← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 1 CON QUỶ SÁT NHÂN MẮC CHỨNG ÁI NHI

Quận Kootenai nằm ở tiểu bang Idaho miền Tây Bắc nước Mỹ, nơi đây có một thị trấn nhỏ tên là Edward. Trấn này nằm kề núi liền sông, phong cảnh vô cùng xinh đẹp. Bốn bề của trấn đều nhìn ra núi, trong trấn còn có một cái hồ lớn. Nước hộ trong vắt, thủy sản phong phú nên hằng năm đều có rất đông du khách tới đây bơi lội, câu cá. Mặc dù phong cảnh thiên nhiên nơi đây vô cùng xinh đẹp, song cũng bởi thuộc khu vực này nên nơi đây không có đông người dân sinh sống lâu dài. Dân trong trấn hầu như đều quen biết lẫn nhau, quan hệ hàng xóm láng giềng rất tốt, vì thế rất hiếm khi xảy ra các vụ án hình sự, bình yên, an lạc chính là phong cách sống của vùng này, nhưng dạo gần đây, tất cả mọi thứ đã thay đổi.

Cảnh sát quận Kootenai nhận được một cuộc điện thoại báo án vô cùng kì lạ, người báo án là Robert Linsworth, một người dân thường trú ở địa phương này. Trong cuộc gọi điện báo án, Robert nói với cảnh sát rằng khi anh ta đi ngang qua nhà hàng xóm thì thấy trên cửa nhà đó có vết máu. Robert không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vì thế cũng không dám đường đột xông vào trong nhà để xem xét tình hình, nhưng anh ta rất lo lắng cho an nguy của hàng xóm, vì vậy mới gọi điện báo cảnh sát.

Sau khi nhận được điện thoại báo án, cảnh sát quận Kootenai đã ngay lập tức phái đội cảnh sát tuần tra đi tới địa điểm xảy ra sự vụ để xem xét tình hình. Trong lúc đi đến hiện trường, cảnh sát đã điều tra và biết được rằng căn nhà đó đứng tên Brenda Groene. Cô ấy sống cùng bạn trai là Mark McKenzie và ba đứa trẻ vị thành niên (Slade 13 tuổi, Dylan 9 tuổi và Shasta 8 tuổi). Viên cảnh sát tuần tra đi tới hiện trường lúc đó rất thân quen với gia đình Brenda, hầu như ngày nào anh ấy cũng đi qua nhà họ. Cảnh sát tuần tra tới hiện trường bằng tốc độ nhanh nhất. Sauk hi đến gần căn nhà, anh đã lập tức phát giác ra điểm khác thường.

Bên trong căn nhà vô cùng yên tĩnh, kiểu yên tĩnh này nghĩa là đã có chuyện chẳng lành. Sau khi nhìn thấy vết máu đỏ thắm trên cánh cửa, cảnh sát tuần tra lập tức rút súng ra, kiểm tra kĩ càng xung quanh căn nhà. Cửa chính của căn nhà khóa chặt, trên cánh cửa và mặt đất phía trước cửa có vết máu lớn đã khô, cửa sổ xung quanh căn nhà vẫn còn nguyên vẹn, không có dấu vết bị lực mạnh tác động. Đến khi cảnh sát vòng ra phía sau căn nhà, anh ấy phát hiện cửa sau của căn nhà không hề đóng. Viên cảnh sát tuần tra chú ý thấy, phần tay nắm bên ngoài và xung quanh tay nắm của cửa sau căn nhà cũng có vết máu. Qua cánh cửa sau khép hờ này, cảnh sát tuần tra có thể thấy được thấp thoáng tình huống bên trong căn nhà.

Giây phút này, tâm trạng bất an trong lòng viên cảnh sát tuần tra lại càng tăng vọt, để chắc chắn, anh lập tức báo cáo lên cấp trên về tình huống tại hiện trường và xin chi viện, thế là sở cảnh sát lại phái thêm một đội nữa đến chi viện. Khi đội chi viện tới nơi, điều tra viên mới cẩn trọng từng bước đi vào trong căn nhà từ cửa sau. Vừa mới đi qua góc nhà, điều tra viên đã trông thấy một người đàn ông nằm sấp, úp mặt trên nền nhà. Chỉ nhìn từ xa thôi, điều tra viên đã khẳng định người đàn ông này đã thiệt mạng. Phần đầu của anh ta bị dập nát, máu chảy lênh láng trên sàn nhà. Điều kì lạ hơn là hai tay người đàn ông còn bắt chéo sau lưng, nơi cổ tay bắt chéo vào nhau có dán băng dính.

Đi qua thi thể của nạn nhân nam giới này, điều tra viên lại nhìn thấy một nạn nhân là nữ giới, đầu của cô ấy đặt dưới chân trái của nạn nhân nam, thi thể được nằm ở lối đi vào gian phòng tiếp theo, tạo thành một góc vuông 90 0 với thi thể trước. Nạn nhân nữ này cũng nằm sấp trên nền nhà, phần đầu của cô ấy cũng bị đập nát. Phía sau thi thể của nạn nhân nữ là thi thể của một nạn nhân nam khác. Đầu của thi thể này kề bên chân phải của nạn nhân nữ, thi thể ở trong gian phòng thứ hai, cũng tạo thành một góc vuông 90 0 với thi thể của nạn nhân nữ, đồng thời song song với thi thể của nạn nhân nam ở trong gian phòng đầu tiên.

Sau khi xác nhận có người tử vong, cảnh sát ngay lập tức dùng dây cảnh báo màu vàng phong tỏa căn nhà lại, bảo vệ nghiêm ngặt hiện trường vụ án. Sau khi kiểm tra sơ bộ hiện trường gây án, điều tra viên phán đoán ra thân phận của ba nạn nhân, họ chính là Mark McKenzie, Brenda Groene cùng con trai lớn của cô ấy - Slade Groene. Trong căn nhà khắp nơi đều là vết máu, hầu như phòng nào, mặt tường nào cũng có vết máu bắng tung tóe. Những vết máu đặc trưng này thông thường chỉ xuất hiện ở những hiện trường phạm tội bạo lực cực đoan, điều này cũng có nghĩa là trước khi chết, nạn nhân đã phải chịu đựng sự tra tấn tàn bạo.

Điều tra viên đã kiểm tra kĩ lưỡng từng gian phòng trong căn nhà xảy ra án mạng, họ không tìm thấy thi thể của Dylan và Shasta. Mặc dù trong phòng của Dylan và Shasta cũng có rất nhiều vết máu, trên gối của hai đứa trẻ cũng có đầy vết máu loang lỗ, song, cảnh sát vẫn không muốn tin rằng hai đứa bé chưa đầy 10 tuổi này đã mất mạng. Họ hi vọng rằng hai đứa bé có thể trốn thoát khỏi kiếp nạn này, mong sao hai đứa nhỏ có thể trốn được tên sát thủ để chạy thoát ra khỏi căn nhà, nấp trong rặng cây phía sau căn nhà.

Trước mắt, cảnh sát vừa phải tìm ra tên hung thủ thực sự đã sát hại ba nạn nhân, vừa phải nhanh chóng kiếm được tung tích của Dylan và Shasta. Phía cảnh sát lập tức điều một bộ phận cảnh sát tuần tra triển khai tìm kiếm, nhưng lần hành động này không hề phát hiện được dấu vết của hai đứa trẻ bị mất tích. Sắc trời dần tối, bọn họ vẫn chưa có bấy cứ manh mối nào, trong tình thế như vậy, cảnh sát quyết định tìm kiếm sự trợ giúp từ Cục Điều tra Liên bang (FBI). Sau khi nắm được thông tin vụ án, FBI đã lập tức phái chuyên gia tâm lí tội phạm Donald Robinson đến hỗ trợ cảnh sát điều tra phá án.

Thời điểm Donald tham gia vào công cuộc điều tra đã ngay lập tức đưa ra một khả năng: Liệu hai đứa trẻ bị mất tích có ở với bố đẻ của chúng hay không? Cảnh sát nhanh chóng liên hệ được với bố đẻ của hai đứa trẻ bị mất tích là Steven Growney, Steven vô cùng đau đớn, nhưng đồng thời cũng nói rằng mình không biết gì về tung tích của hai đứa trẻ, thế là họ đành chuyển hướng sang hỏi thăm bạn bè thân thiết của nạn nhân, hi vọng có thể tìm được manh mối từ mấy người này. Cảnh sát đã điều tra tất cả những nơi có thể, song, hai đứa trẻ vẫn bặt vô âm tín. Bây giờ bọn họ đã có lí do để tin rằng, hai đứa trẻ có thể đã bị bắt cóc hoặc bị sát hại.

Cảnh sát ngay lập tức ra thông báo, dán giấy tìm người, huy động người dân giúp đỡ tìm kiếm hai đứa trẻ bị mất tích. Tất cả người dân quận Kootenai đều tham gia tìm khắp hang cùng ngõ hẻm, dốc sức kiếm hai đứa trẻ, nhưng công cuộc tìm kiếm trên diện rộng này vẫn không có được bất cứ thu hoạch nào. Cùng lúc đó, các nhân viên khám nghiệm hiện trường vẫn đang kiểm tra sát sao hiện trường vụ án, họ phải tìm ra manh mối giúp cảnh sát phá án từ hiện trường, cùng những bằng chứng thép để cáo buộc nghi phạm. Mặc dù hiện trường vụ án vô cùng đẫm máu, nhưng hung thủ lại vô cùng cẩn thận, xóa sạch hết mọi manh mối quan trọng. Tới tận lúc quy trình khám nghiệm hiện trường kết thúc, cảnh sát vẫn chưa có được bất cứ manh mối nào.

Trong tình hình đó, kể cả những cảnh sát và chuyên gia tâm lí tội phạm lão luyện với kinh nghiệm dày dạn cũng không còn cách nào. Tội phạm vẫn đang chạy trốn, hai đứa trẻ mất tích vẫn chưa tìm thấy, điều này khiến cho người dân nơi đây vô cùng hoang mang, sợ hãi. Không thứ gì có thể xua tan được cảm xúc này, trừ phi cảnh sát có thể tìm ra được tên hung thủ gây ra tất cả mọi chuyện.

Thực tế, trong đa số các vụ án mạng, hung thủ rất có khả năng sẽ để lại chứng cứ then chốt ở hiện trường gây án. Thí dụ, có thể hung thủ sẽ lưu lại dấu vân tay trên cửa sổ hoặc trên vật dụng nào đó ở hiện trường, cũng có thể sẽ để lại chứng cứ có vết máu hoặc dấu giày, dấu chân hoặc DNA ở hiện trường gây án. Ngoài ra, đa số án mạng đều có người chứng kiến, họ cũng là nhân chứng quan trọng để giúp cảnh sát phá án. Song, trong vụ án này, cho đến nay cảnh sát vẫn không có được bất cứ manh mối nào, đây cũng là nguyên do khiến vụ án không có tiến triển.

Trong tình huống không có bất cứ một manh mối nào như vậy, Donald kiến nghị rằng có thể bắt đầu điều tra từ chính nạn nhân. Có điều công cuộc điều tra này khá mất thời gian, mà việc điều tra vụ án nghiêm trọng lại cần càng nhanh càng tốt. Phải biết rằng, càng để lâu thì xác suất trốn thoát khỏi lưới pháp luật của hung thủ càng lớn. Để có thể bắt được hung thủ về chịu án, cảnh sát đã huy động một lực lượng hùng hậu để tham gia vào công tác điều tra, hi vọng có thể tìm ra manh mối để phá án.

Qua điều tra, cảnh sát phát hiện, Brenda và Mark đã sống chung được gần bảy năm, theo như hàng xóm xung quanh và những người bạn thân thiết phản ánh, hai người chung sống với nhau rất hòa thuận, mặc dù chưa kết hôn nhưng họ rất hạnh phúc. Mark là công nhân chế tạo của một công xưởng, hằng ngày đi làm ở Spock. Từ sau khi chung sống với Mark, Brenda đã xin nghỉ việc để ở nhà làm nội trợ. Mark là người có tính cách đôn hậu, anh rất yêu thương ba đứa trẻ, mặc dù chúng không phải là con đẻ nhưng anh vẫn chăm sóc chu đáo cho cả ba.

Nói chung, một gia đình giống như nhà của Mark sẽ không gây thù kết oán với ai, huống hồ Mark còn là một người đàn ông cường tráng, sức dài vai rộng, nhưng các nhân viên điều tra cho rằng, mức độ đẫm máu của hiện trường vụ án cho thấy giữa hung thủ và nạn nhân chắc chắn phải tồn tại mối thù hận sâu sắc nào đó. Donald cũng đồng ý với nhận định này, ông cho rằng, ngoại trừ việc có mối thù sâu sắc với nạn nhân ra, hung thủ còn rất quen thuộc với gia đình nạn nhân, nếu không hắn không thể gây ra một vụ án động trời, tàn bạo, ác liệt, đẫm máu đến như thế trong thầm lặng, không ai hay biết gì.

Donald còn đưa ra một giả thiết khác, nếu mục đích của hung thủ là bắt cóc hai đứa trẻ, vậy thì tại sao hắn không tiến hành bắt cóc ngay trên đường bọn trẻ đi học, hoặc nơi nào có thể tránh tiếp xúc với cha mẹ chúng? Hung thủ không làm như vậy vì rất có khả năng hắn đã giết mẹ, bố dượng và anh trai của bọn trẻ ngay trước mặt chúng. Động cơ khiến hung thủ làm như vậy có thể là để trả thù cả gia đình nạn nhân, mà điều này cho thấy mối quan hệ giữa hung thủ và nạn nhân không hề hời hợt.

Giả thiết của Donald rất thuyết phục, cảnh sát địa phương đã nhanh chóng hành động, bắt đầu tiến hành điều tra khai thác thông tin trên diện rộng. Lần này, trọng điểm điều tra của cảnh sát nhắm vào mối quan hệ giữa nạn nhân Brenda và chồng trước. Thực tế, khi không có được bằng chứng xác thực, đúng là cảnh sát chỉ có thể thông qua việc điều tra khai thác thông tin từ người có liên quan để tìm ra bước đột phá. Trước mắt, cảnh sát hoài nghi chồng cũ của nạn nhân Brenda có thể là nghi phạm, mà kết quả điều tra thu được sau bước đầu lấy lời khai của mọi người cũng cho thấy suy đoán của cảnh sát là đúng. Hầu như mọi người trong khu này đều nói rằng mối quan hệ giữa nạn nhân Brenda và chồng trước Steven vô cùng tệ.

Mặc dù cảnh sát không thể chứng minh Steven chính là hung thủ giết người, nhưng họ có lí do để giám sát Steven. Theo diễn biến của cuộc điều tra, Steven cũng thừa nhận với cảnh sát rằng vài ngày trước khi xảy ra vụ án, anh ta từng tranh cãi kịch liệt với nạn nhân Brenda về chuyện con cái, nhưng anh ta kiên quyế cho rằng vụ án này không hề có liên quan đến mình. Tiếp đó, Steven lại tìm đến sự trợ giúp của cánh truyền thông, anh ta muốn thông qua truyền thông để nhắn tới hung thủ, cầu xin đối phương hãy tha cho hai đứa con tội nghiệp của anh ta. Rất nhiều người đã thấy Steven khóc lóc cầu xin trên truyền hình, nhưng mọi người đều cảm thấy vô cùng mờ mịt, bởi vì Steven đã nói một câu như thế này: “Chúng không liên quan gì tới chuyện này, xin hãy tha cho chúng”.

Mọi người đều thấy mịt mờ, hoang mang, không biết “chuyện này” mà Steven nói đến rốt cuộc là gì. Với áp lực từ nhiều phía, Steven đã đồng ý tiếp nhận việc điều tra phát hiện nói dối, nhưng anh ta không vượt qua được cuộc điều tra này. Ngoài ra, canh sát còn phát hiện, khi nhân viên kiểm tra nói dối hỏi anh ta có biết tung tích của bọn trẻ hay không, mạch đập của Steven tăng lên vùn vụt. Sự thay đổi này nghĩa là rất có thể Steven biết tung tích của bọn trẻ, nhưng anh ta vẫn luôn nói dối. Hơn nữa, Steven cũng không thể cung cấp cho cảnh sát bằng chứng ngoại phạm rõ ràng, mặc dù anh ta vẫn luôn nhấn mạnh rằng khi vụ án xảy ra, anh ta đang ở trong nhà một mình, không đi đâu hết, nhưng anh ta không có nhân chứng hoặc vật chứng nào, vì thế cảnh sát không thể tin vào mấy câu nói qua loa lấy lệ ấy được.

Để có thể thoát khỏi mối hiềm nghi, Steven lại một lần nữa công khai trên truyền thông rằng, cảnh sát có thể điều tra CCTV và nhật kí cuộc gọi để xác định ngày xảy ra vụ án anh ta vẫn luôn ở trong nhà. Ngoài ra, trong cuộc trò chuyện này, Steven còn nhắc đến hai đứa con đã thành niên khác của mình và Brenda là Jess và Vince. Trong chương trình phỏng vấn đó, Steven không ngừng kể khổ. Anh ta cho biết suốt bao nhiêu năm qua, hai đứa con này vẫn luôn phải chịu sự đối xử bất công, không những không được hưởng tình yêu thương của người mẹ như những đứa trẻ khác, còn thường xuyên bị tố là tàng trữ ma túy.

Sau khi chương trình được phát sóng, cảnh sát đã ngay lập tức ý thức được một vấn đề quan trọng, liệu Jess và Vince có tham gia vào vụ án này không. Qua điều tra, cảnh sát phát hiện Jess có bằng chứng ngoại phạm xác thực, bởi vì lúc xảy ra vụ án, Jess đang ở trong tù. Còn về Vince, cảnh sát phát hiện một tuần trước khi xảy ra vụ án, cậu ta đã chuyển đi, nhưng điều này không thể chứng minh rằng cậu ta không tham gia vào vụ án. Trong quá trình điều tra phá án, cảnh sát cũng nhận được hai cuộc điện thoại tố cáo nặc danh, người tố cáo chỉ đích danh Vince, nói rằng cậu ta có liên quan đến vụ án này. Hiện nay, cảnh sát cần phải làm rõ động cơ giết người của hung thủ, chỉ khi nào có thể xác định chắc chắn động cơ giết người của hung thủ thì mới có thể suy ra được quá trình gây án một cách hợp lí, đồng thời xác định được kẻ tình nghi.

Cùng lúc với việc tìm ra động cơ gây án của hung thủ, cảnh sát lại tỉ mỉ điều tra những người có mối quan hệ qua lại về kinh tế với nạn nhân, và những người ra vào ngôi nhà của nạn nhân vài tuần trước khi xảy ra vụ án. Trọng điểm của lần điều tra này rơi vào vài người hàng xóm được mời đến nhà nạn nhân tham gia party trước khi vụ án xảy ra một ngày. Song song với việc tiến hành điều tra, cuối cùng thì cảnh sát cũng tìm thấy được một dấu vân tay ở hiện trường vụ án, qua giám định cho thấy, dấu vân tay thuộc về một nam thanh niên tên là Gerry Youngwood, anh ta cũng tham gia bữa tiệc. Theo đó, cảnh sát lại phát hiện ra người này có tiền án. Theo lời Jess - con trai của Brenda, người này còn nợ mẹ cậu ta và Mark 2000 USD.

Trước mắt, cảnh sát mong rằng có thể tìm ra manh mối từ Gerry, cho dù không thể phá được vụ thảm án thì họ cũng hi vọng có thể tìm được tung tích của hai đứa trẻ từ người đàn ông này. Song, khi cảnh sát tìm kiếm hành tung của Gerry, điều tra viên lại phát hiện người này đã mất tích một cách bí ẩn. Để nhanh chóng phá án, cảnh sát quyết định truy tìm theo số điện thoại của Gerry, lại phát hiện thêm lúc đi nghỉ dưỡng ở Boise, Gerry đã từng gọi điện cho gia đình nạn nhân. Bây giờ, điều duy nhất cảnh sát có thể xác định là cho dù chân tướng sự việc ra sao, chắc chắn Gerry biết về vụ án này, mà anh ta đang cố lẩn tránh để không phải tiếp xúc với cảnh sát.

Chính vào lúc cảnh sát đang cố gắng truy tìm, đột nhiên Gerry lại xuất hiện ở sở cảnh sát. Cảnh sát đã ngay lập tức thẩm vấn Gerry, nhưng từ đầu đến cuối anh ta vẫn không thừa nhận mình có liên quan đến vụ án. Gerry nói mình không biết tung tích của hai đứa trẻ, để tự chứng minh, Gerry còn sẵn sàng tiếp nhận kiểm tra phát hiện nói dối. Anh ta đã thông qua. Sau cuộc kiểm tra, Gerry tạm thời được cảnh sát gạt tên ra khỏi danh sách kẻ tình nghi.

48 tiếng sau khi xảy ra vụ án, cảnh sát có thêm một manh mối từ đường dây nóng. Người cung cấp manh mối cho biết, có thể hung thủ là một nhóm người lái xe máy. Báo cáo khám nghiệm tử thi ra lò, lại càng thêm một bước xác nhận cho manh mối này, nhân viên khám nghiệm tử thi cho rằng: thứ mà hung thủ sử dụng khi gây án có thể là một loại búa nhổ đinh có một đầu xẻ đôi, nhưng loại hung khí này lớn hơn so với búa nhổ đinh thông dụng trong gia đình. Cộng thêm việc nạn nhân Brenda vô cùng đam mê về xe máy, vì vậy khi đó một số điều tra viên tin rằng người gây án có liên quan đến những người đi xe máy này. Song, rất nhanh sau đó, khả năng này đã bị loại bỏ.

Khi đó, cảnh sát lại nắm được chứng cứ mới. Qua giám định vết máu, họ có thể khẳng định hiện trường vụ án không hề có vết máu nào của hai đứa trẻ bị mất tích, điều này chứng tỏ hai đứa trẻ vẫn còn sống. Đồng thời, giám định vết máu đã chứng thực rằng, hầu hết vết máu trong phòng đều là của Slade. Kết quả này làm cho cảnh sát vô cùng kinh hãi, thật khó để tưởng tượng ra cảnh tượng Slade chảy đầy máu đi tìm mẹ khắp căn phòng, cuối cùng gục ngã luôn xuống thi thể của mẹ. Nhưng bây giờ chưa phải là lúc để đau buồn, sau khi xác định hai đứa trẻ không bị giết tại hiện trường gây án, cảnh sát quyết định tìm kiếm hai đứa trẻ mất tích trên phạm vi toàn quốc.

Một chủ nhà hàng ở Bonners đã cung cấp manh mối cho cảnh sát. Chủ nhà hàng này cho biết, cô ấy từng thấy một người đàn ông cao lớn mang theo hai đứa trẻ lên một chiếc Jeep với những hành động kì lạ. Cảnh sát đã lập tức phong tỏa mọi con đường xung quanh Bonners, điều tra lần lượt từng chiếc xe đã đi qua khu vực này. Nhưng lần hành động này vô ích, chủ nhà hàng kia đã nhìn nhầm người. Bốn ngày sau khi xảy ra vụ án, cảnh sát lại có được kết quả xét nghiệm mới. Qua xét nghiệm độc tố phát hiện, nạn nhân Brenda và Mark trước khi chết đã hít một lượng lớn cần sa.

Kết quả xét nghiệm này một lần nữa cung cấp cho cảnh sát một khả năng, liệu có phải là một nhóm tội phạm gây ra hay không? Bởi vì “con nghiện” không thanh toán đúng hạn nên mới giết người diệt khẩu? Phải biết rằng, trong các hồ sơ vụ án, có nhiều vụ do một nhóm đầu trọc cầm súng xông vào nhà dân để hăm dọa, cướp bóc, cảnh sát bắt buộc phải suy xét đến khả năng này. Phía cảnh sát lập tức tìm vài người cung cấp thông tin, hi vọng có thể tìm hiểu được một số thông tin nội bộ. Nhưng công cuộc điều tra này vô cùng tốn thời gian, thậm chí đến tận vài tuần sau khi xảy ra vụ việc, vụ án này vẫn chưa có bất cứ tiến triển gì.

Cảnh sát có rất nhiều câu hỏi vẫn chưa có lời giải: Tại sao hung thủ không giết hết tất cả mọi người, tại sao lại bắt có hai đứa trẻ đi, mục đích của chúng khi làm như vậy là gì, để đòi tiền chuộc hay là đem bán chúng? Cảnh sát hiểu rõ hai đứa trẻ bị mất tích chính là mấu chốt để phá được vụ án này. Nếu có thể tìm được chúng thì vụ án sẽ được sáng tỏ. Mặc dù cảnh sát vô cùng cố gắng muốn phá được án, họ vẫn không có được bất cứ manh mối nào.

Sau đó, có một nhân chứng đến báo án với cảnh sát. Nhân chứng là một nhân viên phục vụ, cô ấy nói với cảnh sát rằng sau giờ ăn tối không lâu, cô ấy để ý có hai người vào nhà hàng, trong đó có một bé gái mặc áo màu đỏ vẫn luôn cúi đầu ngồi trên ghế, hai tay cô bé đặt chéo ở trên đùi, không dám cựa quậy. Nhân viên phục vụ liền cảm thấy có gì đó bất ổn, sau khi quan sát cẩn thận kĩ lưỡng, cô ấy nhận ra cô bé kia trông rất giống đứa trẻ bị mất tích mà cảnh sát đang tìm kiếm. Để xác nhận xem cô bé đó có phải là Shasta không, nhân viên phục vụ còn cố tình đi tới, hỏi người đàn ông ngồi đối diện cô bé kia xem có cần gọi món hay không. Người đàn ông gọi món xong, nhân viên phục vụ liền lẻn đi ra từ cửa sau rồi gọi điện báo cảnh sát.

Cảnh sát ập đến một cách nhanh nhất có thể và bắt giữ nghi phạm, Shasta Groene đã được giải cứu. Sau khi nghi phạm bị đưa đến sở cảnh sát, cảnh sát đã nhanh chóng xác định được danh tính của người này, hắn tên là Joseph Edward Duncan, năm nay 42 tuổi, đến từ Fargo, Bắc Dakota. Tên này đã phạm tội nhiều lần, từng phạm tội xâm hại tình dục cấp độ 3 có nghĩa là rất có thể người này từng nhiều lần xâm hại người khác.

Thực tế, lần đầu tiên Joseph bị kết án quấy rối tình dục là vào năm 1978, khi đó hắn mới 15 tuổi. Hai năm sau, khi đang bị giam giữ ở nhà tù Kansas, Joseph lại quấy rối một thanh niên, đồng thời được chẩn đoán là một người bị lệch lạc tình dục. Sau một năm làm các bài trắc nghiệm đánh giá tâm lí và công tác chữa trị có liên quan, Joseph gần như đã khỏi hẳn, chí ít là nhìn biểu hiện bên ngoài thì hắn ta đã hoàn toàn thay đổi. Mãi đến năm 2004, Joseph vẫn chứng nào tật nấy, quấy rối tình dục một bé trai 6 tuổi ở quảng trường bên hồ Detroit, Minnesota. Sau khi nộp phạt, Joseph liền trốn đi nơi khác sinh sống.

Cảnh sát còn phát hiện, nội dung bài đăng cuối cùng trên blog của Joseph cho thấy đặc điểm của chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội một cách rõ rệt. Trong bài đăng đó, Joseph kêu gào rằng hắn ta phải tấn công lại xã hội. Từ tất cả những điều trên, rất có thể Joseph chính là tên hung thủ giết người mà cảnh sát vất vả tìm kiếm suốt thời gian qua. Bây giờ, cảnh sát hi vọng có được tung tích của Dylan Groene, nhưng Joseph từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào. Để có thể nhanh chóng tìm ra Dylan, cảnh sát quyết định lục soát nhà và xe của Joseph. Trong xe của Joseph, cảnh sát tìm thấy một khẩu súng bắn đạn ghém (shotgun), một máy tính xách tay và một thiết bị định vị GPS.

Trong máy tính xách tay có một ổ cứng dung lượng 4GB. Trong ổ cứng có chứa rất nhiều ảnh và video clip của hắn khi ở trong tù, nhưng những thứ này đều không có liên quan gì đến Dylan. Cảnh sát không tìm thấy hung khí giết người, cũng không tìm thấy bất cứ manh mối nào để tìm ra Dylan. Sau khi loại trừ tất cả các manh mối, cảnh sát đành phải đặt niềm hi vọng cuối cùng vào em gái của Dylan là Shasta. Cảnh sát sắp xếp cho chuyên gia tâm lí học trò chuyện với Shasta, họ mong rằng Shasta có thể kể lại toàn bộ câu chuyện.

Trong phòng bệnh của bệnh viện, Shasta kể lại từ đầu đến cuối sự việc. Buổi tối ngày xảy ra vụ án, Shasta vốn đã ngủ say bỗng dưng bị tiếng gào thét đánh thức, sau đó cô bé trông thấy Brenda, Slade và Mark nằm dưới đất, còn Joseph đứng giữa phòng khách, trong tay hắn cầm một khẩu súng. Joseph trói Shasta và Dylan lại, dùng băng dính dán chặt miệng của hai đứa bé, sau đó lôi chúng ra bãi cỏ sau nhà. Shasta nằm trên bãi cỏ tận mắt chứng kiến Joseph lấy một cái búa từ trong bao tải ra rồi đi vào trong nhà.

Sau khi giết chết cả nhà Shasta, Joseph ném hai đứa trẻ vào trong xe rồi lái đến St. Regis ở Montana. Trong một rừng cây cách St. Regis khoảng 40mh, Joseph tìm thấy một khu lều trại vắng vẻ. Hắn ta dựng lều ở đây rồi bắt đầu xâm hại hai đứa trẻ. Sau khi bắt nhốt Shasta và Dylan được sáu tuần, Joseph đưa chúng đến một căn nhà hoang bằng gỗ và tra tấn Dylan một cách dã man. Vài tiếng sau, Joseph nã đạn vào Dylan ngay trước mặt Shasta rồi chôn xác Dylan. Xong xuôi, Joseph còn ra vẻ chân thành nói với Shasta rằng hắn ta sẽ cùng cô bé tận hưởng cuộc đời này, bởi vì cô bé đã khiến hắn biết làm sao để yêu một người.

Ngày hôm sau, cảnh sát sử dụng thiết bị định vị của Joseph để tìm đến nơi Dylan bị sát hại và tìm thấy thi thể đã mục nát của Dylan. Thế rồi, trước tất cả mọi chứng cứ, Joseph đã nhận tội. Sau khi nhận tội, Joseph bắt đầu thuật lại kế hoạch chi tiết mà hắn đã sắp xếp để gây ra vụ án mạng tàn ác này. Joseph nói với cảnh sát rằng, trước khi rời khỏi Bắc Dakota, hắn đã bắt đầu chuẩn bị sẵn hung khú và các trang thiết bị rồi. Đồng thời, vừa chuẩn bị hung khí và trang thiết bị, Joseph cũng vừa đi về hướng Tây dọc theo đường cái để tìm mục tiêu. Sau khi Joseph đến Idaho, hắn đã chú ý đến nhà Groene. Lúc đó Shasta và Dylan đang chơi đùa ở khoảng đất trống trước cửa nhà, Dylan hồng hào đáng yêu đã kích thích ham muốn tình dục của hắn, hắn quyết định sẽ ra tay với gia đình này.

Quyết định xong, Joseph đã mất nguyên một ngày quan sát môi trường, hoàn cảnh xung quanh nhà Groene bằng ống nhòm. Sau đó, Joseph thấy thời cơ đã đến, hắn bịt mặt, đội mũ trùm đầu và đeo găng tay, cầm súng shotgun lẻn vào từ cánh cửa sau không khóa. Lúc đó Brenda đang ngủ ở sofa trong phòng khách. Joseph đánh thức Brenda dậy rồi dùng súng uy hiếp cô ấy, bắt cô ấy gọi Mark vào phòng khách rồi trói Mark lại.

Trong suốt cả quá trình hăm dọa, Joseph vô cùng tinh quái, hắn khiến Mark và Brenda tưởng rằng đây chỉ là một vụ trộm, như vậy Mark và Brenda sẽ không có suy nghĩ quyết phải liều mạng với hắn. Sau khi không chế được tất cả mọi người trong nhà, Joseph đưa Dylan và Shasta ra khỏi nhà, để chắc chắn rằng hai đứa trẻ sẽ không nhìn thấy cảnh người thân bị giết hại, như vậy hai đứa trẻ mới có thể yên lặng để hắn đe dọa và bắt đi. Chuyện xảy ra sau đó đúng như những gì Shasta kể lại với cảnh sát.

Cuối cùng, Joseph bị cáo buộc tội bắt cóc trẻ em và ba tội giết người cấp độ 1 (giết chết Brenda Groene, Mark McKenzi, Slade Groene). Sau đó, chính quyền địa phương lại một lần nữa cáo buộc Joseph tội xâm hại tình dục trẻ em và một tội danh giết người cấp độ 1 khác (giết chết Dylan Groene). Sau khi xét xử, tòa án và bồi thẩm đoàn thống nhất phán Joseph Edward Duncan mức án tử hình, Joseph sẽ bị giam trong tù đợi thi hành án phạt.

Phân tích tâm lí bất thường của tội phạm Đây là một vụ án giết người có âm mưu từ trước vô cùng tàn nhẫn và đẫm máu. Hung thủ giết người Joseph Edwars Duncan là một kẻ tâm lí bất thường điển hình, mặc dù trong quá trình tác giả miêu tả lại vụ án cũng như trong quy trình phá án của cảnh sát không hề miêu tả quá nhiều về tình trạng thê thảm ở hiện trường, nhưng từ cách thức mà hung thủ dùng để giết người và những hành vi sau khi giết người của hắn cũng có thể tưởng tượng ra gia đình kia đã gặp phải kiếp nạn thê thảm, phải chịu hành hạ đến mức độ nào, mà tất cả những điều đó cũng phản ảnh được mức độ tàn nhẫn và biến thái của hung thủ.

Trước khi phân tích tâm lí phạm tội bất thường của hung thủ, đầu tiên chúng ta phải hiểu thế nào là tâm lí bất thường. Thực ra, tâm lí bất thường chính là cách gọi tắt của hiện tượng chủ thể của hành vi có tâm lí và hành vi không được bình thường. Có rất nhiều dạng tâm lí bất thường, nói tóm lại, tâm lí bất thường đôi khi chỉ ở mức nhẹ nhàng, cũng có lúc vô cùng nghiêm trọng.

Hãy nói về Joseph, hung thủ của vụ án giết người này, hắn là một người có tâm lí bất thường ở mức độ vô cùng nghiêm trọng, chúng ta cũng có thể coi Joseph là người mắc chứng ái nhi với tâm lí biến thái một cách cực đoan. Trong phạm trù của tâm lí bất thường, ái nhi là một chứng bệnh tâm lí ở mức độ nghiêm trọng đi ngược lại với quy tắc xã hội, nếu người bệnh mắc chứng bệnh tâm lí này mà không được điều trị đàng hoàng hoặc không chịu tiếp nhận điều trị, dạng tâm lí bất thường này chắc chắn sẽ dẫn lối cho người bệnh bước vào con đường phạm tội.

Hầu hết các trường hợp mắc chứng ái nhi ở mức độ nghiêm trọng sẽ thường xuyên sinh ra ảo tưởng. Trong thế giới ảo tưởng, tâm lí bất thường của người bệnh sẽ được thỏa mãn ở mức cao nhất, mà chính bản thân người bệnh cũng sẽ dần mất phương hướng, rối rắm, hoang mang. Thực tế, những nội dung trong ảo tưởng của người bệnh không thể diễn ra ở thế giới thực, một khi người mắc chứng ái nhi chìm đắm trong thế giới ảo tưởng sẽ dần nảy sinh ra ý nghĩ muốn thực hiện những hành vi trong thế giới ảo tưởng ở ngoài thế giới thực, từ đó dẫn đến bi kịch xảy ra.

Trên thực tế, Joseph đã từng bước trầm luân vào con đường phạm tội như thế. Ban đầu, hắn chỉ phạm những tội quấy rối tình dục ở mức độ nhẹ. Càng ngày, mức độ bất thường trong tâm lí hắn càng sâu sắc hơn, quan niệm về tình dục của Joseph đã có bước ngoặc, khi hắn lần đầu tiên ngang nhiên quấy rối thanh thiếu niên ở nơi công cộng, hắn đã hoàn toàn trở thành một kẻ lệch lạc tình dục cộng thêm cả chứng ái nhi. Sau đó, mặc dù Joseph đã đón nhận trị liệu tâm lí suốt một năm, nhưng thực ra hắn không hề muốn bản thân được chữa khỏi. Để được ra tù, Joseph giả vờ như mình đã khỏi. Thực tế là việc tiếp nhận trị liệu suốt thời gian dài cũng mang lại hiệu quả nhất định, vì thế sau khi ra tù, Joseph không hề tái phạm ngay lập tức, song, tình trạng này không duy trì được bao lâu.

Thời gian dần trôi, tâm lí của Joseph càng biến thái hơn so với trước kia, thế giới ảo tưởng lại hiện ra một lần nữa, hắn càng say đắm với cảnh tượng có trong thế giới ảo tưởng của mình. Khi tâm lí lại biến thái ở một cấp độ mới, tự khắc Joseph cũng sẽ có những hành vi không phù hợp với nhận thức của con người, thí dụ như những hành vi quấy rối tình dục ở mức nghiêm trọng và dâm loạn trẻ em… Hành vi của Joseph chắc chắn sẽ thu về những cái nhìn đầy căm ghét, đầy địch ý từ người dân có tâm lí bình thường, mà bởi vì bị người ta căm ghét nên hắn sinh ra nhân cách chống đối xã hội. Đến khi tâm lí biến thái của Joseph lệch lạc đến cực điểm, trong lòng hắn sẽ chỉ có một suy nghĩ, đó chính là hắn muốn cho cả xã hội biết mình tàn ác đến mức nào, hơn nữa còn phải chắc chắn rằng tất cả những gì hắn làm nhất định có thể gây hại đến xã hội này.

Lúc ấy, Joseph mới nảy sinh ra suy nghĩ đáng sợ là gây ra vụ án vào nhà dân bắt cóc, cưỡng gian và giết người. Bây giờ, Joseph chỉ có hai mục đích, một là làm cho ảo tưởng của mình trở thành hiện thực, hai là trả thù. Trong nhận thức của Joseph, công chúng vẫn luôn nhìn hắn bằng con mắt thù hận, bởi vì hắn là một người bị lệch lạc tình dục. Thực tế, hành vi của hắn quả thực khiến người ta phản cảm và bài xích, vì vậy Joseph muốn bắt công chúng phải trả giá, mà hành vi tàn sát cả gia đình nạn nhân chính là cách để hắn trả thù xã hội.