Chương 5 Vẫn câu chuyện cổ xưa, nặng nề
18. Chiếc vòng kỳ quái
“Vụ án nông dân bị đánh chết” ở Thẩm Trại là vụ án có ảnh hưởng lớn nhất, chấn động cả trong ngoài nước, có tính điển hình nhất trong các vụ án lớn từng xảy ra ở nông thôn Trung Quốc.
Thôn Thẩm Trại thuộc trấn Trung Cương, huyện Phụ Nam, tỉnh An huy là vùng trũng chứa nước nổi tiếng cả nước. Mỗi lần nước sông Hoài lên to, để bảo vệ thành phố Bạng Phụ quan trọng ở hạ du, bảo vệ thành phố than Lưỡng Hoài, bảo vệ đường sắt đi qua, và để bảo vệ cả một giải Giang Tô, Triết Giang, Thượng Hải khỏi tai họa lụt lội, nông dân ở vùng này đã phải hy sinh rất lớn; cả một vùng đất mùa màng tươi tốt, trong giây phút biến thành “biển nước”, ruộng vườn biến thành đầm lầy, nhà cửa, đồ dùng trong nhà, bao nhiêu năm mới có được, thường chỉ sau một trận lụt lớn là hầu như không còn gì.
Người tiếp nhận phỏng vấn của chúng tôi nói: kẻ nào lăng nhục nông dân ở đây sẽ bị trời phạt!
Tuy vậy, Thẩm Khả Lý, bí thư chi bộ thôn, chủ nhiệm ủy ban thôn lại là một kẻ không từ bất kỳ tội ác nào.
Thực ra, trước đó Thẩm Khả Lý là một thanh niên có nhiệt huyết, đã đi bộ đội, và được vào đảng trong quân đội. Sau khi thoái ngũ về thôn, mọi người thấy hắn ta tiến bộ nên bầu làm trưởng thôn. Lúc vừa mới nhậm chức, quả thực là mọi việc hắn ta đều vì mọi người mà nghĩ và đúng là hắn ta đã làm được không ít việc cho thôn dân, được mọi người đánh giá tốt, sau đó vinh dự được bầu là bí thư chi bộ kiêm chủ nhiệm ủy ban thôn, còn được bầu làm đại biểu hội đồng nhân dân trấn. Thế nhưng một khi địa vị thay đổi, kiến thức được mở mang, đầu óc hắn ta bắt đầu chuyển biến, lòng ham muốn riêng bắt đầu bành trướng. Hắn ta phát hiện, trong cuộc sống xã hội hôm nay có rất nhiều hiện tượng xấu xa tranh lợi với dân, chỉ cần có thể kiếm được lợi là rất nhiều bộ môn chính quyền, cơ cấu quyền lực đã tranh nhau dùng danh nghĩa quản lý, quy phạm để tập trung vốn bừa bãi, phạt tiền bừa bãi, thu phí bừa bãi, nhưng thấy không có lợi là đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, “vì nhân dân phục vụ” đã biến thành “vì nhân dân tệ [1] phục vụ”, quản lý có nghĩa là thu phí. Thế là hắn ta cảm thấy, chỉ có thằng ngốc mới không vơ vét. Vì thế trong con mắt hắn ta: trao đổi quyền tiền, đầu cơ kiếm lời đã trở thành con đường tắt để leo lên cao, thăng quan tiến chức; tham ô nhận hối lộ, không từ bất cứ thủ đoạn nào đã được coi là một bí quyết để thu lượm tiền của làm cho gia đình giàu có. Dần dần hắn ta trở nên ngang ngược tàn ác, tham lam hung bạo, biến thôn Thẩm Trại thành “thiên hạ riêng” của mình. Trước tiên hắn đưa người em trai lớn là Thẩm Khả Tín giữ chức đội trưởng đội liên phòng của thôn, người em trai thứ hai Thẩm Khả Tuệ cũng trở thành đội viên chuyên nghiệp của đội liên phòng, đồng thời còn dùng tiền của công trang bị cho súng và dùi cui điện; tiếp đó lại cử em trai thứ ba Thẩm Siêu Quần làm đội trưởng đội Hậu Trại. Đã có ba quyền “đảng, chính, quân” trong tay, lại có ba người em chắp cánh cho mình, nên ở Thẩm Trại, trừ phi tìm không thấy thang để lên trời ra, không có việc gì là Thẩm Khả Lý không làm được.
Ngày 4 tháng 1 năm 1995, rốt cuộc ở Thẩm Trại đã phát sinh một vụ án đặc biệt ác liệt: do mang súng đến nhà trưng thu tiền để lại của nông dân mà làm cho một người chết, hai người bị thương, kinh động đến cả Trung ương đảng và Quốc Vụ viện.
Trước khi vụ án chết người này bước vào trình tự xét xử của tòa án, đài truyền hình Trung ương đã được lệnh cử phóng viên đến tận nơi, sau khi vụ này, qua “phóng sự đặc biệt” được phát đi, đã lập tức làm rung động cả nước, bạn bè nông dân khắp nơi tới tấp gửi thư, gửi điện, yêu cầu trừng trị nghiêm hung thủ và truy cứu trách nhiệm lãnh đạo của các bộ môn có liên quan. Hiển nhiên cũng là vì tính chất của vụ án mạng do sự đóng góp của nông dân này quá xấu xa, nên không ít cơ quan truyền thông ở hải ngoại đã mượn cớ làm rùm beng. Để dẹp yên sự phẫn nộ của dân, làm cho tà ác sợ hãi, tòa án tối cao tỉnh An Huy đã nhanh chóng mở phiên tòa chung thẩm, lần lượt kết án Thẩm Khả Tín tử hình, Thẩm Khả Lý tử hình nhưng hoãn thi hành vì tội cố ý giết người, tước đoạt quyền lợi chính trị của hai người suốt đời.
Vào lúc tòa án tối cao tỉnh phê chuẩn án tử hình của Thẩm Khả Tín, yêu cầu tòa án trung cấp Phụ Dương lập tức chấp hành thì viện trưởng Hàn Vân Bình vô cùng bất ngờ nhận được một điện thoại khẩn gọi từ Bắc Kinh. Qua điện thoại, Nhiệm Kiến Tân lúc đó là bí thư ban bí thư Trung ương đảng, bí thư ủy ban chính pháp Trung ương, chánh án tòa án nhân dân tối cao, ra chỉ thị rõ ràng: việc xử án tử hình kẻ phạm tội làm chết nông dân vào ngày mai, tạm dừng lại, phóng viên đài vô tuyến truyền hình Trung ương sẽ truyền hình trực tiếp cuộc tuyên án, sau đó mới tiến hành xử bắn.
Đó là một cú điện thoại không bình thường, một cuộc sắp xếp không bình thường, làm cho việc xét xử công khai vụ án chết người ở Thẩm Trại cũng trở thành không bình thường.
Và cũng rõ ràng là, tình huống đó chưa hề có trong lịch sử tòa án nhân dân của nước cộng hòa.
Chúng tôi đã phỏng vấn vị chánh án xử vụ việc này, ông đã cho biết thêm một mẩu chuyện lý thú. Ông nói, khi biết phóng viên đài truyền hình Trung ương được lệnh đến An Huy, để trực tiếp truyền hình buổi tuyên án, bí thư thị ủy Phụ Dương lúc đó là Vương Hoài Trung đã phải vất vả suy nghĩ rất nhiều, cuối cùng mới quyết định buổi tuyên án tiến hành tại tòa án huyện. Sau khi các phóng viên đến, ông ta còn sợ họ đến thôn Thẩm Trại phỏng vấn, sẽ phát hiện được cái nghèo rớt mùng tơi và phản cảm của thôn dân thôn này về việc đóng góp nặng nề, và một khi họ đưa lên màn ảnh, thế tất ảnh hưởng đến công lao và hình tượng của mình, nên đã sắp xếp cho các phóng viên ở tại nhà khách Văn Phong, thậm chí còn khổ tâm tính toán mời mấy cô phục vụ hòng “buộc chân” họ lại. Thế nhưng các phóng viên không nhận tình cảm đó, họ vẫn tìm cách đi Thẩm Trại và ghi hình tại hiện trường.
Ngày mở phiên tòa tuyên án, không gian có hạn của sân tòa án huyện không sao chứa nổi những nông dân từ bốn phương tám hướng kéo đến như nước chảy, cả thị trấn huyện Phụ Nam như có ngày hội lớn.
Ngày hôm đó, đài truyền hình Trung ương ngoài việc trực tiếp truyền cảnh hàng vạn nhân dân vui sướng hoa chân múa tay khi thấy Thẩm Khả Tín bị giải ra pháp trường, còn chính thức công bố quyết định xử lý kỷ luật của đảng và chính quyền đối với bí thư, chủ tịch huyện Phụ Nam và bí thư đảng ủy, chủ tịch trấn Trung Cương. Cũng trong buổi truyền hình trực tiếp hôm đó, đài truyền hình Trung ương còn đặc biệt dẫn một câu nói của Thủ tướng Chu Dung Cơ:
“Từ nay trở đi, kẻ nào còn dám vi phạm quy định của Trung ương, làm nặng thêm đóng góp của nông dân, thì sẽ lôi kẻ đó ra hỏi”.
Sự việc này tuy xảy ra tại An Huy, nhưng sau đó qua “Thông báo về các vụ án ác liệt dính líu đến sự đóng góp của nông dân trong năm 1995” do Văn phòng Trung ương đảng và Văn phòng Quốc Vụ viện liên hiệp công bố, có thể biết được, chỉ riêng trong năm đó, tám tỉnh trong cả nước trước sau đã phát sinh mười ba vụ án ác liệt như ở Thẩm Trại. Tất nhiên trong mười ba vụ án đó, tính chất “vụ án mạng do nông dân đóng góp ở Thẩm Trại” là ác liệt nhất, đứng đầu các vụ án.
Để thể hiện rõ quyết tâm kiên định của Trung ương đảng, Quốc Vụ viện kiên quyết giảm nhẹ sự đóng góp của nông dân, quyết không nhẹ tay trong việc kiểm tra các hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật trong việc tăng thêm đóng góp của nông dân, “Thông báo tình hình” số ra thời gian đó đã được gửi tới đảng ủy, chính quyền các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc, đảng ủy các đại quân khu, đảng ủy các ban, bộ của Trung ương và Quốc Vụ viện, các bộ tổng của quân ủy, đảng ủy các cơ quan, binh chủng, các đoàn thể nhân dân, đồng thời còn yêu cầu gửi thẳng đến cấp huyện và trung đoàn, truyền đạt đến các chi bộ đảng và ủy ban thôn trong nông thôn toàn quốc.
Thế nhưng, điều khiến người ta nghi hoặc và càng làm cho người ta đau lòng, là tất cả những việc làm đó đã không ngăn chặn được một vụ án mạng xảy ra một năm sau đó tại xóm Tiểu Trương, xã Đường Nam huyện Cá Trấn.
Tính chất của vụ án mạng tại xóm Tiểu Trương rõ ràng là còn ác liệt hơn nhiều so với vụ án mạng tại Thẩm Trại, làm người ta càng khiếp sợ hơn.
Và đâu chỉ có một vụ án mạng tại xóm Tiểu Trương.
Chúng ta cần chú ý rằng, sau khi vụ án mạng do đóng góp quá nặng của nông dân Đinh Tác Minh xảy ra tại thôn Lộ Doanh, xã Kỷ Vương Trường, huyện Lợi Tân, tỉnh An Huy, Văn phòng Trung ương, Văn phòng Quốc Vụ viện, hầu như mỗi năm đều gửi “Thông báo tình hình các vụ án ác tính liên quan đến việc đóng góp của nông dân” cho cả nước. Có khi, một năm gửi tới hai lần. Chỉ từ sau khi xảy ra vụ thảm án ở xóm Tiểu Trương, trong nửa đầu năm 1999, các vụ án mạng liên quan đến đóng góp của nông dân trong cả nước đã có tới tám vụ. Trong đó tỉnh Hồ Nam ba vụ, tỉnh Tứ Xuyên hai vụ, ba tỉnh Hồ Bắc, Cam Túc, Hà Nam mỗi tỉnh một vụ. Về nguồn gốc của tám vụ, trong thông báo ghi rất rõ ràng: “Theo báo cáo của các địa phương”.
Báo cáo lên là tám vụ, liệu có nơi nào không báo cáo không?
Chí ít có thể nhận định, vụ án ác tính đặc biệt lớn xảy ra tại xóm Tiểu Trương xã Đường Nam tỉnh An Huy đã được che giấu chưa báo cáo. Thế mà chỉ một vụ này đã có bốn người chết, một người bị thương.
Chúng ta có bao nhiêu anh chị em nông dân bất hạnh vì tranh thủ “giảm đóng góp” mà bị vô tình cướp đi sinh mệnh, mà những đóng góp của nông dân ở các nơi vẫn không sao cấm được, hơn nữa còn ở xu thế càng ngày càng gay gắt; những vụ án ác tính liên quan đến sự đóng góp của nông dân vẫn xảy ra, hơn nữa còn kéo dài không dứt.
Vì sao có chuyện đó?
Rốt cuộc vì sao có chuyện đó?
Vấn đề đóng góp của nông dân, rõ ràng là đã đi vào chiếc vòng kỳ quái.
Cần phải nói rằng, đảng và chính phủ nhân dân đã cố gắng về nhiều mặt để giảm nhẹ đóng góp của nông dân. Khi chúng tôi bắt đầu làm công tác điều tra này, đã phát hiện được, các thông tri gửi xuống dưới, các điều lệ được công bố, các quyết định được đưa ra, các thông báo được gửi đi của Trung ương đảng và Quốc Vụ viện không những ngọn cờ rõ ràng mà còn sử dụng những lời lẽ rất nghiêm khắc. Thế nhưng thái độ kiên quyết của Trung ương, văn kiện đóng dấu đỏ cái nọ tiếp cái kia gửi đi vẫn không giải quyết được vấn đề đóng góp của nông dân tồn tại phổ biến ở các nơi.
Và chúng tôi không sao hiểu nổi.
Thực ra, ngay từ năm 1985, Trung ương đảng cộng sản và Quốc Vụ viện Trung Quốc đã gửi “Thông tri về việc ngăn chặn thu tiền bừa bãi, thu phí bừa bãi với nông dân”; tháng 2 năm 1990, một lần nữa Quốc Vụ viện ra “Thông tri về việc thiết thực giảm nhẹ đóng góp của nông dân”; tháng 9 cùng năm, Trung ương đảng cộng sản và Quốc Vụ viện Trung Quốc đã liên hiệp đưa ra “Quyết định về việc kiên quyết ngăn chặn thu phí bừa bãi, phạt tiền bừa bãi và các loại phân bổ”. thế nhưng có lệnh mà vẫn không dừng, vấn đề đóng góp của nông dân vẫn một mạch tăng lên. Có tư liệu cho thấy: đến năm 1991, thu nhập ròng của nông dân toàn quốc chỉ tăng 9,5% so với năm trước, thế nhưng các khoản “giữ lại thôn” và “xã trù hoạch” của nông dân trong cùng thời kỳ đã tăng 16,7%; công nghĩa vụ mà sức lao động nông thôn phải gánh chịu và công tích lũy lao động, bắt buộc phải trả bằng tiền so với năm trước tăng 33,7%.
Ngày 17 tháng 12 năm 1991, Thủ tướng Lý Bằng ký lệnh số 92 của Quốc Vụ viện công bố một cách rõ ràng “Điều lệ quản lý chi phí và dịch vụ lao động do nông dân đóng góp” có hiệu lực pháp luật. “Điều lệ” này đưa ra nhiều quy định cứng rắn. Thế nhưng hiệu quả rất nhỏ. “Thảm án Đinh Tác Minh” làm chấn động Trung ương chính đã xảy ra một năm sau khi “điều lệ” này được công bố. Một thanh niên hào hoa phong nhã hết mực, chỉ vì phản ảnh với huyện ủy vấn đề đóng góp nặng nề không thể chịu nổi mà bị đánh chết tươi tại trụ sở công an xã. Trung ương không chỉ cử tổ điều tra, mà trong thời gian không đến một tháng sau khi sự kiện phát sinh đã liên tiếp truyền đạt xuống dưới hai thông tri khẩn cấp với những lời lẽ nghiêm khắc, đồng thời tuyên bố hủy bỏ ba mươi bẩy hạng mục trong các hạng mục nông dân phải đóng góp, tạm hoãn chấp hành hai mục, cần phải sửa đổi bẩy mục, kiên quyết sửa chữa mười bốn mục về hành vi cưỡng chế, phân bổ và thu phí xe cộ, đồng thời hủy bỏ bốn mươi ba mục hoạt động đạt tiêu chuẩn phải nâng cấp. Sau đó không lâu, Trung ương lại chuyển gửi xuống dưới “ý kiến của Bộ Nông nghiệp, Ủy ban giám sát, Bộ Tài chính, Ủy ban kế hoạch nhà nước, Cục pháp chế Quốc Vụ viện về việc giảm nhẹ tình hình đóng góp của nông dân và công tác từ nay về sau”, nhắc lại “ba ước pháp”: đình chỉ mọi việc tập trung vốn và các hạng mục phân bổ không phù hợp quy định và không phù hợp thực tế; đình chỉ phê duyệt mọi hạng mục thu phí mới, cấm mọi hoạt động đạt tiêu chuẩn lên cấp đòi hỏi nông dân xuất tiền, xuất vật, xuất công; mọi hạng mục mà “Thông tri về ý kiến xử lý, xét duyệt những hạng mục liên quan đến đóng góp của nông dân” của Trung ương đã ra lệnh rõ phải thủ tiêu, bất kỳ địa phương và bộ môn nào cũng không có quyền khôi phục, phần giữ lại và trù hoạch chung do Quốc Vụ viện quy định không được vượt quá mức tỷ lệ 5% thu nhập ròng trung bình của nông dân năm trước.
Điều kỳ quái là, những “văn kiện đóng dấu đỏ” đến từ tầng lớp quyết sách cao nhất của Trung Quốc ấy, cái nọ nối cái kia được đưa xuống dưới, nhưng đóng góp của nông dân không vì thế mà giảm nhẹ.
Sau khi đọc tỉ mỉ một số văn kiện có tính quyền uy nhất, chúng tôi chú ý đến một điều, đó là những văn kiện có tính chính sách ấy, mặc dù đều rất cụ thể, nhưng không phải là kế sách trị tận gốc, phần lớn chỉ để ý đến việc xem xét kỹ để phân biệt nhiều hạng mục phân bổ quá, vì thế khi quyết định tạm đình chỉ một hạng mục nào tất nhiên phải ảnh hưởng đến lợi ích cụ thể của một số bộ môn của chính quyền, nên những bộ môn này sẽ nhanh chóng thay đổi bộ mặt, sáng tạo ra một số hạng mục thu phí mới, không nằm trong phạm vi cấm của lệnh đã ban, mà nếu có nằm trong phạm vi của lệnh cấm, thì những bộ môn này cũng có thể thông qua văn kiện chính sách của bộ môn mình, hoặc là lại do bộ môn khởi thảo lời nói của lãnh đạo, đại diện cho lợi ích của bộ môn, cung cấp căn cứ mới cho việc khôi phục chấp hành hạng mục cũ. Thậm chí có nơi về căn bản không cần phải “biến báo”, dứt khoát để ngoài tai, từ chối không chấp hành văn kiện của Trung ương.
Còn về một số “văn kiện đóng dấu đỏ” với lời lẽ nghiêm khắc nào đó, mặc dù đã đề xuất nội dung “không cho phép” hoặc “nghiêm cấm”, nhưng có đến hơn một nửa là nêu nguyên tắc hoặc tinh thần. Những cái vừa chẳng có sự ràng buộc cứng rắn, và chẳng phải là điều lệ pháp luật, vừa không thể định rõ giới hạn lại vừa không thể thao tác, có nói cũng như là không nói.
Thế là quyết định hủy bỏ, nhưng lại không bị hủy bỏ; quyết định sửa chữa nhưng lại không sửa chữa; quyết định tạm hoãn, cũng lại không tạm hoãn, hơn nữa những hạng mục phân bổ so với trước càng nhiều, càng nát, càng hoang đường lại cứ nối tiếp nhau xuất hiện. Thế rồi việc hạn chế và trị lý “ba cái loạn” ở nông thôn cũng biến thành “cắt rau hẹ”, hoặc là “cạo râu”, cắt rồi lại mọc, cạo rồi lại dài, vòng đi vòng lại.
Trong điều tra phỏng vấn tại hơn năm mươi huyện ở An Huy, hầu như chúng tôi không phát hiện được một xã, trấn nào hoàn toàn làm việc theo tinh thần của văn kiện Trung ương và các quy định có liên quan của Quốc Vụ viện.
Chúng tôi tin rằng, tình hình đó quyết không phải chỉ một tỉnh An Huy có riêng.
Lý Xương Bình, bí thư đảng ủy xã Kỳ Bàn, huyện Giám Lợi, tỉnh Hồ Bắc, người rưng rưng nước mắt viết thư lên Trung ương đã từng nói: “Trung ương biết rõ, mặc dù vấn đề xuất hiện tại xã, trấn, nhưng gốc rễ của nó lại ở bên trên, thế thì vì sao lại không truy cứu nguồn gốc? Bất kể nguyên nhân là cái gì, sao Trung ương không truy cứu; không truy cứu thì gan mật của quan chức địa phương sẽ càng ngày càng to, cơ cấu và nhân viên mỗi năm so với trước sẽ càng bành trướng, đóng góp của nông dân sẽ mỗi năm ngày càng nặng nề. Chính sách của Trung ương đối với một số người mà nói, đã thành cái tai của người điếc - một vật trang trí”.
Đến năm 1994, tình hình đóng góp của nông dân đã vô cùng nghiêm trọng, chính phủ Trung ương tiến hành cải cách toàn diện trong cả nước về chế độ thuế, thuế đất, phân thuế, do sự tập trung quyền lực của Trung ương về thuế, nên tài chính trong dự toán của chính quyền địa phương đã xuất hiện khó khăn chưa từng có. Thể chế tài chính đầu nặng chân nhẹ, thu nhập tài chính nghiêng về bên trên mà chi tiêu lại đẩy xuống dưới đó, cộng thêm việc vứt bỏ không quản đến các hạng mục chi tiêu ở nông thôn như giáo dục nghĩa vụ, sinh đẻ có kế hoạch, trợ cấp cũng như huấn luyện dân quân, cái đem cho chính quyền xã, trấn chỉ là chính sách, mà chính sách đó là: “thu vượt không phải nộp, chi vượt không bổ sung, thu nhiều thì chi nhiều” và điều này đã buộc, đồng thời hấp dẫn chính quyền xã, trấn các nơi không thể không dựa vào việc chiếm hữu giá trị thặng dư, bóc lột nông dân để duy trì sự vận hành.
Đóng góp của nông dân giống như quả bóng tuyết đang lăn, càng ngày càng nặng.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp, hai loại thuế nông nghiệp (thuế nông nghiệp và thuế đặc sản nông nghiệp) năm 1995 so với năm trước tăng trưởng 19,9%, trưng thu chi phí so với năm trước tăng 48,3%, còn các loại đóng góp xã hội như thu phí có tính hành chính sự nghiệp, phạt tiền, tập trung vốn, phân bổ v.v..., so với năm trước tăng 52,22%. Năm này, đóng góp của nông dân trong một phần ba tỉnh, thành phố, khu tự trị đều vượt qua “giới hạn lớn” 5% mà nhà nước đã quy định.
Nhưng đây rõ ràng là những con số thống kê bảo thủ.
Rất nhiều ca dao, câu nói đã thể hiện lòng căm tức và không biết làm thế nào của nông dân:
“Bẩy ngón tay, tám ngón tay đều chìa về phía nông dân,
Anh tập trung, tôi tập trung, hắn tập trung, nông dân sốt ruột; anh gọi tiền, tôi gọi tiền, hắn gọi tiền, nông dân buồn nhất”. Hoặc:
“Thúc lương thực, thúc tiền, thúc cuộc sống,
Phòng hỏa hoạn, phòng trộm, phòng cán bộ”.
Một câu vè được lưu truyền rất rộng, dường như được nông dân coi là bài hát để hát: “nói phét giỏi, tán gẫu hay, thôn lừa xã, xã lừa huyện, một mạch lừa đến Quốc Vụ viện; Quốc Vụ viện, ra văn kiện, từng cấp từng cấp ra sức niệm, chỉ lo truyền đạt không nói đến thực hiện”.
“Sự kiện Bạch Miếu” của huyện Lâm Tuyền tỉnh An Huy đã phát sinh trong bối cảnh đó.
Thôn dân thôn Vương Doanh, trấn Bạch Miếu phản ánh vấn đề nông dân đóng góp quá nặng của thôn họ, vốn chỉ hy vọng trấn Bạch Miếu quán triệt chính sách giảm nhẹ của Trung ương, thế nhưng trên trấn không nghe không hỏi, nên thôn dân mới phải tìm đến huyện, nhưng trên huyện lại tìm mọi cách đùn đẩy, nên thôn dân đành phải tiếp tục tìm lên trên, từ huyện lên tỉnh, rồi đến lên thủ đô phản ánh vấn đề. Thế nhưng vấn đề không những không được giải quyết mà ngược lại còn bị trấn áp vũ lực ở huyện, chỉ đến khi xảy ra sự kiện quỳ lạy cờ ở quảng trường Thiên An Môn khiến người ta đau lòng, tạo thành ảnh hưởng xã hội vô cùng ác liệt, thì vấn đề của thôn Vương Doanh mới được coi trọng. Bài học của sự việc này là sâu sắc.
Đến năm 1996, Trung ương đảng cộng sản, Quốc Vụ viện Trung Quốc đã hình thành “Văn kiện số mười ba” rất nổi tiếng, đó là: “Quyết định về việc thiết thực làm tốt công tác giảm nhẹ đóng góp của nông dân”. Quyết định chỉ ra một cách vô cùng rõ ràng: “Phàm là những vụ án ác tính do tăng nặng thêm sự đóng góp của nông dân mà dẫn tới những sự kiện nghiêm trọng, gây ra làm chết làm bị thương người, đều phải truy cứu trách nhiệm của những người phụ trách chủ yếu và những người chịu trách nhiệm trực tiếp ở xã, trấn, nếu liên quan đến trách nhiệm lãnh đạo của địa khu [2], huyện, thì phải theo quy định có liên quan, truy cứu trách nhiệm những người lãnh đạo chủ yếu của địa khu, huyện nhằm rút ra bài học; các đồng chí lãnh đạo chủ yếu về đảng, chính quyền của các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc liên tục xảy ra sự kiện nghiêm trọng và các vụ án ác tính làm chết, làm bị thương người, phải kiểm điểm bằng văn bản với Trung ương đảng và Quốc Vụ viện; những hành động che giấu vụ án, xếp xó vụ án, báo cáo nhưng không kiểm tra, hoặc đả kích báo thù người tố cáo, một khi phát hiện được, phải xử lý nghiêm. Phải tăng nhanh công tác lập pháp, giám sát, đôn đốc, quản lý sự đóng góp của nông dân”.
Văn kiện yêu cầu đảng ủy, chính quyền các cấp phải nghiêm chỉnh quán triệt mười ba điều quyết định: “từng hạng mục, từng điều quán triệt thực sự, quyết không cho phép xuất hiện bất kỳ hiện tượng cản trở nào, quyết không cho phép biến dạng trong chấp hành”. thậm chí còn đặc biệt chỉ ra: “Sau dịp tết, dùng thời gian một tháng đưa nội dung quyết định trực tiếp đến đông đảo quần chúng nông dân, đồng thời phải tuyên truyền nhiều lần, làm cho mỗi nhà, mỗi hộ đều hiểu”.
“Văn kiện số mười ba” của Trung ương, cho thấy rõ thái độ rõ ràng của Trung ương đảng, Quốc Vụ viện về việc giảm nhẹ đóng góp của nông dân, mà quyết tâm kiên định như sấm nổ trên trời, đã làm khắp đất nước cảm động.
Để kiểm tra tình hình quán triệt các biện pháp chính sách giảm nhẹ đóng góp có liên quan của Trung ương và đôn đốc các nơi làm tốt hơn nữa công tác đó, Quốc Vụ viện còn cử tổ công tác do Bộ Nông nghiệp, Bộ Giám sát, Bộ Tài chính, Ủy ban kế hoạch nhà nước, Cục pháp chế Quốc Vụ viện và các đơn vị tân văn có liên quan tổ thành, chia nhau tới hiện trường năm tỉnh Hà Nam, Hồ Nam, Hồ Bắc, An Huy, Sơn Tây kiểm tra công tác.
Mà độ mạnh lớn đến như vậy, người tham gia đông đến như vậy, đều chưa hề có.
Thế nhưng, một điều không thể lý giải là, đúng vào năm Trung ương gửi xuống dưới “Văn kiện số mười ba” nổi tiếng, Quốc Vụ viện cử đi đội ngũ kiểm tra giám sát với đội ngũ lớn mạnh đến như vậy thì sự đóng góp của nông dân Trung Quốc đều nặng hơn so với bất kỳ năm nào trong lịch sử.
Theo thống kê của Cục thống kê quốc gia: từ năm 1991 đến năm 1993, tỷ trọng thu thuế nông nghiệp và thuế chăn nuôi chiếm trong các hạng mục thu thuế của cả nước đã có xu thế giảm, giảm tới 2,2%, thế nhưng đến năm 1996, tỷ trọng đó đã cao tới 5,3%, so với mấy năm trước cao hơn hai lần; nếu cộng thêm việc thu phí bừa bãi, phạt tiền bừa bãi và phân bổ bừa bãi thì một năm gian khổ của nông dân rốt cuộc chẳng còn lại bao nhiêu.
Rõ ràng là Trung ương đã chú ý đến tình hình càng ngày càng nghiêm trọng đó, nên chỉ trong mười sáu ngày ngắn ngủi của tháng 5 năm 1997, đã liên tục đưa ba bốn thông tri về việc giải quyết vấn đề “tam nông” [3], từ quán triệt sự phát triển của nông nghiệp, kiên quyết giữ gìn sự ổn định tại nông thôn cho đến thiết thực bảo vệ lợi ích của nông dân, đều được nhấn mạnh hơn nữa, thể hiện lòng quan tâm của đảng và chính phủ nhân dân với 900 triệu nông dân.
Tuy vậy, những đóng góp xã hội mà nông dân phải chịu đựng đã nặng tới mức chưa hề có. Bất kể là An Huy, hay trong cả nước, do giá cả nông sản phẩm hạ, tốc độ tăng trưởng thu nhập của nông dân đã giảm sút với mức độ lớn, xuất hiện hiện tượng “tăng sản lượng nhưng không tăng thu nhập”, các loại thuế, phí mà chính quyền các nơi trưng thu của nông dân không vì thế mà giảm bớt, ngược lại còn tăng mạnh.
Tư liệu thống kê kinh tế nông thôn của Bộ Nông nghiệp hiển thị: từ năm 1994 đến năm 1997, thu nhập trung bình một năm của nông dân trong 4 năm đó chỉ gấp 1,91 lần của năm 1993, còn những đóng góp mà nông dân trực tiếp nộp vào các bộ môn có liên quan của nhà nước trong cùng 4 năm đó lại trung bình mỗi năm tăng gấp 9 lần, hơn nữa, những đóng góp có tính xã hội, tính hành chính sự nghiệp mà nông dân phải trực tiếp gánh vác trong mấy năm đó cũng gấp hơn 2 lần năm 1993, trong đó phân bổ góp vốn đã gấp 3,38 lần. Điều này có nghĩa là, sự gia tăng đóng góp xã hội của nông dân đã cao hơn nhiều lần so với thu nhập ròng trung bình của nông dân, làm ruộng đã không kiếm được tiền, thậm chí còn phải bù tiền, nhiều nông dân buộc phải vào thành phố làm thuê, dùng đồng tiền đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm được nộp cho các khoản sưu cao thuế nặng không bao giờ làm rõ được đó.
Hồi đầu cải cách, đóng góp của một mẫu [4] đất ở nông thôn chỉ là 10 NDT, thời đó nông dân chủ động nộp lương thực, nộp tiền, về căn bản không cần cán bộ đến nhà. Bây giờ, đóng góp của một mẫu ruộng, ít cũng phải hơn 100 NDT, nhiều thì tới hai, ba trăm, gánh nặng thuế, phí trưng thu, rõ ràng đã vượt quá năng lực chịu đựng của nông dân, công tác trưng thu tự nhiên xuất hiện khó khăn. Thế là ở không ít địa phương, đã nối nhau thành lập “đội công tác trưng thu”, hoặc “đội đột kích” đến nhà nông dân thu tiền. Không có tiền thì bắt lợn, khiêng tủ, xúc hạt giống, vác máy đi; thậm chí còn dùng công an, cảnh sát sử dụng cả công cụ và thủ đoạn chuyên chính, cưỡng bức trưng thu, vơ vét nông dân tàn bạo, hiện tượng đánh người, bắt người, nhốt người xảy ra nhiều lần. Quan hệ cán bộ với quần chúng ngày một xấu đi. Sự kiện nêu yêu sách, thị uy, tụ tập trong nông dân phát sinh ngày càng nhiều.
Mặc dù trong năm này, Văn phòng Trung ương đảng cộng sản và Văn phòng Quốc Vụ viện Trung Quốc đã liên hợp ra thông tri đòi hỏi giải quyết và xử lý đúng đắn những sự việc của nông dân như nêu yêu sách, thị uy, diễu hành, hội họp v.v... nhấn mạnh phải giải quyết và xử lý đúng đắn một số tình hình mới và vấn đề mới xuất hiện trong nông thôn. Quyết không được tùy tiện điều động công an, cảnh sát vũ trang làm mâu thuẫn ác hóa. Thế nhưng cũng chính trong bối cảnh đó, huyện Linh Bích, tỉnh An Huy vẫn điều động đông đảo công an, cảnh sát vũ trang, ấp ủ tạo thành “sự kiện thôn Đại Cao”.
Đến năm 1998, Trung ương gửi xuống dưới “Thông tri về việc làm tốt công tác giảm nhẹ đóng góp trước mắt của nông dân”. “Thông tri” nhấn mạnh: “Các địa phương phải rất coi trọng và nghiêm túc làm tốt các công việc liên quan đến công tác thư gửi tới và thắc mắc của nông dân, chú ý lắng nghe tiếng nói của quần chúng, giải quyết mâu thuẫn ở cơ sở, giải quyết vấn đề ở trạng thái mới manh nha.
Thông tri có tên gọi là “Văn kiện số 18 năm 1998 do Văn phòng Trung ương gửi” đặc biệt chú thích rõ: “Văn kiện này phát biểu công khai”.
Đó là lời hứa công khai mà trang trọng của Trung ương đảng và Quốc Vụ viện với nông dân Trung Quốc.
Có thể nói, đó là lệnh ba nhắc bẩy nhở!
Cũng có thể nói, đó là tiếng kêu lớn!
Thế nhưng những vụ án mạng do nông dân đóng góp quá nặng giống như “vụ thảm án ở xóm Tiểu Trương” đã đồng thời xảy ra ở 6 tỉnh trong cả nước.
Quan hệ cán bộ quần chúng xấu đến mức chính quyền xã phải dùng đến một phần tử chưa hết thời kỳ chịu hình phạt làm trưởng thôn, các thôn dân muốn nhịn mà không nhịn nổi đã bầu ra đại biểu yêu cầu quyết toán sổ sách, tên tội phạm tàn bạo độc ác hết mức, ngang nhiên sai con giết luôn 4 người! Sau khi vụ án lớn chấn dộng trời đất xảy ra, huyện Cá Trấn và thành phố Bạng Phụ đều ra sức che giấu vụ án, xếp xó vụ án, cơ quan kiểm sát và tòa án địa phương cũng không kiêng nể mà đoán sai phán lầm, làm cho gia đình những người bị hại không những không được vỗ về an ủi cần phải có mà còn làm cho các đại biểu của thôn dân vì tranh thủ quyền dân chủ mà bị chết oan uổng; sau khi đã bị tước đoạt xác thịt một cách tàn nhẫn, linh hồn còn bị trà đạp hết sức bất hạnh!
Cải cách của Trung Quốc bắt đầu từ nông thôn An Huy, cuộc cải cách long trời lở đất ấy, đã bồi dưỡng được một loạt cán bộ vừa quen thuộc công tác nông thôn lại dám nói lời nói thật.
Ngô Chiêu Nhân, người đã từng lãnh đạo công tác dân số ở An Huy lâu tới 17 năm, là một đảng viên già có cảm tình sâu xa nồng hậu với nông dân. Khi tiếp nhận cuộc phỏng vấn của chúng tôi, ông đã nói với tâm tình nặng nề. Trung ương có “Văn kiện số 13”, nhưng thực ra tỉnh ủy An huy lúc đó còn có một văn kiện càng nghiêm khắc hơn, tức văn kiện số 2 năm 1997, quy định rõ, khi thu phí “giữ lại, trù hoạch chung” của một thôn vượt quá 5% tổng thu nhập ròng trung bình của một người do nhà nước quy định thì bí thư huyện (thị xã) phải báo cáo bằng văn bản lên tỉnh ủy và ủy ban tỉnh. thế nhưng văn kiện chỉ là văn kiện, chúng tôi chẳng hề thấy một bí thư huyện (thị xã), một huyện trưởng nào viết kiểm điểm cả; nếu có xảy ra vụ án lớn, vụ án quan trọng cũng đều do thư ký viết thay rồi đảng ủy và chính quyền đóng dấu, nói là “tập thể chịu trách nhiệm”, thực ra không có một ai chịu trách nhiệm, càng chẳng có người nào rút được bài học cả”.
“Ba nhắc bẩy nhở”, “lệnh không làm, cấm không thôi”, những con chữ này mấy năm nay không ngừng xuất hiện trên các văn kiện và báo chí, người viết căm phẫn, người đọc xem thường. Ngô Chiêu Nhân cho rằng: “Tôi cảm thấy, những loại vụ việc đó không hẳn chỉ trách bên dưới, sợ rằng còn phải tìm nguyên nhân ở bên trên. Vì sao phải ba nhắc bẩy nhở? Cơ quan lãnh đạo phải có uy tín, phải tự mình kiến lập quyền uy, đã nói là phải thực hiện, nói được là phải làm được, người nào không chấp hành thì phải lôi người đó ra hỏi, quyết không lôi thôi dài dòng. Muốn cấm cấp dưới, tự mình phải cấm trước. Chỉ có ra lệnh mà không đốc thúc kiểm tra, hoặc kiểm tra mà không xử lý, xử lý mà không nghiêm thì làm sao cấm được việc trên làm dưới bắt chước?”
Lục Tử Tu, người đi ra từ trong xoáy nước của cuộc cải cách chế độ khoán gắn sản lượng đến gia đình cuối những năm 70 của thế kỷ trước, nay đã rời khỏi chức vụ phó chủ tịch hội đồng nhân dân tỉnh, nhưng không một ngày ngừng suy ngẫm về công tác nông thôn Trung Quốc. Có thể nói, ở An Huy cho đến cả nước, ông đều được coi là một chuyên gia xứng đáng về vấn đề nông thôn. Vào một buổi trưa nóng bức tháng 6 năm 2001, chúng tôi đã phỏng vấn ông tại nhà ông. Ông tặng chúng tôi một tác phẩm chuyên ngành mà ông vừa xuất bản “Bàn về “tam nông””. Chúng tôi chú ý tới lời giới thiệu do Trương Quảng Hữu - phóng viên Tân Hoa Xã lâu năm, viết cho ông, trong đó có những lời đánh giá về ông:
“Trong bài báo nói tại miền Nam nổi tiếng của đồng chí Đặng Tiểu Bình khi bàn đến cải cách nông thôn có nói: cải cách của Trung Quốc bắt đầu từ nông thôn, cải cách nông thôn bắt đầu từ An Huy, Vạn Lý đã lập công. Đối với việc này, đồng chí Vạn Lý nói: sở dĩ cải cách nông thôn đạt được thành tựu như vậy, ngoài sự giúp đỡ của các đồng chí lãnh đạo Trung ương như Đặng Tiểu Bình v.v… và sự ủng hộ tích cực của đông đảo nông dân ra, còn có một điều, là được sự giúp đỡ kiên quyết của một loạt cán bộ lãnh đạo, nhà lý luận, nhà khoa học, nhà văn và người làm công tác tân văn có tư tưởng chính trị mạnh, trình độ lý luận cao, thực sự hiểu biết thực tế, dám nói lời nói thật, dám đấu tranh vì lợi ích của nhân dân. Một loạt cán bộ mà Vạn Lý nói ở đây, có Lục Tử Tu là một người tương đối nổi bật trong đó. Chính vị Lục Tử Tu đó, mặc dù bây giờ đã ở tuổi thất tuần, thế nhưng khi nói tới công tác nông thôn, ông vẫn giống như người còn trẻ lộ ra mấy phần kích động.
Ông và chúng tôi đề cập tới một cuộc họp mà đến nay ông còn canh cánh bên lòng. Đó là một cuộc họp toàn tỉnh về công tác giảm nhẹ đóng góp do tỉnh ủy và ủy ban tỉnh An Huy triệu tập tại Phụ Dương. Khi báo cáo tình hình quán triệt giảm nhẹ đóng góp, có mấy vị bí thư địa ủy nối tiếp nhau nói về nỗi khổ tâm của mình, mặc dù những khổ tâm đó không phải là không có chút đạo lý nào, nhưng Lục Tử Tu nghe không vào. Bởi vì qua mấy chục năm làm công tác nông thôn, từ lâu ông đã có thói quen đứng từ góc độ của nông dân xem xét vấn đề. Mặc dù ông và mấy vị bí thư địa ủy đó rất quen biết, có quan hệ rất tốt, nhưng ông đã đỏ mặt ngay ở hội trường.
Vì hội nghị họp ở Phụ Dương, nên trước tiên, ông đã lôi Vương Hoài Trung bí thư địa ủy Phụ Dương ra khai đao.
Bất chấp thể diện của đối phương, ông gọi thẳng tên: “Vương Hoài Trung, anh chỉ chịu trách nhiệm với tỉnh ủy mà không chịu trách nhiệm với nông dân à! Bất chấp tình hình thực tế của nông dân, ra sức lựa chọn “công trình hình tượng” lắm màu nhiều vẻ, sắp đặt bên ngoài. Anh làm “cái huyện lớn nuôi trâu”, nhưng trâu chỉ nuôi hai bên đường quốc lộ để làm mẫu, mở hội nghị hiện trường thì bỏ tiền thuê trâu đến tập trung cho người ta tham quan. Anh chôn nông dân như vậy chưa đủ hay sao?”
Sau đó lại trực tiếp hỏi Trương Xuân Sinh, bí thư thị ủy Trừ Châu: “Trương Xuân Sinh, tiêu chuẩn đánh giá cán bộ của anh là gì vậy? Trưng thu bừa bãi, phạt bừa bãi, phân bổ bừa bãi, cuối cùng bức tử người, loại cán bộ như vậy có thể dùng được à? Thế mà anh lại cho loại cán bộ ấy làm quan ở nơi này nơi khác như thường!”
Tiếp đó lại chất vấn Phương Nhất Bản, bí thư thị ủy Bạng Phụ: “Phương Nhất Bản, huyện Hoài Viễn không ngừng lên yêu cầu, phản ánh vấn đề suốt nhiệm kỳ trước của anh, đến nay đã xứng tên là “huyện lớn về yêu cầu, phản ánh của tỉnh An Huy”. Chẳng lẽ toàn bộ sai lầm đều đổ vào đầu nông dân, anh không có một tí vấn đề gì ư?”
Rồi ông lại chuyển đầu đề câu chuyện vào Hồ Kế Đạc, bí thư địa ủy Sào Hồ: “Hồ Kế Đạc, anh không móc hầu bao của nông dân thì có sửa xong đường không? Con đường đó, nên do nhà nước bỏ tiền, sao anh lại hô hào dân chúng bỏ tiền? Chưa có tiền đã mở màn động thổ xây dựng đường, ai bảo anh làm thế? Chẳng phải là anh muốn tô vẽ “thành tích lãnh đạo” cho mình à?”
Sau khi điểm tên gọi họ một vòng, ông đau lòng nhằm vào chư hầu các lộ ta thán: “Nhiều cán bộ chúng ta “chỉ xem nhà cửa mọc hàng loạt, không biết người nào có đóng góp; chỉ thấy đường xá thẳng khắp miền, không biết những ai đã bỏ tiền!” Cuộc sống của nông dân chúng ta mới khấm khá được một chút, nhiều người đã coi họ là “thịt Đường Tăng!” Thực ra nông dân rất khổ, người nào cũng có thể ức hiếp họ! Năm đó, khi chúng ta làm cái “khoán lớn” khiến cả nước rung động và đã ảnh hưởng tới cả nước, tổng kết lại chỉ có ba câu thế¿ này thôi: “nộp đủ cho nhà nước, giữ lại đủ cho tập thể, còn lại đều là của nông dân”, thế nhưng hiện nay thì sao? Những cái tốt đẹp mà “khoán lớn” mang lại cho nông dân, từng tý, từng tý một đã bị chính quyền các cấp lặng lẽ lấy đi, ngày nay là “nộp không đủ cho nhà nước, giữ lại không đủ cho tập thể, còn lại chẳng có chút nào là của nông dân!”
Nói đến đó, ông ứa nước mắt: “Không ngờ là cán bộ chúng ta ngày nay không hiểu biết nông dân, không coi trọng nông dân đến như vậy, số cán bộ kết bạn được với nông dân quá ít, quá ít. Tôi đề nghị các vị ngồi ở đây hãy thử “đổi chỗ để suy nghĩ, hãy đặt mình vào hoàn cảnh của nông dân để suy nghĩ một chút, nếu cứ tiếp tục “ba bừa bãi” như thế này, liệu nông dân có thể chịu đựng nổi không?”
Những lời nói của Lục Tử Tu như búa đập vào tấm thép, từng lời từng lời rung động trái tim mọi người.
Mấy vị bí thư thị ủy, địa ủy do bị điểm tên bất ngờ nên đã không khỏi kinh ngạc.
Lúc đó, bí thư địa ủy Lục An cảm thấy rất may mắn, nên nói một cách thoải mái: “Trong vấn đề đóng góp của nông dân, chỗ chúng tôi chưa xảy ra chuyện gì”.
Những lời nói đó, giá ông ta không nói thì hơn, vì vừa nói xong, Lục Tử Tu đã không nhịn nổi cơn giận. Ông vẫn không để cho đối phương một chút thể diện: “Vấn đề đóng góp nông dân của anh, ở đây tôi có hàng tập thư phản ảnh của quần chúng! Nông dân vừa hái quả ở trên cây xuống là cán bộ thôn, trấn của anh đã đến cửa để thu thuế đặc sản rồi, điều này có là sự thực không?”
Bí thư địa ủy Lục An tỏ ra vô cùng ngượng ngập.
Hội trường im thin thít.
Thực ra, phê bình và tự phê bình bình thường trong đảng, xưa nay vẫn là phép báu để chúng ta chiến thắng mọi khó khăn, khắc phục mọi khuyết điểm, sai lầm của bản thân. Nhưng không biết từ lúc nào, ngoài điều lệ đảng và hiến pháp của chúng ta ra, trong quan trường sĩ đồ, đã dần dần lưu hành một “quy tắc trò chơi” suy lòng khắc biết. Mà một trong những quy tắc đó là, không thể quá nghiêm túc với công việc, chí ít đừng để gây khó dễ cho mình, nói lời phải để dư địa, thậm chí biết rõ là nói dối cũng nên xem đó là một sự thể hiện thành thực của kẻ làm quan. Vì vậy những lời nói thoải mái của Lục Tử Tu đã làm nhiều người cảm thấy đường đột.
Vào giờ giải lao, một vị phó giám đốc sở giao thông tỉnh, cố tình tụt lại phía sau, khi đi đến gần Lục Tử Tu, ông ta đột ngột nắm chặt tay Lục Tử Tu, đôi mắt sáng lên ánh nước mắt nói: “Mọi người đều nói chủ tịch [5] Lục tốt, nhưng không ngờ đồng chí lại tốt đến trình độ như vậy!”
Sau hội nghị, Phương Triệu Tường, phó bí thư tỉnh ủy, người chủ trì hội nghị tìm đến phòng ở của Lục Tử Tu, nói không ngớt lời: “Nói hay lắm, nói hay lắm!”
Lúc ăn cơm, Lư Vinh Cảnh, bí thư tỉnh ủy cũng đến chỗ Lục Tử Tu ca ngợi: “Anh nói hay lắm, nói hay lắm, cần có một nhà máy “đổi chỗ để suy nghĩ”.
Lục Tử Tu nói không có cảm tình: “Tốt cái cục c…! Những lời này của các vị sao không nói ở hội nghị? Tôi cam tâm tình nguyện làm một “ác ôn” của các người một dạo!”
Tính cách lòng ngay miệng thẳng đó của Lục Tủ Tu, Ôn Gia Bảo hồi đó còn là chánh Văn phòng Trung ương đảng đã từng được “lĩnh giáo”. Hồi đó Lục Tử Tu là bí thư địa ủy Trừ Huyện, một hôm Ôn Gia Bảo đến Trừ Huyện thị sát, khi tiếp đón, Lục Tử Tu hỏi thẳng: “Đồng chí Ôn Gia Bảo, đồng chí muốn xem thật hay muốn xem “điểm sáng?””
Nghe xong, Ôn Gia Bảo cười, trả lời một cách khôi hài: “Thế thì tôi xem cả”.
Lần đó, Lục Tử Tu đã dẫn Ôn Gia Bảo đi xem cả “điểm sáng” và “điểm tối”, ông vừa tổng kết kinh nghiệm thành công trong cải cách mở cửa của địa khu Trừ Huyện, vừa mổ xẻ những vấn đề tồn tại rối ruột rối gan, vừa báo tin vui, vừa báo tin buồn.
Năm 1996, Lục Tử Tu tham gia hội nghị công tác giúp nghèo toàn quốc, trong đám đông đại biểu ấy, Ôn Gia Bảo vẫn nhìn thấy Lục Tử Tu. Ông đến gần Lục Tử Tu hỏi: “Anh cho rằng vấn đề chủ yếu của nông nghiệp hiện nay là gì?”
Lục Tử Tu không lẩn tránh, trả lời thẳng: “Vấn đề tác phong cán bộ. Trong đó tất nhiên cũng gồm cả tôi. Chính sách có tốt hơn nữa mà không có người quán triệt cũng không được. Nhiều cán bộ hiện nay là “quan làm to, ô tô ngồi nhỏ, phóng trên đường quốc lộ nhiều, tách rời quần chúng càng xa!””
Hôm đó chúng tôi nói chuyện với nhau vô cùng hợp ý, khi biết chúng tôi đang điều tra những điều liên quan đến vấn đề “tam nông”, ông đã biểu thị nhiệt tình cực lớn, lời nói càng giầu cá tính.
Ông bảo: “Trước đây, Mao Trạch Đông nói: “Vấn đề nghiêm trọng là giáo dục nông dân”, hiện nay chúng thấy vấn đề nghiêm trọng là lợi ích của nông dân. Nếu lợi ích của nông dân không được coi trọng đúng mức, xã hội nông thôn sẽ khó phát triển, sản xuất nông nghiệp sẽ khó tiếp tục, sự phát triển và thái bình ổn định lâu dài của đất nước đều trở thành một câu nói suông”.
Ông nói: “Lê-nin nói: “Từng ngày từng giờ đều sản sinh ra chủ nghĩa tư bản”, bây giờ tôi thấy từng ngày từng giờ đều sản sinh ra chủ nghĩa tư bản, không tốt bằng từng ngày từng giờ đều sản sinh ra chủ nghĩa phong kiến”.
Ông còn nói: “Trăm triệu nông dân năm đó sở dĩ theo đảng ta làm cách mạng là bởi vì họ nhận thức được rằng đảng ta mưu lợi ích cho bọn họ, là dẫn dắt họ vươn mình giải phóng. Ngày nay, nếu như chúng ta không quan tâm đến lợi ích vật chất của họ, ngược lại còn làm cho họ cảm thấy đóng góp quá nặng, tâm trạng họ sẽ thế nào? Hơn một nghìn năm trước đây, Đường Thái Tôn đã từng nói “nước có thể chở thuyền mà cũng có thể lật thuyền”, cái nước đó, nói ra chính là nông dân Trung Quốc đấy! Đường Thái Tôn biết được sự quan trọng của nông dân, không có triều đại nào là không có người không biết sự quan trọng của nông dân, thế nhưng một khi nắm được chính quyền rồi, rất khó nói là có đại biểu cho nông dân nữa hay không, mà ngược lại thường bóc lột nông dân, thậm chí trấn áp nông dân. Lấy lịch sử làm gương soi, tôi thấy đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với vấn đề nghiêm trọng như vậy đó!”
19. Trung tâm câu chuyện cổ xưa
Trung Quốc là nước lớn nông nghiệp có lịch sử phong kiến hai, ba ngàn năm, trong dân số, nông dân chiếm tuyệt đại đa số, chính là có tình hình đất nước đặc biệt đó, vấn đề đóng góp của nông dân đã trở thành trung tâm câu chuyện vĩnh hằng từ triều đại này sang triều đại khác.
Lật lại những bộ sử mênh mông và dầy nặng thấy, có cuộc khởi nghĩa nông dân nào là không liên quan tới sự đóng góp của nông dân đâu? Từ Trần Thắng, Ngô Quảng cắm cờ nổi dậy đến nhiều nghĩa cử của nông dân sau này, từ hiến pháp của Thương Ưởng đến nhiều lần biến cách sau đó, có việc nào là không có liên hệ với nông dân đâu?
Câu nói “nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền” là của Đường Thái Tôn nhưng nói ý đó sớm nhất phải bắt nguồn từ Tuân Tử. Và trong một cuốn sách của “Quản Trọng” thời Tiên Tần, sợ rằng đó là một cuốn sách cổ đề xuất giảm nhẹ đóng góp của nông dân xử lý chính xác quan hệ lợi ích giữa nhà nước và nông dân sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc, vào lúc đó, trong nhiều thiên “quyền tu”, “bản pháp”, “trụ hợp” đã chỉ ra: “Lấy ở dân có mức độ, dùng mà biết dừng, nước dù nhỏ vẫn yên; lấy của dân vô độ, chỉ biết dùng không thôi, nước dù lớn vẫn nguy”.
Thời kỳ Dân quốc, mặc dù trong những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, Quốc dân đảng đã đề xuất phải áp dụng chính sách truyền thống giảm nhẹ sưu thuế, hủy bỏ các loại tạp thuế hà khắc, nhưng trong tình hình quân phí và nợ nần trong ngoài không ngừng tăng, tài chính thiếu hụt nghiêm trọng và chính trị cực độ hủ bại, đã không có hiệu quả gì…
Khi tiếng súng chào mừng ngày sinh của Trung Quốc mới nổ vang trên bầu trời Thiên An Môn, chủ tịch Mao Trạch Đông dùng cái giọng Hồ Nam đặc sệt của mình, trang nghiêm tuyên bố: “Từ nay nhân dân Trung Quốc đã đứng dậy!”. Lúc đó, tất cả đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc bao gồm trong đó cả Mao Trạch Đông, đều tin chắc không nghi ngờ: dựa vào nông thôn bao vây thành thị mà giành được giang sơn, nông dân Trung Quốc đã trở thành người chủ của quốc gia sẽ không bao giờ lại phải đóng góp nặng nề; “đóng góp của nông dân” và “ba ngọn núi” đồng thời bị lật đổ, nghèo khó cũng theo sự kết thúc của thời đại cũ mà bị triệt để chôn vùi!
Thế nhưng, sự thành công của cách mạng không có nghĩa là chỉ trong một sớm một chiều quét sạch những đống hoang tàn và cáu bẩn lịch sử của mấy ngàn năm để lại.
Sự nghiệp mà những người cộng sản Trung Quốc theo đuổi là sự nghiệp mới mẻ người xưa chưa có, phải từ trong đám bụi cây có gai chưa có đường đi qua, dẫm đạp mở ra một con đường mới, đường đi gập ghềnh nhưng xác định.
Vào lúc Trung Quốc mới vừa thành lập, sinh lực chủ yếu của chính phủ Trung ương được dùng vào việc giải quyết nạn thất nghiệp và lạm phát ở thành phố cũng như vào những vấn đề kinh tế trọng đại vừa bắt đầu như phát triển công nghiệp hóa v.v… nên không đủ lực chiếu cố chi tiêu tài chính địa phương và cũng không có thì giờ rỗi để chú ý tới công việc xây dựng của địa phương, vì vậy Trung ương vô cùng khoan dung trong việc chính quyền địa phương tham dự việc chia hưởng lợi ích với nông dân, cho phép các nơi đồng thời với việc thu thuế chính - thuế nông nghiệp, được theo tỷ lệ nhất định thu phụ gia địa phương trong khi thu thuế nông nghiệp. Loại phụ gia địa phương này cho dù có quy định hạn ngạch cao nhất, nhưng rõ ràng là nó không thể thỏa mãn nhu cầu chi tiêu tài chính của địa phương, thế là các loại phân bổ thêm biến hóa đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ đã theo đó mà đưa ra, không lâu sau trở nên tương đối nghiêm trọng.
Thông qua việc đọc kiểm tra các văn kiện đương thời, chúng tôi biết được người đầu tiên sau giải phóng đề xuất: “đóng góp của nông dân” là Liễu Lỗ Ngôn, người phụ trách nông nghiệp thời đó. Ngày 21 tháng 10 năm 1952, trong báo cáo với Trung ương đảng và chủ tịch Mao Trạch Đông “Tình hình và ý kiến về việc tài chính thôn xã, đóng góp của nông dân, giáo dục tiểu học xã thôn, và công tác của chính quyền xã”, ông phản ảnh, hiện tượng các loại thu phí bừa bãi đã bắt đầu xuất hiện trong các cấp chính quyền mới. Căn cứ vào điều tra thực địa ở 61 xã, ông phát hiện, cộng 4 loại thuế, phí: lương thực cho nhà nước, phụ gia địa phương, quyên hiến cho chống Mỹ viện Triều và phân bổ cho xã thôn lại với nhau thì đã chiếm tới 21,53% thu nhập của nông dân, ngoài ra còn có nhiều hạng mục khó mà thống kê nổi, ví dụ như các hệ thống có liên quan đến nông nghiệp như ngân hàng, mậu dịch, hợp tác xã, bưu chính, nhà sách Tân Hoa v.v…, đều dùng cái mã “phát triển nghiệp vụ” để cưỡng bức nông dân “nhận mua” và “vui lòng tặng”, quần chúng có ý kiến rất nhiều, nói cán bộ thôn, xã đã trở thành người bán tranh, bán tem, bán chè, bán miến… ảnh hưởng cực xấu, vì đã tạo ra “đóng góp nặng nề, hà khắc” của nông dân.
Báo cáo của Liễu Lỗ Ngôn đã được Mao Trạch Đông coi trọng, theo đó chính phủ Trung ương đã có quy định riêng, khống chế nghiêm khắc thu phụ gia địa phương trong thuế nông nghiệp, giới hạn phụ gia địa phương không được quá 15% thuế chính.
Thế nhưng, các địa phương do sự thúc đẩy của lợi ích địa phương, không những thu đủ phụ gia địa phương trong thuế nông nghiệp như Trung ương quy định mà còn không ngừng phân bổ thu thêm bừa bãi, thậm chí so với trước còn nghiêm trọng.
Sau khi biết được tình hình, Mao Trạch Đông rất không yên. Để dẹp yên bất mãn của nông dân, lập tức chỉ thị Quốc Vụ viện đưa ra một quyết định quả đoán: thủ tiêu mọi loại thuế phụ gia, đưa trợ cấp của cán bộ thôn xã, chi phí văn phòng của chính quyền thôn, xã và lương giáo viên vào do tài chính nhà nước cấp; xây dựng sự nghiệp công ích ở nông thôn phải do sự tự nguyện hoàn toàn của quần chúng, cho phép tự lo kinh phí có điều kiện, và quy định các loại kinh phí tự lo không được vượt quá 7% thuế nông nghiệp chính gốc.
Biện pháp này không những về căn bản, giảm nhẹ đóng góp của nông dân, dộng viên được tính tích cực sản xuất của nông dân vừa mới vươn mình mà còn thể hiện được tính ưu việt của Trung Quốc mới, được nông dân khen hay.
Thế nhưng, Trung Quốc mới vừa thành lập, chiến tranh Triều Tiên đã không hẹn mà tới, ngay sau đó, các nước phương Tây do Mỹ đứng đầu lại thực hiện “phong tỏa kinh tế” với Trung Quốc, trước những khó khăn trong và ngoài nước lúc đó Trung Quốc không thể thong dong và ổn thỏa tốt đẹp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa tình hình đó còn buộc nước ta, một nước lớn nông nghiệp kinh tế lạc hậu chỉ còn cách chọn con đường ưu tiên phát triển công nghiệp nặng để “tự lập trong khu rừng thế giới”. Loại tích lũy cho công nghiệp hóa quốc gia ấy, ngoài việc buộc nông thôn và nông dân hy sinh ra, dường như không có sự lựa chọn nào khác.
Nếu như không có một loại chế độ đặc biệt và sự sắp xếp về tổ chức, bất kỳ chính phủ nào cũng đừng hòng giải quyết được mâu thuẫn do những thặng dư sau thuế nông nghiệp mà 400 triệu nông dân phân tán cao độ nắm được trong tay. Vì thế nông dân Trung Quốc sau khi được chia ruộng đất không lâu, dưới sự tổ chức lại có kế hoạch của chính quyền Trung ương đã từ tổ tương trợ, hợp tác xã, rồi lại từ hợp tác xã cấp thấp quá độ lên hợp tác xã cấp cao, cuối cùng là công xã nhân dân. Dùng một câu đây hình tượng của Mao Trạch Đông, là: “Đầu tóc rối bời, không sao tóm được, kết thành đuôi sam, sẽ dễ nắm”. Thế là chế độ cơ bản tập thể hóa nông thôn cao độ phục vụ cho công nghiệp hóa thành thị quốc gia đã hình thành dần dần. Dưới thể chế kinh tế lũng đoạn tập trung cao độ đó, nhà nước rất thuận tiện trong việc chiếm lĩnh các loại tài nguyên của nông thôn Trung Quốc; khống chế toàn bộ quá trình kinh tế như sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng của nông nghiệp Trung Quốc và các ngành sản xuất khác, do đó mà thực hiện được việc chính quyền chiếm hữu không phải là đền bù toàn bộ giá trị thặng dư lao động của nông dân Trung Quốc, rồi chuyển hóa những cái đó thành tích lũy nguyên thủy tư bản công nghiệp thành thị.
Trong thời gian dài hơn 30 năm đó, đóng góp của nông dân Trung Quốc là to lớn và nặng nề nhưng còn tiềm ẩn chưa bùng nổ. Bởi vì sự đóng góp của nông dân đã từ “trước sân khấu” chuyển ra “sau màn”, từ đó nhà nước không còn phát sinh quan hệ kinh tế trực tiếp với hàng trăm triệu nông dân nữa, số hộ mà nhà nước thống nhất thu mua, thống nhất phân bổ ở nông thôn vốn từ 130 triệu nông hộ, rất nhanh biến thành 7 triệu tổ đổi công; rồi giảm bớt còn 790.000 hợp tác xã nông nghiệp; đến năm 1958 nhảy vọt lớn, chỉ cần 3 tháng trong tiếng trống, tiếng thanh la đã tổ chức không để sót một nông dân nào vào 52.781 công xã nhân dân.
Chúng ta không thể nào biết được, nông dân Trung Quốc rốt cuộc đã hy sinh bao nhiêu cho việc tích lũy nguyên thủy tư bản công nghiệp thành thị Trung Quốc, nhưng có thể nói thế này, ngôi nhà lớn công nghiệp của nước cộng hòa là do xương máu của nông dân Trung Quốc xây nên, bản nhạc huy hoàng nhất của xây dựng thành thị Trung Quốc, cũng là do xương máu và mồ hôi của nông dân Trung Quốc viết thành.
Ngay từ phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, do không tôn trọng ý nguyện của nông dân, tập thể hóa được thực hiện thông qua biện pháp chính trị to lớn, và từ đó đẻ ra dùng biện pháp hành chính chỉ huy mù quáng sản xuất nông nghiệp. Đến trước sau vụ thu hoạch mùa thu năm 1956, lợi ích của nông dân đã bị tổn thất nghiêm trọng, thu nhập giảm sút rõ rệt, nhiều nơi trong cả nước lục tục xuất hiện cơn sóng gió ra hợp tác, nhiều nông dân lên Bắc Kinh phản ánh, yêu cầu, còn có hàng ngàn nông dân hội họp, tuần hành, đòi ra khỏi hợp tác xã, có nơi thậm chí còn chia ruộng, chia lương thực, tự giải thể. Dự đoán theo thống kê, số hộ ra hợp tác lúc đó đã chiếm 5% hộ xã viên, không ít hợp tác xã tan vỡ.
Lúc đó về hai mặt yêu cầu ra hợp tác xã và xử lý vấn đề ra hợp tác xã đều xuất