiên đã xuất hiện. Nhưng người ta nhận thấy nhiều, rất nhiều những tấm vải tráng cao su óng ánh. Quả là báo chí kể lại rằng, hai trăm năm trước đây, trong những vụ dịch hạch lớn ở phía nam, các thầy thuốc mang vải tráng dầu để phòng bệnh. Các cửa hiệu lợi dụng cơ hội để bán ra một lô quần áo không còn hợp thời trang, nhưng nay ai nấy đều hy vọng chúng có khả năng miễn dịch.
Tuy nhiên, tất cả những dấu hiệu thời tiết ấy vẫn không thể làm người ta quên là các nghĩa trang, chẳng có ai thăm viếng. Những năm trước, các toa xe điện đều ngát mùi hoa cúc, và hàng đoàn phụ nữ đến những nơi người thân an nghỉ để dâng hoa lên mộ. Đấy là ngày người ta tìm cách bù đắp lại cho người quá cố nỗi cô đơn và sự quên lãng kéo dài qua bao tháng ngày đằng đẵng. Những năm ấy, không ai buồn nghĩ tới người chết. Đúng ra người ta đã nghĩ tới quá nhiều. Vấn đề không còn là đến lại với họ với một ít luyến tiếc và nhiều sầu não. Họ không còn là những người cô đơn mà mỗi năm một lần, người ta đến để bày tỏ nỗi lòng nữa. Họ là những kẻ xa lạ mà người ta muốn lãng quên, Lễ tưởng niệm Người chết, năm ấy, có thể nói bị “lờ đi” là vì như vậy. Theo Cottard, - mà Tarrou cho là lời lẽ ngày càng thêm châm biếm - thì ngày nào cũng là ngày Lễ tưởng niệm Người chết.
Và thực sự, ngọn lửa, dịch hạch rừng rực lên ngày một thêm hào hứng trong lò thiêu xác. Quả là ngày này sang ngày khác, số người chết không tăng thêm. Nhưng hình như dịch hạch đã “an vị” ở cực điểm của nó và, đối với các nạn nhân, nó tỏ rõ cái đều đặn và chính xác của một viên chức mẫn cán. Về nguyên lý, và theo ý kiến của các nhân vật có thẩm quyền, thì đấy là một dấu hiệu tốt lành. Bác sĩ Richard, chẳng hạn, cho đồ thị theo dõi sự tiến triển của dịch hạch, lúc đầu liên tục đi lên, rồi sau giữ nguyên mặt bằng một thời gian dài, là đang làm cho người ta yên tâm. “Một đồ thị tốt, một đồ thị tuyệt vời”, ông ta bảo. Ông cho rằng dịch bệnh đã đạt tới cái mà ông gọi là “mặt bằng” đồ thị.
Từ nay thì bệnh chỉ có thuyên giảm thôi. Theo ông, đây là nhờ loại huyết thanh mới của Castel: quả là nó vừa đem lại vài kết quả bất ngờ. Ông già Castel không phản đối nhưng cho rằng trên thực tế, không thể dự đoán gì được, vì lịch sử các dịch bệnh có những bước nhảy bất ngờ. Đã từ lâu, tỉnh muốn làm yên lòng công chúng nhưng vì dịch bệnh nên chưa làm được, nay muốn họp các thầy thuốc để nghe họ báo cáo. Đúng lúc đó, thì bác sĩ Richard chết vì dịch hạch, ngay trên mặt bằng của dịch bệnh. Sự việc thật bất ngờ nhưng cũng chẳng chứng minh gì hết. Thế là các nhà chức trách trở lại bi quan một cách vô căn cứ cũng như trước đây đã từng lạc quan vô căn cứ. Về phía mình, Castel chỉ lo pha chế huyết thanh hết sức cẩn thận. Dẫu sao, cũng chỉ còn một nơi công cộng chưa bị biến thành bệnh viện hay nhà cách ly là trụ sở tỉnh vì cần giữ lại một nơi để hội họp. Nhưng nói chung, và vì dịch bệnh vào thời kỳ này tương đối ổn định tổ chức do Rieux đề xuất vẫn đứng vững. Đội ngũ thầy thuốc và những người giúp việc đã cố gắng đến kiệt sức và không sao có thể hình dung những nỗ lực lớn hơn. Họ chỉ phải tiếp tục một cách đều đặn cái công việc siêu phàm ấy - nếu có thể nói như vậy - Dạng dịch hạch màng phổi trước đây đã xuất hiện, nay lan tràn trong khắp thành phố, tựa như có ngọn gió thổi bùng lên những đám cháy trong lồng ngực. Bị nôn ra máu, người bệnh chết nhanh hơn nhiều. Với dạng mới này của dịch bệnh, nguy cơ lây lan nhiều hơn. Thực ra, ý kiến các chuyên gia luôn luôn mâu thuẫn nhau. Nhưng để được an toàn hơn nhân viên y tế tiếp tục đeo mặt nạ bằng gạc đã sát trùng. Dẫu sao, thoạt nhìn, người ta cho là dịch bệnh có khả năng lan rộng. Nhưng vì bớt được những ca dạng hạch xoài nên cán cân lại thăng bằng.
Nhưng do tiếp tế ngày càng khó khăn nên người ta có những mặt lo lắng khác. Nạn đầu cơ góp phần vào trong đó, và người ta bán với giá không sao tưởng tượng nổi những nhu yếu phẩm lúc đó khan hiếm trên thị trường. Các gia đình nghèo lâm vào tình thế rất vất vả, trong lúc các gia đình giàu có hầu như không thiếu một thứ gì. Nhẽ ra với hiệu lực của hoạt động không thiên vị của nó, dịch hạch phải tăng cường sự bình đẳng giữa các đồng bào chúng tôi, nhưng trái lại, do tác động tự nhiên của những lề thói ích kỷ, nó lại làm cho ý thức về sự bất công càng thêm gay gắt trong lòng người. Dĩ nhiên, còn lại sự bình đẳng tuyệt đối trước cái chết, nhưng không ai muốn có thứ bình đẳng đó. Bị đói, người nghèo càng luyến tiếc nhớ tới những thành phố và vùng nông thôn lân cận, nơi cuộc sống được tự do và bánh mì không đắt đỏ. Vì không được tiếp tế đầy đủ, họ đâm ra phải suy nghĩ kể cũng hơi vô lý là nhẽ ra người ta phải để cho họ ra đi. Tới mức có tin đồn đại rằng thỉnh thoảng trên tường, người ta đọc thấy, hoặc có khi, trên đường ông tỉnh trưởng đi qua người ta nghe vang lên, khẩu hiệu: “Bánh mì hoặc không khí”. Cái công thức hài hước ấy là hiệu lệnh cho một vài cuộc biểu tình bị nhanh chóng dập tắt, nhưng ai cũng thấy rõ tính chất nghiêm trọng của tình hình.
Dĩ nhiên, báo chí tuân theo mệnh lệnh nhận được là phải lạc quan với bất kỳ giá nào. Đọc báo, người ta thấy đặc điểm của tình hình là “tấm gương bình tĩnh và dũng cảm đáng xúc động” của dân chúng. Nhưng trong một thành phố hoàn toàn khép kín, trong đó không thể bưng bít được gì hết, không một ai bị đánh lừa về “tấm gương” của cả cộng đồng. Và muốn có một khái niệm chính xác về sự “bình tĩnh và dũng cảm” báo chí nêu lên, chỉ cần bước vào một nơi kiểm dịch hay một trại cách ly do cơ quan Nhà nước tổ chức. Có thể là người kể chuyện ở đây, bị gọi đến chỗ khác, không được biết những nơi đó. Cho nên chỉ xin viện dẫn lời thuật lại của Tarrou.
Thật vậy, trong sổ tay. Tarrou kể lại một buổi anh cùng Rambert đến thăm trại cách ly trên sân vận động thành phố. Sân vận động nằm sát cửa ô, một phía ngoảnh ra đường xe điện, một phía ra những khu đất hoang chạy dài tận chân đồi nơi thành phố được xây dựng. Bao quanh sân là những bức tường cao bằng ximăng và chỉ cần đặt người gác ở bốn cửa ra vào là bệnh nhân không sao bỏ trốn được. Và tường cũng ngăn cản không cho người phía ngoài, do tò mò, quấy nhiễu những người khốn khổ bị cách ly kiểm dịch. Trái lại, những người này, suốt ngày, nghe, tuy không nhìn thấy, những chuyến xe điện chạy qua, và khi nghe tiếng ồn ào náo nhiệt trên xe, đoán được giờ đến sở hay giờ tan sở của viên chức. Họ thấy cuộc sống, mà họ bị loại trừ ra khỏi, vẫn tiếp diễn chỉ cách mình có vài mét, và những bức tường xi-măng chia cắt hai thế giới còn xa lạ với nhau hơn là những thế giới trên hai hành tinh khác nhau.
Tarrou và Rambert đến sân vận động vào một buổi chiều Chủ nhật. Cùng đi với họ có Gonzalès, anh chàng chơi bóng đá, mà Rambert đã tìm gặp lại và cuối cùng anh ta nhận lời luân phiên canh gác sân vận động. Rambert phải giới thiệu anh ta với quản lý trại. Lúc họ gặp nhau, Gonzalès bảo Tarrou và Rambert là trước khi có dịch hạch, đúng vào giờ này, anh ta ăn mặc để ra sân thi đấu. Nhưng bây giờ, sân vận động đã bị trưng dụng không còn thi đấu được nữa, Gonzalès cảm thấy và có vẻ hoàn toàn thất nghiệp. Đấy là một trong những lý do anh nhận canh gác, với điều kiện chỉ vào những ngày cuối tuần không thôi. Trời ít mây và, ngước mắt lên, Gonzalès với thái độ tiếc rẻ, cho rằng thời tiết không mưa cũng không nắng này là lý tưởng cho một trận đấu. Anh cố gợi lại mùi dầu xoa trong nhà thay quần áo, những khu khán đài chật ních người như chỉ muốn sụp đổ, những chiếc mayô sặc sỡ trên sân bãi với thảm cỏ màu hung, những quả chanh lúc nghỉ giải lao hay chai limônat tê tê như châm vào những cái cổ họng khô khốc hàng ngàn chiếc kim mát lạnh. Tarrou ghi thêm là trên suốt chặng đường, anh chàng vận động viên luôn luôn giơ chân đá những viên sỏi trên những con đường sụt lún ở ngoại thành. Anh ta cố đá trúng vào miệng cống và mỗi lần đá trúng, là thốt lên “một, không”. Hút hết điếu thuốc, anh ta nhả mẩu thuốc còn lại xuống lơ lửng trước mặt và giơ chân đá tung lên. Gần tới sân vận động, quả bóng của trẻ nhỏ đang chơi rơi vào chỗ họ và Gonzalès vội đá trả lại chúng một cách chính xác.
Cuối cùng họ bước vào sân vận động. Khán đài chật ních. Nhưng sân bãi thì phủ kín hàng mấy trăm chiếc lều bạt màu đỏ, trong đó, người ta nhìn thấy từ xa chăn nệm và ba-lô. Khán đài được giữ lại để những người bị nhốt có thể tránh mưa, nắng. Mặt trời lặn, họ mới phải trở về lều. Phía dưới khán đài, là những vòi nước tắm lắp sẵn và những phòng thay quần áo ngày trước của các vận động viên nay biến thành văn phòng hay bệnh xá. Phần lớn những người bị nhốt đang ở trong các khán đài. Những người khác đi dạo trên các đường biên. Một vài người ngồi xổm trước cửa lều và bâng quơ nhìn mọi vật. Trên khán đài, nhiều người đã nằm sóng soài và có vẻ chờ đợi.
- Ban ngày họ làm gì? - Tarrou hỏi Rambert.
- Không làm gì hết.
Thật vậy, hầu hết mọi người đều hai cánh tay đu đưa và hai bàn tay không. Cái đám người mênh mông này im lặng như tờ đến kỳ lạ.
- Những ngày đầu, ở đây, nói không sao nghe được. - Rambert cất tiếng - Nhưng càng ngày, họ càng ít nói đi.
Theo những lời ghi chép của Tarrou, thì anh hiểu họ, và lúc đầu, anh thấy họ ngồi túm tụm lại trong lều chỉ biết cào gãi hay nghe tiếng ruồi vo ve, và hễ có ai chịu nghe, là họ thốt lên nỗi giận dữ hay lo sợ trong lòng. Nhưng từ khi trại chật cứng người là người, thì ngày càng ít đi những cái tai sẵn sàng nghe. Vì vậy họ chỉ còn im lặng và nghi ngờ. Quả là có một thứ nghi ngờ từ trên bầu trời xám xịt tuy vẫn có ánh sáng, trút xuống cái trại đỏ rực này.
Đúng, mọi người ở đây đều có vẻ nghi ngờ. Vì bị ngăn cách với những người khác, nên họ nghi ngờ không phải không có duyên cớ và họ lộ bộ mặt của những người đang tìm kiếm những lý do của mình và sợ hãi. Tarrou thấy ai nấy đều có ánh mắt trống rỗng, đều có vẻ đau khổ vì nỗi cách biệt mênh mông với tất cả những gì tạo nên cuộc sống của họ. Và vì không phải bao giờ cũng có thể nghĩ đến cái chết, nên họ không nghĩ tới gì hết. Họ đang nghỉ hè, nhưng cái tồi tệ hơn hết, Tarrou viết tiếp, là họ là những kẻ bị bỏ quên và họ biết điều đó. Những người quen biết họ đã quên họ vì người ta nghĩ tới cái khác và đó là điều rất dễ hiểu. Còn những người yêu thương họ thì cũng quên họ vì đã kiệt cả sức lực trong những việc chạy vạy và những lo toan để đưa họ ra khỏi trại. Mãi lo nghĩ tới việc ra trại ấy, người ta không còn nghĩ đến những người cần đưa ra nữa. Âu cũng là việc thường tình. Và cuối cùng, người ta nhận thấy không ai có thể thực sự nghĩ tới ai, dù là trong cơn hoạn nạn tồi tệ nhất. Vì thực sự nghĩ tới một ai đó, là phải nghĩ tới từng phút một, không vì bất cứ một việc gì mà lãng quên, dù là công việc nội trợ, là con ruồi bay qua, là những bữa ăn, là một sự ngứa ngáy. Nhưng bao giờ chẳng có ruồi bay qua và ngứa ngáy. Vì vậy, cuộc sống thật là khó sống. Và những người ở trong trại biết rõ như vậy”.
Khi gặp họ, người quản lý trại báo là có một ông Othon nào đó muốn gặp. Y đưa Gonzalès vào buồng giấy, rồi dẫn họ tới một góc khán đài: đang ngồi riêng một mình, Othon đứng dậy tiếp họ. Ông ta vẫn quần áo như trước và vẫn mang cổ cứng. Nhưng Tarrou nhận thấy tóc hai bên thái dương ông ta bờm xờm và một chiếc dây giày xổ tung. Viên thẩm phán có vẻ mệt mỏi, và không hề nhìn người đối thoại. Ông nói là rất mừng được gặp họ và nhờ chuyển lời cảm ơn bác sĩ Rieux về những việc bác sĩ đã làm.
Mấy người kia im lặng.
Một lát sau, Othon nói: Tôi hy vọng rằng Philippe đã không quá đau đớn
Lần đầu tiên, Tarrou nghe ông ta gọi tên con và anh hiểu có cái gì đó đã thay đổi. Mặt trời xuống thấp về phía chân trời, và giữa hai dải mây, các tia nắng dọi ngang vào khán đài, nhuộm vàng cả ba khuôn mặt.
- Không, - Tarrou đáp - không, quả là cháu không đau đớn.
Khi chia tay, Othon vẫn nhìn về phía mặt trời.
Tarrou và Rambert đến tạm biệt Gonzalès lúc đó đang nghiên cứu bảng cắt phiên canh gác. Anh chàng cầu thủ mỉm cười bắt tay họ:
Ít ra tôi cũng đã thấy lại buồng thay áo quần, vẫn như cũ thôi.
Một lát sau, viên quản lý tiễn chân Tarrou và Rambert. Bỗng có tiếng rào rào trên khán đài. Loa phóng thanh trước đây dùng để thông báo kết quả các trận đấu hay giới thiệu các đội bóng, thì nay tuyên bố bằng một giọng mũi rằng những người trong trại phải trở về lều để nhận phần ăn buổi tối. Chậm rãi, người ta lê bước rời khỏi khán đài, trở về lều trại. Sau khi mọi người yên vị, hai chiếc xe điện nhỏ, như vẫn thường thấy trong các nhà ga, chạy qua giữa các lều chở những chiếc nồi to tướng. Người ta chìa cánh tay, hai cái muôi vục vào hai chiếc nồi rồi lại bỏ ra để cho vào trong hai cái cà mèn. Cỗ xe chuyển động đi sang lều thứ hai.
- Khoa học đấy. - Tarrou bảo tay quản lý.
- Vâng, - Hắn đáp, vẻ thỏa mãn, và bắt tay họ - thế là khoa học.
Trời chạng vạng tối, bầu trời bớt mây. Một luồng ánh sáng dịu mát tỏa xuống trại. Trong cảnh chiều êm ả, từ khắp mọi phía nổi lên tiếng thìa, tiếng đĩa. Từng đàn dơi bay liệng trên lều trại và đột ngột biến mất. Phía ngoài các bức tường, một chuyến xe điện rít lên ở chỗ bẻ ghi đổi đường.
- Tội nghiệp ông dự thẩm - Tarrou thì thầm khi ông bước qua cổng trại - Phải làm một cái gì cho ông ta. Nhưng biết giúp đỡ một vị quan tòa như thế nào?
Trong thành phố, còn nhiều trại khác, nhưng vì cẩn trọng và thiếu thông tin trực tiếp nên người kể chuyện ở đây không thể nói gì nhiều hơn. Nhưng điều anh ta có thể nói, là sự tồn tại của những trại này, mùi con người từ trại thoát ra, tiếng oang oang của loa phóng thanh trong cảnh hoàng hôn, cái bí ẩn của các bức tường và nỗi niềm sợ hãi đối với những nơi đày đọa này, tất cả đè nặng lên tinh thần đồng bào chúng tôi và tăng thêm sự hoang mang, khó chịu của mọi người. Những sự rắc rối và xung đột với cơ quan Nhà nước tăng thêm.
Cuối tháng mười một, trời buổi sáng lạnh buốt. Những trận mưa xối xả rửa sạch hè phố, quét hết mây trên bầu trời, và đường phố bóng loáng. Sáng sáng, mặt trời yếu ớt tỏa xuống thành phố một thứ ánh sáng lấp lánh, giá lạnh. Trái lại, về chiều, không khí trở lại ấp áp. Đó là lúc Tarrou chọn để đến tâm tình đôi chút với bác sĩ Rieux.
Một hôm, lúc mười giờ, sau một ngày dài, mệt mỏi, Tarrou đi theo Rieux trong buổi đến thăm ông già bị hen suyễn vào buổi tối. Bầu trời dịu dàng tỏa sáng trên mái nhà trong cái khu phố cũ kỹ. Một làn gió nhẹ thoáng qua các ngã tư tối tăm. Đang từ những con đường vắng lặng tới đây, hai người bỗng rơi vào những câu chuyện huyên thuyên của ông lão. Ông bảo họ là có những người (trong trại cách ly) không đồng tình, là cái món ăn có bơ không bao giờ được thay đổi, là “đi đêm ắt có ngày gặp ma” và chắc chắn - đến đây lão vừa nói, vừa hai tay xoa vào nhau - sẽ có tình trạng lộn xộn, gây gổ. Trong lúc được bác sĩ chăm sóc, ông lão vẫn không ngớt bình luận các sự kiện.
Họ nghe có tiếng chân bước trên đầu. Bà lão trước vẻ chú ý của Tarrou, giải thích rằng có những bà hàng xóm trên sân thượng. Đồng thời, họ được biết đứng trên đó, có một tầm nhìn bao quát, và các dãy sân thượng thường có một phía liền nhau nên phụ nữ trong khu phố có thể đến thăm viếng nhau mà không cần ra khỏi nhà.
- Vâng, - Ông lão bảo - mời các ông lên. Không khí trên đó tốt lành.
Họ lên và thấy sân thượng vắng vẻ, chỉ có ba chiếc ghế tựa. Về một phía, xa tít tắp, ta nhìn thấy những mảnh sân thượng chạy dài và cuối cùng dựa vào một cái khối tối om và lởm chởm sỏi đá mà họ nhận ra là ngọn đồi thứ nhất. Phía kia, trên một vài đường phố và bến cảng bị che khuất, là chân trời, nơi trời và biển trộn lẫn vào nhau trong tiếng phập phồng mơ hồ. Bên kia các vách đá xa xa, một luồng sáng mà họ không thấy nguồn phát, xuất hiện một cách đều đặn: ngọn đèn pha trên eo biển, từ mùa xuân, tiếp tục chiếu sáng cho những con tàu quay mũi đi về những bến cảng khác. Trên bầu trời, gió quét hết mây, trở nên lóng lánh, những vì sao trong trẻo lấp lánh và luồng sáng xa xa của ngọn đèn pha, chốc chốc, dọi vào một màu tro thoáng qua. Một làn gió nhẹ mang đến mùi hương liệu và mùi đá sỏi. Cảnh vật im lặng như tờ.
- Ngồi đây thật thú vị. - Rieux ngồi xuống và cất tiếng - Như thể dịch hạch không bao giờ mon men tới.
Tarrou quay lưng lại phía ông và nhìn ra biển.
- Vâng, - Anh nói một lát sau - thú vị thật.
Anh đến ngồi cạnh Rieux và đăm đăm nhìn ông. Ba lần, luồng ánh sáng xuất hiện trên bầu trời. Từ dưới đường phố, vẳng lên tiếng bát đĩa loảng xoảng. Dưới nhà, có tiếng kẹt cửa.
- Rieux này, - Tarrou nói, giọng hết sức tự nhiên - anh chưa bao giờ tìm hiểu tôi là người thế nào cả. Anh có lòng mến tôi không?
- Có, - Bác sĩ Rieux đáp - tôi mến anh. Nhưng cho tới nay, chúng ta không có thì giờ.
- Tốt, điều đó làm tôi yên tâm, anh có muốn giờ này là giờ của tình thân mến không?
Rieux chỉ mỉm cười thay cho câu trả lời:
- Vậy thì, thế này...
“Rieux này, để cho gọn, tôi xin nói là từ lâu, tôi đã từng đau khổ vì dịch hạch trước khi biết thành phố này và nạn dịch này. Tôi muốn nói là tôi cũng như mọi người thôi. Nhưng có người không biết đến tình trạng và hoặc thấy thoải mái nữa kia, cũng có người thì biết và muốn thoát ra khỏi. Riêng tôi, bao giờ tôi cũng muốn thoát ra.
Lúc còn trẻ, tôi sống với ý niệm về sự ngây thơ của mình, nghĩa là không hề có ý niệm gì hết. Tôi không thuộc loại người hay băn khoăn, tôi bắt đầu cuộc đời một cách hợp lẽ. Tôi thành công trong mọi việc, tôi sống thoải mái trong sự hòa hợp, nhất là với phụ nữ, và nếu tôi có một vài nỗi lo âu thì cũng chỉ thoáng qua. Một hôm, tôi bắt đầu suy nghĩ. Giờ đây...
Tôi phải nói với anh là trước kia tôi không nghèo như anh. Cha tôi làm phó chưởng lý ở tòa thượng thẩm, một địa vị đấy chứ. Thế nhưng ông không tỏ dáng vẻ gì chưởng lý cả, vì vốn bản chất nhân hậu. Mẹ tôi sống đơn giản và kín đáo, lúc nào tôi cũng yêu mến mẹ tôi, nhưng tôi không muốn nói về bà. Bố tôi quan tâm tới tôi với lòng yêu thương và tôi còn nghĩ là ông tìm cách hiểu tôi. Ông có những chuyện yêu đương ở bên ngoài, bây giờ thì tôi tin chắc điều đó, và tôi cũng không hề vì vậy mà bực tức. Ông xử sự trong mọi việc đó đúng như ông phải xử sự, không làm phiền một ai hết. Để nói gọn, bố tôi không phải là người thật độc đáo, và bây giờ ông không còn nữa, tôi nhận thấy tuy ông không sống như một vị thánh, nhưng cũng không phải là một kẻ xấu. Ông giữ mức trung dung, chỉ có thế, và là kiểu người được người ta mến yêu một cách đúng mực khiến ông vẫn giữ nguyên phong cách sống của mình.
Tuy vậy ông có một đặc điểm: cuốn sách chỉ nam đồ sộ về hoạt động của đường sắt là sách gối đầu giường của ông. Không phải vì ông thích đi du lịch, trừ vào dịp nghỉ hè, ông đến vùng Bretagne, nơi ông có một trang trại nhỏ. Nhưng ông có thể nói ngay với anh một cách chính xác giờ đi và đến của chuyến xe lửa Paris - Berlin, những sự phối hợp giờ tàu chạy để đi từ Lyon đến Varsovie, số kimômét chính xác giữa hai thủ đô tùy theo anh lựa chọn. Liệu anh có thể nói người ta đi từ Briançon đến Chamonix [6] như thế nào không?
Ngay một tay trưởng ga cũng phải bối rối. Bố tôi thì không. Tối nào, ông cũng lo tìm cách làm giàu thêm hiểu biết của mình về điểm này, và ông lấy thế làm tự hào. Điều đó làm tôi rất thú vị, và tôi thường đặt ra câu hỏi để sau đó hoan hỉ kiểm tra qua cuốn sách chỉ nam về đường sắt những câu trả lời của ông và thừa nhận ông không hề nhầm lẫn. Những trò nho nhỏ ấy gắn bó bố con chúng tôi lại với nhau rất nhiều, vì tôi trở thành một thính giả mà thiện chí được ông đánh giá cao. Còn tôi thì tôi thấy tính ưu việt của ông về đường sắt cũng có giá trị như mọi tính ưu việt khác.
Nhưng thôi, tôi đã không tự kìm chế được mình và có nguy cơ quá đề cao con người trung hậu này. Vì, cuối cùng, bố tôi chỉ có ảnh hưởng gián tiếp đến quyết định của tôi. Nhiều lắm thì cũng chỉ tạo cho tôi một cơ hội. Quả vậy, lúc tôi mười bảy tuổi, ông bảo tôi đi nghe ông nói. Đây là một vụ án quan trọng, ở tòa đại hình, và chắc hẳn ông cụ nghĩ rằng ông sẽ xuất hiện trong diện mạo ưu tú nhất của mình. Tôi cũng cho là ông cụ trông mong vào cái nghi thức này nó có nhiều khả năng đánh vào trí tưởng tượng của tuổi trẻ để thúc đẩy tôi đi vào sự nghiệp mà bản thân ông đã lựa chọn. Tôi nhận lời, để làm vui lòng bố tôi và cũng vì tôi muốn tò mò nhìn ông, nghe ông nói trong một vai trò khác với vai trò ông vẫn đóng ở nhà. Tôi không hề nghĩ gì hơn. Bao giờ tôi cũng cho rằng tình hình xảy ra trong một tòa án cũng tự nhiên và tất yếu như một buổi duyệt binh ngày 14 tháng bảy [7] hay một buổi lễ phát phần thưởng. Tôi có một ý niệm rất trừu tượng về cái đó, và nó không hề làm tôi bối rối.
Nhưng tôi chỉ giữ lại của ngày hôm đó có một hình ảnh, hình ảnh người phạm tội. Quả là tôi tin y phạm tội, còn phạm tội gì thì không quan trọng. Nhưng con người bé nhỏ, tóc màu hung lơ thơ, trạc tuổi ba mươi ấy, tỏ vẻ muốn thừa nhận tất cả, kinh hoàng thành thực về việc mình đã làm và việc người ta sắp làm đối với mình, nên chỉ mấy phút sau, tôi chỉ còn đăm đăm nhìn vào y. Y có vẻ như một con chim cú hoảng sợ trước một luồng ánh sáng quá chói lọi. Nút cà vạt không thắt đúng chỗ vào giữa cổ áo. Y gặm gặm móng tay, nhưng chỉ trên bàn tay phải không thôi. Tóm lại, tôi xin khỏi nhấn mạnh, chắc anh hiểu đó là một con người đang sống giữa trần gian.
Nhưng tôi, tôi bỗng đột ngột nhận ra điều đó, trong lúc cho đến nay, tôi chỉ nghĩ tới y thông qua cái loại người mà người ta đặt cho một cách dễ dàng cái tên gọi ‘bị cáo’. Tôi không thể nói là lúc đó, tôi quên bố tôi, nhưng có một cái gì như thắt ruột gan tôi lại, không cho tôi chú ý tới cái gì khác ngoài kẻ bị cáo. Hầu như tôi không nghe thấy gì hết, tôi có cảm giác người ta muốn giết chết con người đang sống này, và một bản năng dữ dội như một lớp sóng đưa tôi tới bên cạnh y với một thái độ khăng khăng mù quáng. Tôi chỉ thực sự tỉnh táo trở lại khi bố tôi đọc bản luận tội.
Thay hình đổi dạng vì chiếc áo đỏ, không hiền lành và cũng không có vẻ yêu thương, mồm bố tôi phun ra những câu tràng giang đại hải, như thể phun ra những con rắn độc. Và tôi hiểu là ông yêu cầu, nhân danh xã hội, xử tử hình bị cáo, và thậm chí yêu cầu cắt cổ y. Đúng là ông chỉ nói: ‘Cái đầu ấy phải rơi’. Nhưng, xét cho cùng, chẳng khác nhau là mấy. Và quả là như thế, vì ông đã ‘được’ cái đầu của bị cáo. Chỉ có điều là không phải ông làm cái công việc đó. Còn tôi, người theo dõi vụ án cho đến khi kết thúc, một cách tuyệt đối, với kẻ khốn khổ ấy, tôi có một tình cảm mật thiết và vô cùng sâu xa mà cha tôi không hề có bao giờ. Theo thủ tục, ông phải dự cái mà người ta gọi một cách lịch sự là ‘những phút cuối cùng’, nhưng đúng ra phải nói đó là hành vi giết người nhơ nhớp nhất.
Từ ngày đó, tôi chỉ có thể nhìn cuốn sách chỉ nam về đường sắt một cách tởm lợm. Từ ngày đó, tôi kinh hãi theo dõi pháp luật, theo dõi những vụ xử tử hình, những vụ hành quyết, và choáng váng, tôi nhận thấy rằng bố tôi nhiều lần dự việc giết người và chính những ngày đó, ông dậy rất sớm. Đúng, trong những trường hợp ấy, ông để đồng hồ báo thức. Tôi không dám nói gì với mẹ tôi, nhưng tôi quan sát bà kỹ hơn và tôi hiểu giữa cha tôi và mẹ tôi không còn có gì nữa và mẹ tôi sống một cuộc sống thoát tục. Cái đó giúp tôi hiểu không có gì để tha thứ cho bà cả, vì suốt cuộc đời cho tới khi lấy chồng, mẹ tôi vẫn nghèo khổ và nghèo khổ đã tập cho bà thói quen nhẫn nhục.
Chắc hẳn anh chờ tôi nói là tôi ra đi ngay. Không, tôi đã ở lại trong nhiều tháng, đến gần một năm. Nhưng tôi nhức nhối trong tim. Một buổi tối, bố tôi hỏi chiếc đồng hồ báo thức vì ông phải dậy sớm. Cả đêm hôm ấy, tôi không ngủ. Hôm sau, khi ông trở về nhà thì tôi đã ra đi. Tôi xin nói ngay là cha tôi cho tìm tôi, là tôi trở về gặp ông, và không giảng giải gì hết, tôi điềm tĩnh nói với ông là tôi sẽ tự sát nếu ông bắt tôi trở về. Cuối cùng ông chấp nhận vì bản tính ông vốn dịu hiền, giảng giải cho tôi về sự ngu ngốc khi muốn sống để ăn chơi cho thỏa thích (ông hiểu lý do xử sự của tôi là như vậy và tôi không hề cải chính), căn dặn tôi đủ điều, và cố kìm những giọt nước mắt chân thành muốn trào ra. Về sau, nhưng là sau một thời gian khá dài, tôi thường trở về đều đặn thăm mẹ tôi và tôi gặp bố tôi. Tôi tin rằng đối với ông, những quan hệ như vậy là đủ rồi. Tôi không thù oán ông, tôi chỉ hơi buồn trong lòng.
Khi ông mất, tôi đưa mẹ tôi về ở với tôi và chắc hẳn bà vẫn ở với tôi nếu bà còn sống.
Tôi đã nhấn mạnh nhiều phần mở đầu này vì quả là nó mở đầu cho mọi chuyện. Bây giờ tôi kể nhanh hơn. Tôi nếm mùi đói khổ lúc mười tám tuổi, sau khi ra khỏi cảnh sung túc. Tôi làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Tôi thành công khá dễ dàng. Nhưng cái làm tôi lưu tâm, là việc kết án tử hình. Tôi muốn làm sáng tỏ vấn đề người tội phạm đã bị xử. Vì vậy tôi làm chính trị, như người ta thường nói. Tôi không muốn làm một kẻ mang mầm mống dịch hạch, chỉ có thế thôi. Tôi nghĩ cái xã hội tôi đang sống là xã hội dựa trên sự kết án tử hình, và bằng cách chống lại xã hội ấy, tôi chống lại sự giết người. Tôi nghĩ như vậy, những người khác bảo tôi như vậy, và, tóm lại, cái đó chủ yếu là đúng. Vì vậy tôi đến ở với những người tôi hằng yêu mến và không tôi ngớt yêu mến. Tôi ở với họ lâu và không có nước nào ở châu Âu mà tôi không cùng chia sẻ những cuộc đấu tranh. Xin cho qua.
Dĩ nhiên, tôi cũng biết rằng, cả chúng ta nữa, có lúc nào đó, chúng ta cũng tuyên án tử hình. Nhưng người ta bảo tôi một vài cái chết ấy là cần thiết để đi tới một thế giới trong đó người ta không giết chết một ai nữa. Điều đó đúng một cách nào đó, nhưng dẫu sao, có lẽ tôi cũng không thể tin chắc vào loại chân lý ấy. Có điều chắc chắn, là tôi ngập ngừng. Nhưng tôi nghĩ tới người tội phạm, và có thể vẫn ngập ngừng như thế. Cho tới ngày tôi chứng kiến một vụ hành quyết (ở Hunggari), và cơn choáng váng đã từng xâm chiếm đứa trẻ là tôi ngày trước, đến lúc ấy, đã làm mờ cặp mắt người lớn của tôi.
Anh chưa bao giờ nhìn thấy người ta bắn một con người phải không? Chắc hẳn là không, và thường người đến dự phải có giấy mời và được lựa chọn từ trước. Kết quả là anh chỉ dừng lại ở tranh ảnh và sách vở. Một giải vải bịt mắt, một cây cọc, và mấy người lính xa xa. Không, không phải thế! Anh có biết là trái lại, phân đội súng trường chỉ đứng cách người bắn có một mét rưỡi không? Anh có biết là giá người này bước lên hai bước thì ngực đụng phải những khẩu súng kia không? Anh có biết là cách một quãng ngắn như vậy, những tay súng tập trung phát đạn vào vùng tim người bị bắn và cả bọn chúng, với những viên đạn to tướng, chúng khoét rộng một cái lỗ bỏ được cả nắm tay vào trong đó không? Không, anh không biết những điều ấy vì đó là những chi tiết người ta không nói tới. Giấc ngủ của con người thiêng liêng hơn cuộc sống đối với những người mang mầm mống dịch hạch. Không được ngăn cản giấc ngủ của những con người trung hậu. Phải là bất nhã mới hành động như vậy còn nhã nhặn thì không, ai cũng hiểu điều đó. Dư vị của sự bất nhã ấy vẫn đọng lại trong miệng tôi, tôi không sao dứt bỏ được.
Lúc đó, tôi hiểu rằng ít ra, trong những năm tháng dằng dặc ấy tôi vẫn là một kẻ mang mầm mống dịch hạch tuy một mực đinh ninh là chính mình chống lại dịch hạch. Tôi biết mình đã gián tiếp đồng tình với cái chết của hàng nghìn con người, thậm chí đã gây nên chết chóc vì công nhận là tốt những hành vi và nguyên tắc tất yếu đem lại cái chết. Những người khác thì không bối rối vì cái đó, hay chí ít không bao giờ bộc phát nói ra. Còn tôi, tôi thấy cổ họng bị nghẹn lại. Tôi cùng sống với họ, nhưng tôi vẫn một mình, cô đơn. Khi tôi nói lên nỗi lòng băn khoăn của mình, họ bảo tôi phải nghĩ tới cái “trong cuộc” và họ đưa ra những lý lẽ thường rất hùng hồn để buộc tôi phải nuốt cái tôi không sao nuốt nổi. Nhưng tôi đáp lại là trong những trường hợp ấy, những kẻ quyền quý, những vị mặc áo đỏ và mang mầm mống dịch hạch cũng có những lý lẽ tuyệt vời? và trong khi chấp nhận những lý lẽ không thể chối cãi và những nhu cầu của những con người bé nhỏ mang dịch bệnh, tôi cũng không thể bác bỏ lý lẽ của những kẻ quyền cao chức trọng. Họ lưu ý tôi rằng muốn biện hộ cho những kẻ mặc áo đỏ thì cách tốt nhất là để cho họ cái quyền độc tôn kết án. Nhưng lúc đó, tôi nghĩ bụng nếu đã nhượng bộ một lần thì không có lý do gì để dừng lại nữa. Tôi thấy hình như lịch sử đã biện hộ cho tôi: ngày nay, người ta đua nhau chém giết. Tất cả bọn họ đều điên cuồng chém giết, và họ không sao làm khác.
Dẫu sao, cái tôi băn khoăn cũng không phải là lý lẽ, mà chính là câu chuyện người tội phạm bị án tử hình, cái câu chuyện bẩn thỉu trong đó những cái mồm bẩn thỉu nhiễm dịch hạch tuyên bố với một người đang bị xiềng xích là anh ta sẽ chết, và quả thật đã làm mọi việc cho anh ta chết, sau biết bao đêm hấp hối, hai mắt trân trân, chờ đợi cái chết. Cái tôi băn khoăn là cái lỗ thủng trong lồng ngực. Tôi tự bảo mình, trong lúc chờ đợi, và ít ra cũng cho riêng mình, là tôi sẽ không bao giờ biện hộ, dù chỉ một lần, anh nghe không, cho cảnh chém giết kinh tởm ấy. Vâng, tôi đã chọn sự mù quáng khăng khăng ấy trong lúc chờ tìm xem một cách sáng rõ hơn.
Từ ấy, tôi vẫn không thay đổi. Từ lâu, tôi hổ thẹn, hổ thẹn đến chết đi được, vì đã từng làm một đứa giết người, dù là từ xa, dù là với thiện chí. Cùng với thời gian, tôi chỉ nhận thấy rằng ngày nay, ngay cả những kẻ tốt hơn những người khác cũng không tự ngăn cản được mình chém giết hay ngăn cản kẻ khác giết, vì đấy là lôgich cuộc sống của họ và vì trên đời này không thể làm một cử chỉ nào mà lại không có nguy cơ gây nên cái chết. Vâng, tôi tiếp tục thấy hổ thẹn - tôi hiểu điều đó - là tất cả chúng ta đều ở trong tình trạng dịch hạch và tôi không còn được yên ổn nữa. Ngày nay, tôi vẫn còn tìm kiếm sự yên ổn ấy bằng cách cố gắng tìm hiểu mọi người và cố gắng không làm kẻ tử thù đối với một ai hết. Tôi chỉ biết mình phải làm điều cần làm để không còn là một người mang mầm mống dịch hạch nữa, và chỉ có như thế mới có thể làm chúng ta hy vọng sự yên ổn, hoặc nếu không được yên ổn nữa, thì cũng một cái chết tử tế. Chính có như thế mới có thể