← Quay lại trang sách

Ka Đô mây trắng,nắng xanh

Cuối năm nay cô lấy chồng, xuất ngoại. Số sướng thế mà sao vẫn có chuyện gì đó phiền muộn là sao nhỉ?

- Chuyện phiền muộn chi vậy dì? Mà sao mấy lần coi bói, người ta nói con lấy chồng, có lấy đâu.

- Tui không biết, chỉ thấy bài hiện lên phiền muộn.

Bà thầy bói già mắt nhoen nhoét gỉ đưa tay xào bài điệu nghệ, vừa xỉa tiếp những con bài mới, vừa thủng thẳng phán tiếp: “Chắc cú đấy, cô không lấy chồng năm nay thì tui giải nghệ”. Thanh nghe nhịp tim mình đập mạnh thêm một chút. Phải chắc chắn lắm bà thầy mới nói vậy. Chứ như bà, bỏ nghề bói toán ra chân cụt tay què cũng chẳng biết xoay xở vào nghề gì ở cái tuổi xấp xỉ 60. Nghĩ vậy, Thanh cười ngạo mình dễ dãi tin người. Con gái ở phố huyện Ka-Đô này, lên được thành phố đã là đổi đời, may mắn lắm, mơ chi xa xôi chuyện xuất ngoại. Nhà Thanh có vài người họ hàng ở Úc thật nhưng từ sau vụ tranh giành đất đai với bố Thanh không xong đã không còn quay lại. Có quay lại đi nữa cũng có ai đưa Thanh qua Úc qua ác làm gì. Chắc bà cụ già rồi, không còn minh mẫn nên phán nhầm.

Chuyện xảy ra ngay sau đó không phải là phiền muộn mà nặng lòng hơn phiền muộn gấp mười lần. Nhà Thanh nằm lưng chừng con dốc dẫn lên núi. Nhìn xa xa chập chùng mây trắng và những hàng thông xanh cao vút. Những ánh nắng xuyên thẳng từ tán thông xuống dường như cũng lung linh xanh mát. Trước đây, khi chưa có tấm bảng Karaoke vẽ mấy cô gái õng ẹo cầm micro đứng hát - sản phẩm của bố cô, một họa sĩ tự phong phố núi - thì đó quả là một con đường đẹp mê hoặc. Mỗi lần đi học về, cong mông dắt xe lên con dốc mà Thanh thường mong con đường dài, dài hơn nữa. Chỉ để được đi trên con đường lá xanh và mây trắng. Tấm bảng to bằng cỡ sải tay của Thanh, đứng chình ình vô duyên bên đường. Nhưng nhờ có sự vô duyên của nó mà nhiều người để ý. Quán mới mở hơn một tháng mà luôn có người vào kẻ ra.

Quán mở được gần nửa năm thì bố cất nhắc cô tiếp viên tuổi ngoài hai mươi lên làm... con nuôi. Cô bé thua Thanh 5 tuổi. Nhà đã ba chị em gái, lại thêm cô em gái bất đắc dĩ khiến Thanh không chút hào hứng. Mẹ lườm nguýt nhưng không phản đối. Hình như chẳng kiếm cớ gì được để phản đối khi cô bé ấy là con của một người bạn thời tiểu học của bố. Hơn nữa, bố Thanh có một cách đối phó với những sự phản đối rất đơn giản: Ông tự tay làm một chiếc quan tài bằng gỗ, sơn son nổi bật. Bất cứ sự phản đối nào cũng được bố đáp lại bằng cách đặt quan tài ra trước mặt, hỏi:

“Có muốn vào đây phản đối không?”.

Chiếc quan tài ấy đã lấy mất của bố bao mối quan hệ. Ngày ông bà mất, các anh, chị của bố từ nước ngoài về, đòi quyền thừa kế một phần mảnh đất vườn để có nơi còn quay về. Bố chẳng nói chẳng rằng, lôi chiếc quan tài từ nhà sau ra nhà trước, tay chỉ thẳng nắp quan tài đang mở toang hoác:

“Có ai muốn đòi đất thì vào đây ngồi nói chuyện. Ngày ông bà già bệnh liệt giường liệt chiếu, vợ chồng tôi lo hết, không ai giành phần. Giờ lại giành đất là sao?”.

Các bác sợ khiếp hồn, không ai dám quay lại. Ngày mẹ bỏ bố đi, vì không chịu nổi tính rượu chè, cục cằn của bố, ông tìm về được. Ông lại trỏ vào quan tài trong góc nhà, nói:

‘‘Lần đầu bà bỏ đi, tôi tìm về. Hoặc bà ở trong nhà, hoặc trong này. Lần sau nếu còn bỏ đi thì chỉ có duy nhất một lựa chọn: Ở trong này”.

Mặt mẹ xanh mét. Từ đó, không bao giờ Thanh thấy mẹ có sự phản đối.

Gần một năm thì không biết sao, “con nuôi” của bố bụng ngày càng to. Bố không nói gì, yêu cầu mẹ và Thanh phải chăm sóc tử tế cho mẹ con cô gái. Thanh thấy rõ sự uất ức của mẹ ngày càng tăng khi cái bầu ngày càng to. Cô gái thi thoảng nói bóng nói gió khoe: “Siêu âm 4 chiều, thằng cu có cái chim dài”. Rồi im bặt như vừa lỡ chạm vào phần tự ái của mẹ - người đàn bà một nách ba con vịt giời. Người làng đồn ầm lên là bố cũng có khả năng có con trai, cũng oai chứ không yếu. Bố vẫn lầm lì không nói. Năm ấy Thanh 25 tuổi.

Đứa bé vừa đẻ ra thì chết ngạt do nhau thai quấn hai vòng quanh cổ. Bác sĩ mới ra trường chưa có kinh nghiệm xử lý nên cứ hè nhau một, hai, ba lôi ra. Mẹ nó không biết bằng cách nào đó, ôm con nằm vào chiếc quan tài đỏ bố đóng. Sáng mai, khi mọi người phát hiện thì cả hai mẹ con đã lạnh ngắt. Cô gái đã tìm đến cái chết chỉ với một sợi dây thừng. Ngay sau cái chết của cô gái, công an kéo đến điều tra. Bất ngờ phát hiện ra thư tuyệt mệnh của cô gái gửi người tình. Cả làng vỡ lẽ hóa ra bố Thanh không lăng nhăng lít nhít, hóa ra lão ấy “đổ vỏ” chứ cái thằng mất dạy ăn ốc thì đã cao chạy xa bay đâu đó rồi. Mẹ nhìn bố ra chiều ngại ngùng vì đã từng không tin tưởng lòng tốt vô tư của chồng suốt gần một năm qua. Ngày bố mẹ cô gái vào đón xác con về quê, một chàng trai gần ba mươi tuổi xin đi theo đưa tiễn về tận quê. Ngồi trên xe, gã luôn miệng lảm nhảm “giá như, giá như”. Anh ta là khách quen của quán Karaoke ngày trước, cũng là bố của đứa trẻ - theo lời anh ta nói. Mẹ Thanh quyết định dẹp ngay tấm bảng Karaoke õng ẹo, giải tán đám nhân viên mắt xanh mỏ đỏ. Bán rẻ các thiết bị, đầu máy... rồi ngày đêm lên chùa tụng kinh gõ mõ. Bố vẫn thường hai tay ôm hai chai rượu lên trước cổng chùa gần nhà ngồi từ sáng đến tối. Lúc về không chai nào còn một giọt. Nhiều hôm nấu cơm tối xong, Thanh đợi bố mẹ từ chùa về mà cơm canh lạnh ngắt còn hơn cơm cúng.

Nhìn ra con đường trước nhà vẫn mây trắng nắng xanh, không còn tấm bảng, cũng không còn đẹp mà buồn hiu hắt. Thanh không còn cong mông đẩy xe mỗi buổi đi học về. Cô bắt đầu những tháng ngày đằng đẵng chờ phân công công việc. Thanh thấy ngại ngại mỗi khi nhìn ra con đường thông xanh vì cảm giác con đường sao xa ngái.

Bác Linh, anh trai bố từ Úc trở về, quên hết giận hờn về việc tranh chấp miếng đất. Chiếc quan tài màu sơn đỏ cũng đã không còn, những sự sợ hãi không còn. Bác về lần này xin bố mẹ cho bớt một đứa làm con nuôi, mai mốt cùng sang Úc. Bên ấy

hai vợ chồng già không con thấy cuộc sống nhạt vô cùng. Hai đứa em Thanh còn học cấp hai, cấp ba, dứt khoát không chịu đi. Thanh vừa ra trường, học xong cao đẳng còn khó xin việc. Đằng nào cũng là đi xin việc, chờ việc, qua đó có khi lại nhanh giàu giúp được bố mẹ. Mẹ ngưng gõ mõ, bà quyết định không lâu tới hai phút. Thanh cũng đã chán những cơn mơ thi thoảng lại hiện về chiếc quan tài gỗ, cô gái tóc dài và thằng nhóc vừa kịp quấn tã, chưa biết khóc. Gật đầu, Thanh chuẩn bị cho mình một chuyến đi xa. Mọi thủ tục giấy tờ rắc rối bác đã nhờ người lo, Thanh chỉ có mỗi việc là chờ đợi. Khi ngồi trên chiếc xe ngựa cũ xộc xệch, Thanh nhìn con đường dốc lên núi thêm một lần, lòng nao nao, tự hỏi mình đang làm đúng hay không. Cuối cùng, Thanh biện minh, số mình vậy, bà thầy bói già nói đúng một nửa.

Nơi bác ở như một làng người Việt thu nhỏ trên đất Úc. Thanh bất ngờ khi buổi chiều theo bác gái ra chợ, gặp cảnh toàn người Việt, ngồi chồm hổm bán từng mớ rau, con cá. Chẳng khác chợ ở quê là mấy. Có chăng, chợ nơi đây mua bán nhanh gọn, chợ chật chội hơn, đồ ăn không tươi ngon bằng mà thôi. Bác gái có một vườn rau trước nhà chuyên trồng các loại rau thơm cung cấp cho các hàng quán, khách hàng cũng chỉ toàn người Việt. Thấy Thanh tỏ vẻ ngạc nhiên, bác gái cười khùng khục, trọ trẹ giọng Nghệ:

“Nói thật với mi, tau qua đây gần hai mươi năm, trừ khi mô ra sân bay còn gặp người nước ngoài, còn lại chỉ gặp người Việt. Hồi tê ở Sài Gòn, ra khu phố Tây còn gặp nhiều Tây hơn qua đây”.

Hàng xóm chỗ Thanh ở thuộc hàng khá giả nơi đây. “Anh Hòa, giàu nhứt xóm, một mình nuôi con, vợ bỏ. Mỗi tuần tau giúp việc cho nhà nớ có 4 buổi mà hấn trả 200 đô” - bác gái tóm tắt ngắn gọn. Thi thoảng đi đâu xa anh lại đưa bé Nhím qua gửi bác, thấy Thanh anh vẫn chào bằng giọng Hà Nội ấm mềm. Khi về, anh tất tả dọn nhà cửa, chăm từng thìa cơm cho con, lại quay ra nấu nướng. Mùi khét lẹt của trứng cháy, cá cháy thường xuyên bay qua chỗ Thanh. Dù sao cũng còn hơn bố Thanh, chưa từng biết đến việc nhà. Qua bác gái giới thiệu, Thanh trở thành gia sư dạy tiếng Việt cho cô con gái năm nay lên 5 mà mới chỉ bập bẹ được dăm ba câu. Cô bé tỏ ra thích trò chuyện, gần gũi với Thanh. Có hôm, đang học bài, cô bé thản nhiên nói:

“Cô về ở với con đi, mẹ con đi lâu quá rồi không quay về nữa”.

Hòa lụi hụi kiểm tra lại ống nước gần đó nhìn lên, mắt buồn nẫu nuột khi gặp ánh mắt lúng túng của Thanh nhìn lại.

Thanh không hiểu nổi mình khi mỗi sáng cô lại muốn dậy thật sớm chỉ để ngồi nơi chiếc xích đu. Trước thềm nhà. Cuốn sách cô vẫn cầm trên tay chỉ là một cái cớ bởi một tuần cô chỉ đọc hết chừng 30 trang. Tâm trí Thanh để hết nơi nhà hàng xóm. Xuyên qua ô cửa, Thanh nhìn thấy Hòa đang cho bé Nhím ăn sáng. Con bé tíu tít nói gì đó, thi thoảng hai bố con cười híp mắt. Thanh thấy sự ấm cúng, vui vui len trong lòng mình. Hòa không mất nhiều thời gian để chinh phục Thanh. Người đàn ông trải qua một lần tình duyên gãy đổ có một sức hấp dẫn riêng. Huống chi, những nụ cười của cha con Hòa, những lo toan của Hòa, cả mùi đồ ăn thường xuyên khét lẹt khi anh quá lửa... tất cả dường như luôn khiến Thanh thấy xúc động trong lòng. Thanh biết mình yêu anh chẳng vì tài sản, chẳng vì anh đẹp, chẳng vì gì cụ thể. Chỉ vì thấy cần được gần gũi anh và bé Nhím. Sự cần ấy có khi trở thành khát khao. Nhưng Hòa không là người đon giản. Thanh luôn đọc được sự lo âu trong ánh mặt phiền muộn của anh nhìn mình.

“Anh không tin mình có thể đưa lại hạnh phúc cho em khi chính anh cũng không biết mình có đủ dũng cảm để đi tiếp bước nữa không. Anh vẫn còn nghĩ về vợ cũ nhiều, dù cô ấy bỏ bố con anh đi. Như vậy sẽ thiệt thòi cho em, anh thương em...” - Hòa nói. Thanh thấy có gì đó bóp nghẹn nghẹn lồng ngực mình.

Khi yêu thường mù quáng. Hai chuyện tưởng chẳng có gì liên quan ấy thực ra lại cực kỳ liên quan. Khi Thanh nhận ra thì không còn biết mình sẽ quay đầu hay bước tiếp. Thanh hạnh phúc khi chọn cho mình người đàn ông đã có con riêng, cả khi người ấy thẳng thắn nói anh ta chưa quên được vợ cũ. Thanh hạnh phúc khi dọn về ở chung nhau đã hai, ba tháng anh vẫn chưa có đủ thời gian để tổ chức đám cưới. Thanh ngờ rằng có khi chính anh đã chán đám cưới. Anh nói, đằng nào cũng đã đăng ký kết hôn, đám cưới chỉ là hình thức. Cô chấp nhận cách giải thích ấy, dù khát khao một lần mặc váy cô dâu. Tất cả chỉ vì yêu.

Tối qua bé Nhím làm Thanh buồn đến mất ngủ. Trong lúc dọn dẹp phòng con bé, Thanh gặp chiếc áo hoa người lớn cũ kỹ. Chiếc áo có mùi hăng hăng, ngai ngái do mặc dở mà chưa giặt. Chẳng biết của ai mà con bé tha về để ngay bên gối nó. Khi Thanh định cho vào máy giặt thì con bé lao như một mũi tên bắn từ đâu đó ào ra. Nó giằng mạnh chiếc áo trên tay Thanh:

“Áo của mẹ con, cô không có quyền chạm vào!”.

Nó vùi mặt vào chiếc áo, vai rung lên khóc tức tưởi. Chiếc áo ấy con bé giữ suốt hai năm nay từ ngày mẹ nó ra đi. Nó không cho ba nó hay Thanh giặt vì không muốn mất đi mùi - của - mẹ. Thi thoảng nhớ mẹ, con bé lại lén ba lôi ra để dưới gối hít hà, sáng mai lại gấp gọn gói kỹ trong bao để giữ mùi - của - mẹ.

Cuối cùng Hòa cũng thu xếp được một ngày vào cuối thu để làm đám cưới. Thanh đang xem lại lịch đặt vé máy bay để hai vợ chồng về quê ra mắt gia đình thì điện thoại đổ chuông. Đằng kia, sự im lặng kéo dài khi nghe tiếng Thanh. Thanh định đặt máy xuống thì giọng người đàn bà rành mạch:

“Cô thực sự yêu Hòa à? Kể cả khi anh ấy vẫn thường quan hệ với vợ cũ? Chúng tôi vừa đi nghỉ mát ở biển về cuối tuần rồi. Chắc cô không tin vì chuẩn bị đám cưới phải không? Dễ thôi, chỉ cần hỏi anh Hòa là cô sẽ biết”.

Cô lặng im, chưa biết nói sao thì người đàn bà tự xưng tên Thoa, nói tiếp:

“Anh ấy vẫn thường xuyên hẹn hò, chúng tôi vẫn rất quyến luyến nhau. Tôi nghĩ cần nói điều này để cô có thể suy nghĩ lại”.

“Nếu chị vẫn hẹn hò với anh ấy, vẫn yêu thương nhau, sao chị lại bỏ chồng bỏ con theo người đàn ông khác?”.

“Ở đây đâu như cái xứ nhà quê như cô. Cô hỏi kỳ quá. Hơn nữa, cô bỏ tính nhà quê thích tọc mạch chuyện người khác đi, cô không có quyền hỏi tôi điều ấy”.

Thanh thả phịch người xuống bộ bàn ghế đắt tiền. Lòng trống rỗng.

Thanh kể lại cho Hòa nghe cuộc đối thoại ngắn ngủi ấy. Thanh ước ao giá Hòa có thể chối quanh. Nhưng không, anh cười:

“Đúng là em nhà quê thật, chuyện đó không quan trọng như em nghĩ”.

“Vậy quan trọng là gì?”,

“Là anh vẫn lo toan công việc làm ăn, lo cho em và con một cuộc sống đủ đầy, không thua kém ai. Anh vẫn yêu con, yêu em. Hiện tại của anh là cuộc sống chúng ta. Cô ấy chỉ là quá khứ mà anh chưa thể dứt”.

“Tình yêu có thể chia sẻ rành rẽ vậy sao anh?” - giọng Thanh như hụt hơi. Nhấp ngụm nước trà, anh nói tiếp,

‘‘Anh từng nói em sẽ thiệt thòi vì anh không thể quên được vợ cũ. Anh không thể dối Thanh, dối lòng mình khi điều đó là sự thực. Nhưng chỉ là gặp gỡ qua lại thôi, quay lại thì không bao giờ. Vì cô ấy từng bỏ bố con anh ra đi. Bây giờ cô ấy đang lục đục với chồng, anh là chồng cũ, không lẽ không chia sẻ. Em hãy cho anh thêm một thời gian nữa để có thể dứt khoát với vợ cũ.’’

Thanh sợ mình không đủ bản lĩnh để tiếp tục khi chính Hòa cũng không thoát ra khỏi mớ bòng bong mâu thuẫn giữa tình yêu và oán giận của mình.

Chuyến bay về Việt Nam Thanh đặt chỉ cho riêng mình. Cô nói với Hòa sẽ về trước giải quyết một số việc riêng tư, khi ổn sẽ báo Hòa về sau. Trở lại con đường dốc dẫn lên núi đầy mây trắng nắng xanh, lại thêm một lần, như ngày ra đi từ con đường này, Thanh tự hỏi không biết lựa chọn này liệu có chính xác? Nhịp chân ngựa gõ lốc cốc trên con đường bụi đỏ cao nguyên khiến Thanh thấy muộn phiền đã lặng lẽ ra đi nơi nào đó. Trước khi đi, Thanh có để lại bức thư nói với Hòa rằng:

“Em nhà quê, em thuộc về Ka-Đô chứ không thuộc về nơi này. Nếu vợ cũ anh không thể hàn gắn với chồng mình, anh tha thứ, quay lại với chị ấy đi. Cả anh và con không ai có thể quên chị ấy...”.