← Quay lại trang sách

100 CUỐN SÁCH ẤN ĐỘ-1/ Những trường ca Rigvéda

Những bài trường ca Rigvéda không phải những bài ca bình thường, mà là những lời ca sùng bái sự hài hòa của vũ trụ. Trong thời cổ, mọi dân tộc đều biết đến sự hài hòa bí ẩn của âm nhạc - những mức độ thi ca là những tác động phép thuật: tạo dựng nên sự đồng điệu trong linh hồn người, trong cộng đồng, trong quốc gia, trong vũ trụ.

Những bản trường ca trả lại vị trí cho một trật tự bị phá vỡ. Ở Ai Cập hay ở Mexico những bản trường ca cất lên lúc bình minh hay hoàng hôn là lúc con người mong muốn áp dụng thứ trật tự hợp luật-có quy củ-hài hòa của mặt trời vào đời sống trần gian.

Người ta nói, cá ngóc đầu lên khỏi mặt nước khi nghe những bài ca của Orpheus: bởi lời hát cũng tạo ra sự đồng cảm giữa thế giới người và thế giới động vật. Giữa con người với nhau, lời ca thực hiện tình huynh đệ siêu nhiên, giữa các vật chất thực hiện một trật tự, và trong linh hồn người thực hiện một đời sống trong sạch và đẹp đẽ.

Giữa các bản trường ca thời cổ, những bài ca của Rigvéda là những bài đẹp nhất.

2/ Upanisad

Nếu không phải một trăm mà chỉ cần cứu ba cuốn sách thôi, thì chắc chắn phải có Upanisad trong đó. Upanisad (có nghĩa là Những Lời Dạy Dỗ Bí Mật) cho rằng, thiên nhiên vật chất có thể kinh nghiệm chỉ là hiện thực thứ hai. Hiện thực đầu tiên, một hiện thực đích thực vô hình mang tính chất tinh thần. Thiên nhiên vật chất chỉ là ảo ảnh (maja) của linh hồn (átman) bất diệt và tồn tại vĩnh hằng, và thiên nhiên vật chất không có sự sống độc lập của nó.

Tri thức lớn mang tính chất quyết định này tự con người không thể nhận ra, không bao giờ có thể thấu suốt, rằng cái giả hợp bao bọc và xác định đời sống của nó lại không phải là hiện thực.

Vị thần tinh thần lớn nhất, Brahman, đã diễn đạt Upanisad trong buổi bình minh của mọi thời gian cho các nhà thông thái cổ lớn. Và Upanisad là hợp tuyển của những lời tuyên ngôn này.

Bất cứ một tác phẩm nào của cá nhân con người viết ra cũng không thể so sánh nổi với Upanisad về vẻ đẹp và về sự vĩ đại của nó.

Bản dịch Upanisad ra tiếng Hungary đầu tiên đang sắp sửa ra mắt bạn đọc (khoảng những năm 1940 - ND). Bản dịch ra tiếng Anh của Max- Müller có nhiều nhầm lẫn; những bản dịch từ tiếng Do Thái ra tốt hơn. Bản dịch tiếng Đức của Deussen nhạt nhẽo.1

3/ Sankja (Sankhya)

Một cuốn sách tuyệt vời. Là lời chú giải siêu hình học hoàn hảo hình thành từ sự kết hợp đồng điệu giữa nhận thức sắc như dao cạo và trí tưởng tượng dũng mãnh cùng trực giác nhạy bén. Sankja có quan hệ họ hàng triết học thần bí dựa trên kinh Kabbala của Judea, lí thuyết số học của Pithagoras và các quẻ trong Kinh Dịch của Trung Hoa. Có thể đọc tác phẩm này từ các bản dịch tiếng Anh khá tốt.

4/ Patandzsali - Yoga - Sutra

Yoga là phường pháp hợp nhất với tinh thần của thế giới cổ. Có nhiều loại yoga: yoga sức khỏe (hatha), yoga hoạt động (karma), yoga tự dâng hiến (bhakti). Mỗi loại yoga đều là một trong những khả năng để hợp nhất với Vũ trụ. Yoga (được gọi là) radzsa-yoga là nền tảng và vinh quang của các loại yoga. Patandzsali, nhà thông thái cổ vĩ đại đã viết như vậy.

Tác phẩm mà Patandzsali để lại cho chúng ta, kẻ chưa nhập định không thể hiểu và cũng không biết sử dụng. Phần lớn các câu kinh (sutra) là những câu ngắn như một kí hiệu, hoặc chỉ là các từ. Tác phẩm của Patandzsali chỉ có thể sử dụng bằng những lời giải thích phù hợp. Số lượng các lời giải thích khá thất thường.

Nếu ta hỏi lời giải thích nào đúng nhất, câu trả lời là: con người hiện đại nên sử dụng hai lời giải thích-bình luận, một của Ấn Độ cổ, hai là của châu Âu hiện đại. Chỉ như vậy mới khắc phục một cách có hiệu quả những khó khăn gặp phải khi đọc tác phẩm này.

Các bản dịch tốt nhất là Anh ngữ và của J. Haver, tiếng Đức.

5/ Mahabharata

Thi phẩm anh hùng ca của Ấn Độ nói về thế hệ của các Bharata. Trong tác phẩm này những câu chuyện cổ tích mê đắm, những đoạn thi ca đầy sức quyến rũ, những tư tưởng, các giấc mộng, những đam mê, sự diệu kì, các thần linh, các loài ma quỷ, những con người mang tính chất siêu hình học lớn cứ lẫn vào nhau, như thế giới tinh thần của Tạo Hóa trong khoảnh khắc tạo dựng.

Từ tác phẩm Mahabharata - một sắc màu, âm thanh, hình thức duy nhất của thế gian cũng không hề vắng thiếu. Nếu thế gian không là gì khác ngoài sự phản chiếu của linh hồn (atman) vĩnh cửu, thì Mahabharata không là gì khác ngoài sự tổng hợp hóa thế gian đã phản chiếu ấy.

Ở đây ai cũng bắt gặp phần của mình: con trẻ trong các câu chuyện, người đang yêu trong các bài ca say đắm, nhà thông thái trong Bhagavad-gita - trong thi phẩm triết học đẹp nhất trần gian này.

Chúng ta có nhiều bản dịch Mahabharata tốt, bởi dịch tồi một thi phẩm như thế là điều phi lí. Ít nhất có năm trăm bản dịch Bhagavad-gita, và hàng nghìn lời bình luận về nó.

6/ Sách luật của Manu

Ai không hiểu nhiều về sự vật, sẽ chống lại việc đưa cuốn sách luật của Manu vào danh mục một trăm cuốn sách. Nhưng người nào biết rằng có rất ít những tác phẩm mà từ đó có thể hít thẳng vào phổi mình làn không khí trong sạch và trực tiếp của thời cổ, người đó sẽ đồng tình với việc lựa chọn cuốn sách này.

Manu không viết một bộ sách luật giống như các hợp tuyển Quy định Pháp Luật và các luật lệ nhân tạo một cách ngớ ngẩn, Manu chống đối đời sống ở Cục Lưu Trữ văn bản Xử án ngày nay.

Đúng ra, những cuốn sách luật phải là những tác phẩm tuyệt tác; Stendhal trước khi viết, sáng sáng đã đọc Code Napoleon - và theo ông: “đây là tuyệt tác của các khái niệm chính xác”.

Manu cũng là một kiệt tác, nhưng theo kiểu khác. Cuốn sách tràn ngập kiến thức tâm lí học, xã hội học, sư phạm học, đầy ắp sự thông thái, sự trào phúng, sự hoang tưởng, sự huyền bí, siêu hình học, vói một trình độ mà nếu ai hiểu được nội dung của nó sẽ đọc một lèo như đọc Dostojevski.

Nhưng điều quan trọng nhất: ai đọc Manu sẽ quay trở lại với trạng thái cổ cội nguồn của con người. Và bỗng thấy những linh hồn của thế giới bên kia, các thần linh, những ngôi sao, những loài cá, thực vật, khoáng sản một lần nữa trở thành người anh em họ hàng thân thiết của mình.

Cuốn sách này có nhiều bản dịch tiếng Anh, Đức, Pháp tốt nhưng cũng chưa đủ chuẩn.

7/ Những lời Đức Phật dạy

Người ta cho rằng Đức Phật là con người vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại. Tên thật của Ngài là Sákjamuni - kẻ kế vị ngôi vua, nhưng đã từ bỏ ngai vàng, xuống tóc và dạy dỗ về sự từ bỏ. Bởi vậy Ngài có tên là Buddha, có nghĩa là giác ngộ.

Phật giáo xuất phát từ cái là siêu hình học cổ: thế gian hiện hữu là ảo ảnh, hiện thực duy nhất là linh hồn vô hình. Nguyên nhân của mọi đam mê, mọi phiền não, mọi nhầm lẫn chính là sự dính mắc vào những ảo ảnh phi hiện hữu.

Những lời Đức Phật dạy có sức mê hoặc đến nỗi dù ai mới chỉ đọc một lần hoặc thoáng qua cũng đều không thể quên nổi, và luôn luôn muốn đọc lại. Tuyển tập Lời Phật dạy là một ví dụ cho thấy những nội dung lớn thường xuất hiện trong hình thức của cái đẹp quý phái nhất.

Bản dịch đẹp nhất không thể so sánh là bản dịch tiếng Đức của Karl Eugen Neuman, có nhiều chỗ thống nhất với bản gốc.

8/ Sankara - Bình luận kinh Védanta

Đây là một cuốn sách của sự an bình và quán tưởng sâu lắng. Sankara viết bình luận cho Upanisad. Nếu ai mơ ước giá ở lâu trong một cộng đồng người truyền đạt sự hiểu biết một cách thoải mái như ở nhà mình, kẻ đó hãy “vớ” lấy cuốn sách này mà nghiền ngẫm trong vòng vài ba tháng.

Trong toàn bộ nền văn học thế giới không ai có thể viết một cách đầy cảm hứng như Sankara. Các nhà văn, nhất là phần lớn các nhà văn châu Âu khi viết hoặc bắt buộc phải viết, thường khổ sở với hiện thực. Giống như ông già Tolstoj. Hoặc không khổ sở thì cũng chỉ vì bắt buộc đành hiến mình cho một trạng thái ma quỷ còn (được gọi là) viết.

Con người luôn luôn có cảm giác muốn được giải thoát và được nhận cái tốt hơn cả cho mình. Có thể nhận ra kinh nghiệm này từ Shakespeare, từ Joyce, y chang như từ Baudelaire hoặc từ Sophoklés. Con người nói chung không thích viết, càng nhà văn lại càng không.

Bởi vậy những nhân vật thật sự lớn như Khổng Tử, hoặc Đức Phật hoặc Hermes Trismegistos hay Pithagoras, Sokrates không viết, hoặc viết rất ít như Herakleitos hoặc Lão Tử.

Văn bản của Sankara mang lại niềm cảm hứng thần tiên và con người tất nhiên biết thưởng thức tâm trạng này.

AI CẬP 9/ Tử Thư Ai Cập (Pert em heru)

Pert em heru, có nghĩa là bước ra khỏi ban ngày. Đây là cuốn sách về người chết của Ai Cập.

Thực chất đây là hợp tuyển của các lời kinh, các câu nói, các bài ca phát ra trên các bến đỗ quan trọng của linh hồn luân chuyển.

Nếu ai muốn làm quen với bầu khí quyển thế giới âm hoàn hảo, đúng là cần phải đọc Tử Thư Ai Cập. Sẽ nhận ra hiện thực thật sự là hiện thực-linh hồn, và ở đây tất cả phụ thuộc vào ánh sáng riêng, sự thức tỉnh riêng của mỗi linh hồn.

Chúng ta biết đến ba bản dịch Tử Thư Ai Cập: của Lepsius, của Naville và của Budge. Bản tiếng Hungary sắp sửa có.

10/ Hermes Trismegistos

Một vài văn bản cổ Hi Lạp đều mang tên Hermes Trismegistos. Truyền thống Hermes Trismegistos thực ra nhiều hơn thế. Rực rỡ nhất là sự bí ẩn chứa trong mười câu nói của văn bản Tabula smaragdina; và văn bản Poimandrész hoàn toàn thần bí; nhưng hệ thống kí hiệu số còn thần bí hơn nữa, nhiều người đã thử tìm cách giải mã chúng, gần đây nhất có Encausse và Abbé Constant.

Truyền thống văn hóa nhân loại cho rằng Hermes Trismegistos nhận một tri thức lớn nhất thế gian từ các sức mạnh thiêng của vũ trụ. Tri thức này thể hiện như một dạng phép thuật và được đẳng cấp tinh thần của Ai Cập gìn giữ. Pithagoras mang tri thức này vào châu Âu. Chúng ta vẫn chưa biết về bản chất của tri thức Hermes. Bản dịch được sử dụng thông thường nhất là của dịch giả G. R. S. Meadé.

TRUNG QUỐC 11/ Sử kí

Các câu chuyện kể, các cổ tích, truyện thần thoại, triết học, đạo đức học - trong thời cổ - thường gói gọn vào một tác phẩm duy nhất. Khoa học rất tức giận với một tác phẩm như vậy bởi không giải mã nổi những điều mà những cái đầu điên rồ nghĩ đó là sự thật trong đó.

Ơn Chúa lòng lành! Trong Sử kí nhiều sự thật mà ít cảm xúc khi viết về sự kiện. Cuốn Sử kí này chúng ta được biết do Đức Khổng Tử tìm lại, thu thập. Có thể nhận ra điều này: Một cuốn sách giản dị, nghiêm túc, tràn ngập ân sủng. Nó chứa sự thật xác thực đến nỗi có thể cho rằng không có tí chất liệu văn học nào trong đó.

12/ Lão Tử

Nếu tất cả các cuốn sách đều viết như Đạo Đức Kinh của Lão Tử thì không cần đến một trăm tập sách, mà chỉ cần trên dưới một trăm cuốn vở mà thôi.

Toàn bộ tác phẩm Đạo Đức Kinh chỉ có tám mươi mốt khổ thơ: đây là tri thức nguyên mẫu về lịch sử, về linh hồn, về cộng đồng, về số phận, về đời sống, về sự thật, được viết theo cách thức đến đứa trẻ cũng hiểu nổi, nhưng đối với một nhà thơ lớn lại chỉ có thể viết nổi trong giây phút xuất thần.

Đạo Đức Kinh là sự bắt đầu và kết thúc của mọi tri thức đích thực về đời sống.

13/ Khổng Tử

Bản thân Khổng Tử không viết, chỉ đi thu thập các cuốn sách lớn của thời cổ lại để giải thích. Luận Ngữ là cuốn sách các học trò viết lại các lời dạy, các đối thoại của ngài.

Thực ra cần luôn luôn như vậy mới đúng. Con người hãy đừng viết gì hết, chỉ nên ghi chép lại những lời của các bậc Thầy của mình: Platon ghi lại lời của Sokrates, của Jen Hui Kung. Như vậy sẽ đúng với một trật tự là con người không rơi vào sự kiêu căng mà biết dùng cả đời mình để phụng sự Thầy.

Những câu trong Luận Ngữ là sự thể hiện, là lời tuyên bố của linh hồn đích thực. Trong đó chứa đựng mức độ của sự quan trọng, của sự thật và sự sâu sắc. Cái gọi là sự thông thái chỉ là thứ yếu. Ở Đức Khổng Tử chúng ta không ngạc nhiên về tri thức mà chúng ta ngạc nhiên vì một trái tim chân thật.

14/ Trang Tử

Trang Tử là một kiểu người khác biệt, giống như Sokrates, như thánh Phao lô và Nietzsche - người ta nói, là những con người của nghịch lí.

Điều nghịch lí trong họ là họ không đòi hỏi những giá trị giả của con người, mà đòi hỏi những giá trị thật sự của thế giới tinh thần vĩnh cửu, và vạch trần những mâu thuẫn tự thân của con người.

Dạng người này có một trí tuệ sáng láng cực kì và là bậc thầy của thứ ngôn ngữ tuyệt tác. Chưa hề có ai và chưa bao giờ có ai biết nói như Sokrates và viết như thánh Phao lô, Nietzsche và Trang Tử.

Dịch Trang Tử khó, bởi chính ông đã siêu việt.

15/ Lý Bạch

Đây là thứ thi ca mang hương vị của trà. Là thi ca của những cây hoa đào đang nở. Là thứ thi ca của những nàng con gái trẻ đang tắm trong biển xanh trinh khiết. Là thi ca của những con chim họa mi tháng Năm. Đây là tác phẩm thi ca hữu hạn nhất - thứ thi ca của sự bất tử.

TÂY TẠNG 16/ Naropa

Những vị thánh lớn của Tây Tạng là Tilopa, Naropa, Marpa và Milarépa. Giữa các vị thánh này Naropa là một đạo sĩ lớn, một sinh linh khao khát tận cùng những bí ẩn vĩ đại nhất và nguy hiểm nhất, một kẻ nếu quả thực độc ác, dư sức hủy diệt toàn bộ nhân loại, như Azazel.

Tiểu sử của ông cho biết ông đã chinh phục các sức mạnh thần bí như thế nào, và: càng học nhiều điều mầu nhiệm con người càng nhìn sâu sắc hơn bản chất ảo ảnh-bị phù phép của thế gian, thế gian này chính là giấc mộng của linh hồn.

17/ Milarépa

Milarépa là một thi sĩ, một vị thánh, một nhà huyền học, một nhà khắc kỉ, một ông thầy, sống bốn mươi năm trên đỉnh Himalaja bằng rau tầm gai, nhưng có một tri thức mà nếu ông nói ra, đến các vị thần sống trên trời cũng phải lặng yên để lắng nghe, và đi theo ông.

Từ tiểu sử của ông chúng ta biết ông đã học để biết dựa vào bão tố, mưa dông để hủy diệt môi trường, giết người từ xa, đi lại trên không… phép màu thần thông thực ra có thể học dễ dàng. Cái khó hơn là sống một đời sống hoàn toàn trong sạch và thiêng liêng. Và mục đích không phải phép thuật mà là một đời sống trong sạch. Bởi vậy đây là một Milarepa hiện đại: một cuốn sách của một con người thời hiện đại lầm lạc đã thức tỉnh.

18/ Bardo Tödol - Tử Thư

Đây là cuốn sách của Người đã Chết ở Tây Tạng. Ai không biết cuốn Tử Thư này người đó không biết đến khoa học của một cái chết đúng đắn.

Đây là cuốn sách độc nhất giữa tất cả các cuốn sách mà con người biết về vật lí học, về hệ thần kinh, các cơ bắp và hệ xương, nó giải thích cái gì là cái chết, cái gì là linh hồn khi sự biến đổi bí ẩn của con người sau cái chết hòa thành tinh thần.

Từ Tử Thư Tây Tạng tất cả mọi người đều rõ: linh hồn hoàn toàn tự do, phi giới hạn, vô tận, nó làm cái nó muốn, và quyết định cái cần phải xảy ra. Những gì nhìn thấy như một sự bắt buộc của môi trường bên ngoài không là gì khác ngoài chính là một gánh nặng mà linh hồn tự chất lên bản thân nó, và có thể vứt bỏ khi linh hồn muốn.

Đức Lạt Ma Kazi Dawa Samdup là người dịch Tử Thư Tây Tạng ra tiếng Anh.

19/ Phép thuật Tây Tạng

Đây là cuôn sách giáo dục tâm lí phép thuật, là cuốn sổ tay không thể thiếu của tất cả các nghệ sĩ, thi sĩ, triết gia, chính trị gia, người tu hành nghiêm túc, là cuốn sách mỗi buổi sáng trước khi bắt tay vào công việc, cần phải đọc nó.

Một tác phẩm tỉnh táo và lạnh lùng. Không biết đến sự mặc cả hay đòi hỏi, không có những ảo tưởng, đam mê duy nhất của nó là thoát khỏi những ảo ảnh của thế gian.

Là văn bản của các thực hành, của yoga Tây Tạng nhằm thanh tẩy linh hồn. Và cái có sức mạnh lớn nhất: csöd. Theo nhà khổ hạnh Tây Tạng con người không xây đắp gì hết - nó chỉ có nhiệm vụ duy nhất là phá vỡ và làm sụp đổ.

Những thực hành yoga này sẽ làm sụp đổ một cách có hệ thống tất cả, không cần đến thù hận, sự nóng vội, sự giận dữ hay chiếm mất nhiều thời gian chỉ để linh hồn lấy lại tự do nền tảng của nó.

Cuốn sách này cũng do Đức Lạt Ma Kazi Dawa Samdup dịch ra tiếng Anh.

JÚDEA 20/ Hénoch

Trưởng lão Hénoch, hậu duệ đời thứ năm của Adam kề chuyện về thiên thần chống đối Azazel cùng đồng bọn. Có những phần trong cuốn sách độc nhất vô nhị này nói về bản chất thánh thượng: đặc biệt lúc Thượng Đế thông qua Hénoch nhắn nhủ tới các thiên thần phạm tội.

Nếu con người đọc một cuốn sách như vậy sẽ cho rằng cứu một trăm cuốn sách là nhiều, mười cuốn là đủ, những cuốn nói về bản chất của lịch sử con người.

Hénoch chỉ ra toàn bộ những gì được gọi là sự độc ác nhất trong lịch sử nhân loại, nhưng cũng chỉ ra những điều tốt nhất. Đây là cuốn sách về sự bí ẩn của những mâu thuẫn tuyệt đối.

21/ Cựu Ước

Không phải vì ân sủng cần cầm lên cuốn Cựu Ước, cũng không phải vì nó là tiền đề và điều kiện của Kitô giáo. Trong Cựu Ước nền tảng của mọi hiện hữu thế gian của chúng ta xuất hiện cùng một lúc. Ngày nay người ta sẵn lòng đặt giả thiết rằng số phận nhân loại dựa trên các loại chủ nghĩa (izmus). Không! Số phận nhân loại nằm trên những cái tên thiêng.

Veda là cuốn sách về hiện thực, Cựu ước là cuốn sách của những cái Tên lớn. Nếu ai đó muốn biết đấy là cái gì, cái có trong Cựu ước, cần phải đọc một lần như thể chưa bao giờ nghe đến, biết đến nó, thiếu vắng hẳn những sự dối trá ghê tởm của trường học và giới giáo sĩ.

Thật tai hại khi chúng ta không có lấy một bản dịch Cựu ước đáng tin cậy! Những cuốn sách ngày nay đầy rẫy những sự hiểu lầm hoặc những gian dối cố tình.

22/ Zóhár

Nếu ai đã đọc mười trang Zóhár, sẽ nói: không thể tin được đây là cuốn sách mà con người viết.

Rất có thể xưa kia từng có các nhà thông thái lớn, những người biết những bí mật này nọ, từng có những linh hồn tuyệt vời trong sạch, những kẻ được các thiên thần rỉ tai cho biết một cái gì đó từ tri thức lớn nhất của Trời, đã từng có nhiều nhà thông thái và một người nào đó đã tổng hợp lại tri thức của nhiều linh hồn trong sạch này.

Sách Zóhár xuất hiện như thế. Và cũng có thể không phải một người mà là cả một nhóm bác học. Ở đây không phải là tri thức của một trăm năm hay một nghìn năm, bởi dạng tri thức này không thể đo bằng thời gian.

IRAN 23/ Ardai Viraf

Nhà thơ Iran Ardai Viraf trên những đổ nát tuyệt vọng của nhân dân mình buồn rầu hướng về thần Ánh sáng Ahura Mazda để cầu nguyện. Thần Mazda bèn gửi thiên thần xuống để nhà thơ bằng chính mắt mình có thể nhìn thấy toàn bộ vương quốc của thế giới bên kia.

Thi phẩm của Ardai Viraf nhiều chỗ giống thần khúc của Dante, và cũng giống Aenei và Odüsses và Érje - cuộc du hành sang thế giới bên kia của Platon. Những tác phẩm của Ardai Viraf đẹp nhất giữa các tác phẩm này.

Đã có nhiều bản dịch sang tiếng Anh bằng thơ và băng văn xuôi. Bản dịch sang tiếng Hungary đang sắp sửa ấn hành.

Ả RẬP 24/ Một Nghìn Một Đêm Lẻ

Sẽ xảy ra điều gì nếu một ngày một ai đấy viết về triết học của tác phẩm Một Nghìn Một Đêm Lẻ? Một khi nào đấy, một ai đấy sẽ làm, nhưng điều này cho đến nay vẫn chưa xảy ra bởi vì trong chúng ta còn quá nhiều độc dược, sự ghen tị, sự trả thù, sự ích kỉ, tóm lại sự tăm tối.

Một Nghìn Một Đêm Lẻ trái ngược lại với tất cả những điều trên: đấy là sự hiền hậu, sự hài hước, sự thân ái, trái tim trong sạch, sự thanh thản, tóm lại niềm vui.

Cần một lần nghiêm chỉnh biết đến niềm vui. Ví dụ, trên trường đại học trong giờ xã hội học đọc những mẩu chuyện của Harun al Rasid.

MEXICO 25/ Sahagun

Hoàng tử Ấn Độ xuất thân từ gia đình vua Azték, người trở thành một tín đồ Tây Ban Nha và viết cuốn sách Sahagun nói về các vị thần Ấn Độ.

PERU 26/ Các thần tượng Peru

Không có một cuốn sách nào xa lạ hơn cuốn sách này, và nếu ai hiểu, sẽ thấy có rất ít cuốn sách khiến người ta nhận ra bản thân mình như vậy. Cái dân tộc ít lời khủng khiếp này cuối cùng vẫn thổ lộ ra một vài từ thật khó hiểu. Bạn có thể trầm tư suy nghĩ xem nghĩa là gì.

AFRIKA 27/ Cổ tích da đen

Thời kì bùng nổ của điêu khắc và hội họa da đen đã lùi xa: châu Âu đã hiểu ra cần phải hấp thụ những điều này. Nhưng thời gian để bùng nổ văn học da đen chưa đến, sẽ đến, có thể sẽ không phổ biến như nhạc jazz của âm nhạc da đen.

Để giới thiệu, có thể nói đến tập cổ tích da đen CÁC PHÙ THỦY, trong đó có tất cả những đặc tính nhân vật của E.T.A Hoffmann, Dostojevszkij, Dante, Rabelais, Joyce, Homeros, Swedenborg, Swift và Rousseau.

Tập cổ tích châu Phi này do Leo Frobenius sưu tầm biên soạn.

PHÍA BẮC 28/ Kalevala

Nếu ai đó hỏi: thiên nhiên là gì? - có thể bình tĩnh trả lời, đó là cái mà Kalevala nói đến. Thiên nhiên không phải hiện thực, không phải nhu cầu, không phải quân thù, chẳng phải một thế giới độc lập với con người, một cái gì bên ngoài. Thiên nhiên là cái mà Kalevala nói đến.

Không phải là các con vật, các loài cây cỏ, đất, đá, thời tiết, cùng với bốn mùa. Thiên nhiên là cái mà Kalevala nói đến. Thiên nhiên không lãng mạn, không khắc nghiệt, không êm đềm, không xấu, không ngẫu nhiên, không khắc nghiệt, không quyến rũ. Thiên nhiên là cái mà Kalevala nói đến.

HI LẠP 29/ Homeros

Người ta cho rằng đây là người cha của thi ca châu Âu đến tận hai nghìn năm trăm năm, và chính bởi vậy người ta đã hiểu sai tác phẩm.

Giờ đây khi sắp sửa trôi qua hai thế kỉ rưỡi chúng ta bắt đầu hiểu những ý chính của tác phẩm.

Tại sao lại khó hiểu đến thế - một tác phẩm nhẹ nhàng như vậy?

Homeros làm như thể không có những ý đồ gì đằng sau tác phẩm. Tất nhiên Nietzsche là kẻ bổ sung, kẻ không là ai khác ngoài một Homeros của những ý tưởng đằng sau, và Homeros là một Nietzsche thiếu những ý đồ hậu trường.

Cả hai kẻ là những ảo tưởng lớn của con người vĩ đại, con người cội nguồn, con người còn măng tơ vừa rời khỏi tay Tạo Hóa. Là Akhileusz, Odusszeusz và Ubermensch (siêu nhân).

30/ Szappho

Giữa một trăm cuốn sách, chín mươi chín người đàn ông, duy nhất một phụ nữ.

Chỉ vài đứt đoạn: một hai khổ thơ nguyên, còn lại chỉ vài dòng, hoặc năm mười câu - nhưng câu ra câu!

Người ta viết đã hai nghìn năm mà vẫn nóng bỏng. Tất nhiên một giữa một trăm nhưng không động vào bất kì ai. Có thể giữ thể nghiệm lớn lao về thi phẩm với Szappho. Con người học thơ không cần sách. Nhưng nếu họ đọc tác phẩm này, sẽ biết thêm cái mới. Và luôn luôn - dù rất biết - họ vẫn muốn đọc lại, đọc lại nữa.

31/ Anakreon

Nếu ông chỉ viết mỗi bài ca Dế thôi, thì bài thơ này cũng đã có thể cho vào một mục lớn. Nhưng ông còn viết nhiều bài khác nữa, những bài thơ dễ say, mang mùi vị rượu. Anakreon là một nhà thơ có thể sinh ra ở Mexico, Ấn Độ, Trung Quốc hay nước Pháp hiện đại, và không ở quốc gia nào ông cần phải viết khác đi như đã viết.

32/ Pindarosz

Có một cái gì đó tất nhiên, điều mà Pithagoras nói rằng trong đời sống con người nghĩa vụ đầu tiên là phải ca ngợi các thần linh, những người anh hùng, các sức mạnh và tinh thần của những kẻ đã chết.

Pindarosz đã làm điều này: giọng của ông là giọng ngợi ca. Sự ngợi ca này là bản anh hùng ca. Ngược với con người hiện đại - kẻ ngợi ca bản thân và viết tiểu sử của mình. Tội nghiệp cho con người hiện đại.

Pindarosz và Hi Lạp, kẻ cất giọng anh hùng ca đã trở thành một phần của sự cao cả mang tính Thượng Đế và thế giới bên kia, trong lúc đó con người hiện đại lại trở nên bé nhỏ đến thảm hại.

33/ Herakleitos

Một trăm ba mươi câu (hoặc nửa câu) của ông còn để lại cho chúng ta, và về một trăm ba mươi mẩu nhỏ này ít nhất người ta đã viết một nghìn ba trăm cuốn sách, mà kẻ viết không phải toàn những người ngu ngốc.

Để hiểu? Để giải nghĩa? Để giải thích? Không. Để đến gần ông hơn. Người ta suy nghĩ từ những câu ông nói và chìm đắm vào sự vô tận của ngôn từ.

34/ Platon

Sẽ hiểu sách của ông hơn nếu kẻ đọc suy ngẫm những điều sau: cái gì có thể xảy ra từ châu Âu, và châu Âu sẽ ra sao nếu không có Platon.

Ngày nay chắc chắn sẽ không có các nhà nước, có những con người ăn mặc nghiêm chỉnh sạch sẽ, nói năng rành mạch, có đạo đức, có học, không thể có những con đường, không thể có luật pháp, kỉ luật, sự tự chủ - không thể có châu Âu.

Thậm chí: không thể có nỗ lực vươn tới một trật tự ngày càng trong sạch và cao quý hơn, một nhu cầu cao thượng.

Một người Pháp cho rằng: nếu Napoleon đúng là một con người vĩ đại, ông ta đã viết sách. Cần dịch ngược lại thế này: Platon cũng có thể trở thành kẻ đi chinh phục thế giới, nhưng điều này quá khổ đối với ông.

Ông viết sách, vì điều này nhiều hơn. Đấy là sách. Đấy là Platon.

35/ Aiszkhulos

Một trong những nền tảng sâu sắc nhất của đời sống chúng ta từ thời cổ tới tận bây giờ là hình ảnh thừa hưởng về sự siêu việt. Thượng Đế, Trời, Biển, Sự Sống, Linh Hồn. Aiszkhulosz là nhà thơ của sự siêu việt: một sự cao cả thuần túy, một sự bình thản thuần túy, là bầu trời, là biển, là sự sống, là linh hồn - là Thượng Đế thuần túy.

36/ Szophoklesz

Trong toàn bộ nền văn học thế giới, Szophoklesz biết nhiều nhất về số phận con người. “Cái tốt nhất chưa hề sinh ra đời, một cái tốt tiếp đã theo sau: chết”. Szophoklesz cho ta biết cái từ bấy đến nay chúng ta gọi là bi kịch. Ông nhìn thấy và viết như sau: nếu chúng ta muốn mặt đối mặt với bi kịch của sự sống con người cần phải đọc Oidipusz, Antigonesz và Elektra.

37/ Euripidesz

Euripidesz là Fyodor Dostoevsky của thành Athén: hướng về cái đa nghĩa, cái có vấn đề, cái vô phương giải quyết và cái cần phải sống - bằng tri thức tâm lí học và giác quan vô hình, bởi ông là con người.

Tại Athén nếu người ta không xua đuổi thì cũng chẳng ưa gì ông. Người ta coi ông là kẻ lật đổ (destruktiv). Và ông đúng là như vậy. Từ ngữ của một con người như vậy dư sức để nghiền nát các nhà nước, cần phải đứng bằng chân, kẻ ông không xua đuổi. Văn học của ông dành cho những kẻ muốn sự thật trước hết.

38/ Aristophanes

Ông mang lại ánh sáng cho Athén tăm tối, và thứ ánh sáng này được gìn giữ từ đó tới giờ. Sự thật, cái đẹp, tiếng cười, danh dự, sự chân thật, sự tươi tỉnh - hai nghìn năm trăm năm chiếu sáng. Bản dịch Aristophanes ra tiếng Hungary là một trong những bản dịch hay nhất ở châu Âu.

39/ Thukudidesz

Nếu ta chưa từng biết đến Thukudidesz, chúng ta vẫn hiểu Olimposz, Eleuszisz, triết học, các bức tượng, Akropolisz, nhưng từ người Hi Lạp không bao giờ chúng ta có thể hiểu về sự thuộc địa hóa, đô thị hóa, sự khéo léo độc nhất trong kĩ thuật chiến tranh và hàng hải, sự thông minh trong buôn bán của họ.

Thukudidesz cùng với Tacitus có một thuận lợi lớn: đã làm cho việc đọc sách sử hiện đại trở nên thừa. Ở sách của ông mọi bản chất lịch sử của con người còn nguyên, chỉ cá nhân và thời gian thay đổi

40/ Plutarch

Chân dung khuôn mặt lịch sử này chính là bản chất của tri thức nói về con người. Lịch sử, tâm lí học, khoa học xã hội, khoa học giáo dục, luật pháp, triết học, tôn giáo, địa lí, tính cách học.

Chân dung Plutarch là khuôn mặt lịch sử nói về bản chất tri thức của con người. Đấy là lịch sử, tâm lý học, khoa học giáo dục, các môn khoa học xã hội, tính cách học. Con người đòi hỏi Plutarch hãy dạy dỗ những người trẻ tuổi vì: ông biết, đời sống lớn là cái gì và cái gì là cái lớn trong đời sống. Ông biết trong mỗi con người đều có một Caesar, Ansztidesz, Miltiadesz và Scipio, và ông biết không xứng đáng sống một đời sống tầm thường.

LA MÃ 41/ Horatius

Cái gì là sự mầu nhiệm không thể đạt tới của thi phẩm Horatius? Một số người bảo, trong nhân sinh quan thanh giáo (sztoikus), số khác bảo trong bản chất mang tính La Mã, số khác cho rằng hình thức là nghệ thuật lớn của ông.

Không. Horatius tin vào thời hoàng kim. Tin rằng con người có thể thực hiện được sự sống thiên đường, nếu họ nghiêm túc, đúng, tươi tỉnh, bình thản, không bạo lực, không bần tiện, không ghen tị, không để cho những dục vọng tầm thường bám lấy họ.

Nhưng Horatius cũng tin rằng điều này không chỉ một con người duy nhất mà toàn bộ dân chúng, thậm chí toàn bộ nhân loại đều có thể thực hiện nổi, thậm chí ông vạch đường cho họ. Ai đọc ông sẽ thẳng bước đi cùng ông về phía hạnh phúc.

42/ Vergilius

Cũng đúng như Horatius, Vergilius cũng tin vào thời hoàng kim, tin rằng dưới sự cai trị của Augustus một cái gì đó có thể thực hiện từ thời hoàng kim.

Đó là gì vậy, điều có thể thực hiện? Hòa bình. Thật tốt lành nhìn lại khoảng thời gian chinh chiến và nghỉ ngơi. Duy trì ngày Chủ nhật, ngày lễ, thở phào và ca ngợi các thần linh. Tác phẩm Aeneis nói về quá khứ chinh chiến nhưng bằng âm điệu của ngày Chủ nhật, hòa bình thiêng. Vì vậy thật bình thản, trong như pha lê, trân trọng, cao thượng, rõ ràng, mát rượi, chín chắn và ngọt ngào.

43/ Tacitus

Nhân loại còn nợ với chính mình khá nhiều. Một trong những món nợ lớn nhất phải là một nghiên cứu cần thận nói về bút pháp của Tacitus. Tác phẩm này cần viết rõ rằng Tacitus không nói về cái gì khác ngoài nói về anake, về nhu cầu. Đấy là những câu nói cứng cỏi, đấy là cách dùng từ cô đọng, đấy là những đoạn văn ngắn đầy bực bội, đấy là câu giải thích cho sự nghiêm khắc lạnh lùng. Đấy là âm thanh răng rắc và lầu bầu trong văn bản. Tacitus viết trong một khối đá cứng. Đấy là lịch sử con người, thậm chí đấy là sự giải thích nỗi đau khổ của tất cả mọi người trong quá trình lịch sử.

44/ Seneca

Giữa các thể loại văn xuôi thì văn xuôi của Seneca đạt gần tới mức lí tưởng nhất. Các nhà văn viết văn xuôi vĩ đại nhất thường tự cho phép mình dùng những từ hoa mĩ, một cái gì đó thi ca, một cái gì đó không phải là văn xuôi. Hãy thử đọc một trong những lá thư đạo đức Seneca viết cho Lucilius, bạn sẽ nhận ra cần phải viết văn xuôi hoàn mĩ như thế nào. Nietzsche nói về Seneca như sau: primum scribere deinde philosophari - trước tiên viết, rồi sau mới nghĩ. Đúng là như vậy! Seneca không phải là một triết gia mà là một nhà văn xuôi. Một thứ ngôn từ tự nó đơn giản là cất tiếng.

TRUYỀN THỐNG THIÊN CHÚA GIÁO 45/ Cựu Ước

Thực ra đặt Cựu Ước vào giữa một trăm cuốn sách là thừa, bởi điều cuốn sách này nói là kí hiệu thiêng được giữ trong tim mỗi người. Nếu trong tim một kẻ nào đó không có kí hiệu này, chín mươi chín cuốn sách còn lại cũng không giúp gì được nó.

46/ Thánh Ágoston

Người ta nói đấy là người châu Âu đầu tiên. Người châu Âu có nghĩa là gì? Nghĩa là: nhân loại là kẻ thừa kế tinh thần Trung Hoa, Ai Cập, Ấn Độ, Do Thái, Assyria, Iran, nhưng cần biết bước lên thêm một bậc thang nữa: trở thành người Công giáo.

Kitô giáo không phải là thứ triết học đời sống nhẹ nhàng và vui tươi, không phải cái gọi là thế giới quan và một giải pháp. Kitô giáo là một nhiệm vụ không thể thực hiện, một nghĩa vụ chết người, một cái gì cắt đôi đời sống ở giữa thắt lưng. Một cái gì xay nghiền như cối xay đá với lúa mì. Kitô giáo là sự chiến thắng trọn vẹn sự sống trần thế, là sự giải phóng trọn vẹn của linh hồn. Không con người nào có thể gánh chịu nổi.

Nhưng từ khi có Kitô giáo, ngoài Kitô giáo ra không ai có thể sống một đời sống người thiếu nó, và cũng không thể thiếu nổi. Thánh Ágoston rên xiết, bị hành hạ, đau đớn, kêu gào nhưng ngài biết cần phải gánh chịu. Toàn bộ châu Âu sống như vậy, như một kẻ đầu tiên, để sau đó triệu triệu con người cần sống theo.

47/ Thầy Eckhart

Nếu ai còn nghi ngờ điều này, rằng toàn bộ nhân loại có siêu hình học trước nhất tự thân sinh ra cùng tinh thần và linh hồn của nó, hãy đọc các tác phẩm của Thầy Meister, và cùng lúc đọc cả các tác phẩm Ấn Độ, Trung Hoa và Ai Cập.

Sự giống nhau thật không thể tưởng tượng nổi, đúng vậy, vì không thể không nói đến tác động của nó. Nhưng Eckhart không phải vì thế rơi vào giữa một trăm người thầy khác. Bản thân ngài là một nhà huyền học thời Trung cổ. Ngài đứng ở đỉnh cao của lịch sử năm trăm năm và một nghìn tác phẩm của các tác giả.

48/ Thomas à Kempis

Kẻ nào không biết đến Đạo Đức Kinh kẻ đó không biết suy nghĩ; kẻ nào không biết đến kinh Veda kẻ đó không biết hiện thực là gì; kẻ nào không biết đến Cựu ước kẻ đó không biết đến Thượng Đế; kẻ nào không biết đến Tân ước kẻ đó không biết sống; kẻ nào không biết đến Thomas à Kempis và không đi theo ngài kẻ đó không phải người Công giáo.

49/ Pascal

Đọc Pascal có ba mức độ. Ở mức độ thứ nhất con người mờ mắt vì phong cách tuyệt vời của ông. Ở mức độ thứ hai người ta run rẩy vì đam mê của một trái tim lớn. Ở mức độ thứ ba người ta nghĩ: cuối cùng cũng có một con người!

Cuối cùng cũng có một con người, là ta, kẻ có một nửa lòng tin nhưng muốn trở thành tín đồ. Kẻ bất hạnh, kẻ thực hành, kẻ mờ mịt, kẻ vật vờ, kẻ muốn trở nên hạnh phúc, mạnh mẽ, sáng suốt - kẻ thật tội nghiệp, tội nghiệp, kẻ muốn trở thành con của Thượng Đế! Thượng Đế tạo dựng! Nếu có một kẻ như vậy giữa những kẻ khổng lồ nhất, vậy chúng ta như thế nào?

50/ Jakob Böhme

Tác phẩm của ông khó đọc nhất trong văn học thế giới. Đặc biệt là những tác phẩm lớn và chín muồi: De elections Gratiae, Signatura rerum và Mysterium Magnum. Có những cuốn sách, mức độ của nó là allegro con brio (nhộn nhịp) như Tội Ác Và Trừng Phạt. Có những cuốn sách andante moderato (chậm rãi) như Đảo Pingvin. Có cuốn sách molto adagio (rất chậm rãi) và đấy chính là tác giả. Nhưng ngần ấy lửa, ngần ấy độ sâu, ngần ấy đam mê, ngần ấy đau khổ, thương yêu, nghiêm túc, niềm tin, niềm vui sướng, sự sùng kính có trong Böhme, ngay ở những tác phẩm lớn nhất cũng không hề có. Tri thức của tác giả nhận từ các thiên thần, nhưng không phải thiên thần bình thường mà từ các thượng đẳng thiên thần, như từ Thượng Đẳng thiên thần Michel - kẻ giữ ngôi đền bí tích của thế gian.

Thật đặc biệt, trong lịch sử triết học châu Âu Böhme thường chỉ được ghi nhớ trong những tập sách nhỏ; cho dù cạnh tác phẩm lớn của Bôhme chỉ cần nhớ đến triết học châu Âu như một ghi chép nhỏ là đủ.

51/ Emanuel Swederborg

Swederborg là một phép thử tuyệt vời. Hãy đưa ai đó đọc mười dòng trong bất cứ một tác phẩm nào của ông, nếu kẻ đó bảo thật điên rồ - kẻ đó nông cạn và vô cảm. Nếu bảo: tôi không hiểu - kẻ óc bã đậu. Nếu bảo: buồn té - kẻ đó đừng bao giờ cầm sách lên tay nữa.

Và, Emerson được coi là một trong những tác phẩm đẹp nhất của ông - của Swederborg, kẻ có những giác quan nhìn xuyên vật chất đặc sệt để nhận ra những thực thể tinh thần. Swederborg là con người hiện đại duy nhất có những khả năng như các bậc thầy lớn thời cổ Tây Tạng, Ai Cập, Ấn Độ.

52/ Claude Saint-Martin

Một tác giả lớn không được biết đến của truyền thống Thiên Chúa giáo châu Âu là Saint- Martin, học trò của Böhme và thầy của Baader, một con người nóng bỏng từ lửa của linh hồn thánh, kẻ biết những bí ẩn lớn nhất mọi thời gian.

Tất cả mọi từ ngữ của ngài giống như nước của bể tắm thần bí, tách cái tốt ra từ cái xấu, cái thật ra từ cái giả, Thượng Đế ra từ con người.

53/ Franz von Baader

Không ai có cơ hội để ghi lại lịch sử bên trong thật sự của Thiên Chúa giáo ngoài Baader. Nhưng ông bảo thời gian chưa đến. Vẫn chưa chắc con người sẽ còn lại như một kẻ Công giáo.

Ông nhìn thấy từ giữa thế kỉ vừa qua cho đến giữa thế kỉ này (19-20) những thử thách gì đã xảy ra, và chỉ sau đó mới có những ghi chép lịch sử. Nhưng Baader đã chuẩn bị trước lịch sử và nhận định rằng những khó khăn cơ bản thực ra không có.

Giờ đây cần đọc lại Baader một trăm hai mươi năm sau cái chết của ông, giống như đọc lại Hörderlint hoặc Keats. Hiểu Baader là một quyết định số phận trong đời sống của con người ngày nay. Hãy đọc trước hết tác phẩm Hiến Dâng của ông.

NƯỚC Ý 54/ Dante

Thi phẩm của Dante là cuốn sách nhập định chân chính duy nhất của Thiên Chúa giáo châu Âu. Là cuốn sách duy nhất chứa đựng ý nghĩa của toàn bộ những gì trong đời sống con người đối với dân chúng châu Âu. Cùng với điều này cần hiểu lại ý nghĩa thật sự của từ “toàn bộ”.

Ai đọc Dante người đó không bao giờ được phép nghi ngờ ý nghĩa của đời sống, mục đích của hoạt động, trật tự của cộng đồng, đạo đức, tinh thần trong những câu hỏi lớn.

Tại sao? Bởi Dante là một con người cổ đại lớn thật sự cuối cùng, người không áp đặt những ý nghĩ cá nhân lên cả nhân loại, mà chỉ nói những lí tưởng vĩnh cửu: truyền thống vĩnh cửu. Các bình luận về Dante hay nhất và duy nhất là của Rene Guenon, cần đặt các bình luận này vào với tác phẩm Thần Khúc (pina Commedia) rồi xếp vào giữa một trăm cuốn sách.

55/ Boccaccio

Giờ đây không cần chỉ linh cảm về nỗi tươi tỉnh thật sự nữa, về mọi tiếng cười, của Sterne, của Joyce, của Dickens, của Moliere hơi (hay rất nhiều) cay đắng, nước mắt, sự giày vò, hoặc sự phân vân hề đồng. Kết thúc của điệu cười đầy dằn vặt này là sự hài hước của ông già Karamazov và Fomics Foma. Thời đại nhàn tản và tươi tỉnh trong sạch đã trôi qua cùng thời Trung cổ. Từ Boccaccio chúng ta biết người xưa đã từng biết cười như thế nào.

56/ Leopardi

Thật không may cho chúng ta Leopardi đã do một Schopenhauer buồn rầu và càu quạu phổ biến. Nếu ai tự đọc độc lập, sẽ ngạc nhiên vì sự giàu có bất tử của tinh thần cô đơn này. Nên bắt đầu đọc bằng các tác phẩm châm biếm của ông: những phê phán hoàn hảo và cay độc đến mức Nietzsche vẫn còn là nhẹ. Ở đáy sâu nhất của sự khủng hoảng lớn trong thời là đen tối - một tác giả đen tối nhất.

TÂY BAN NHA 57/ Cervantes

Nếu Cervantes không sinh ra, những người châu Âu sẽ không hiểu hết được chính họ, như cách thức cần phải hiểu. Lí tưởng là cái tất cả mọi dân tộc đều đã từng biết, đang biết và sẽ biết. Nhưng, một dân tộc bị hủy diệt trong một lí tưởng, điều này chỉ châu Âu biết - biết từ Platon và từ Don Quijonte.

NƯỚC PHÁP 58/ Rabelais

Con người không hiểu làm thế nào để Gargantua và Pantagruel biến thành tiếng cười và sự vui nhộn thiếu vắng hẳn sự tàn bạo, sự ghen tị, sự tham lam, bần tiện, giả dối và cay đắng. Sao có thể có điều này tại châu Âu, nơi chẳng còn gì khác ngoài sách, sự ghen tị, sự tham lam, sự bần tiện, sự dối trá, sự cay đắng?

Tu viện Theleme là lời giải thích. Tu viện Theleme là một kỉ vật của thời hoàng kim, và sở dĩ Rabelais cười chứ không cần khóc bởi ông sống trong thời hoàng kim với trái tim của mình. Kẻ nào đã từng sống trong thời (gọi là) hoàng kim tất thảy đều như vậy. Cái họ thấy, thật tươi tỉnh.

Quả thật có một hiện thực duy nhất: niềm vui? Một đời sống chân thực duy nhất: trở nên hạnh phúc? Một sự chắc chắn duy nhất: thời hoàng kim? Có vẻ đúng như vậy. Nhiệm vụ duy nhất của chúng ta là xây một tu viện Theleme và sống trong đó.

59/ Villon

Cái mà nhà thơ không thánh hóa, cái đó không thể đi vào đất nước của Thượng Đế. Villon đã thánh hóa ngoại ô, đường phố, những lời chửi rủa, sự giả dối, sự mất dạy vô học. Nhà thơ hoàn thiện đất nước của Thượng Đế bằng quán rượu và giá treo cổ.

60/ Montaigne

Người ta nói có ba loại người: người rừng, kẻ dã man đã văn minh hóa và người châu Âu. Người châu Âu chỉ có duy nhất một thể loại Âu hóa par excellence (đầu tiên): tiểu luận.

Montaigne đã tạo ra nó từ các chất liệu sáng tạo của các thể loại luận văn, thư từ, ngạn ngữ, đối thoại, bình luận, thi phẩm và thiền định. Nhưng không phải vì thế người ta đọc Montaigne bốn trăm năm nay, và cũng không phải vì thế người ta sẽ đọc ông nhiều hơn bốn trăm năm nữa. Montaigne đã tìm ra một loại hình thức, một thứ trang phục mặc vào không bị cảm giác chật chội trong đó, và khi ông tìm ra, toàn bộ bản chất của thứ trang phục này cũng đồng thời bộc lộ.

61/ Moliere

Tất cả các nhà văn Pháp lớn thực ra đều được gọi là các nhà đạo đức. Nhà đạo đức là người chế nhạo kẻ ngu đần và thấp kém, ngợi ca vẻ đẹp trong sạch của đời sống. Tất cả những điều này đuợc sử dụng bằng ngôn từ và cách thức không thể hiểu sai lệch. Phương pháp của họ là tri thức tâm lí có tác động đến tận xương tủy.

Bí quyết của các nhà đạo đức học là tình yêu thương con người. Họ chỉ quen một người, là kẻ yếu một người nào đấy. Moliere bởi vậy rất biết về con người, và cùng với France, La Bruyere và các nhà đạo đức lớn khác: chế giễu, mổ xẻ, cười cợt, nhưng trước hết, yêu con người.

62/ La Bruyere

Tất cả những gì cần cho một sinh linh sống trong cộng đồng người, La Bruyere đều có thể giới thiệu cho mọi người biết từ cuốn sách của ông, tác phẩm viết về các đặc tính con người. Không thể có tri thức nào lớn hơn thế. Đây là sự nhận biết con người hoàn hảo, một khoa học về xã hội, sách về nhà nước, về tình dục, về phép lịch sự, về sự nghiêm túc.

Châu Âu là một miền đất hứa? Nguy hiểm quá! Nó cần trở thành miền đất thông thái, cần như vậy, bởi nó sẽ bị diệt vong như vậy.

63/ Chenier

Nếu con người từ các bài thơ của Andre Cherier chỉ cần đọc một dòng thôi, cũng đủ thấy ánh sáng hiện ra xung quanh mình, trước mắt nó là biển xanh, gió lạnh dịu dàng thổi và thoảng đâu đây mùi hương của nguyệt quế.

Đây là nhà thơ của thế giới Địa Trung Hải: thi phẩm hài hòa vô tư của bầu trời xanh trong sáng, những hòn đảo nguyệt quế, những cánh đồng nho. Ở đây luôn luôn là mùa hè, hòa bình, yên ả, vô tư, con người dạo chơi trên bờ biển cùng các thần linh.

64/ Baudelaire

Nước Pháp gọi ông là đức cha cuối cùng. Thánh John (Giăng) có tài hùng biện vàng ngọc đáp trả thời đại thấp kém của mình với những bài diễn thuyết lớn ở Bizánc; còn Baudelaire trả lời bằng những bài thơ tuyệt vời được đẽo gọt từ kim cương ở Paris của mình.

Tất cả mọi kẻ hiện đại đều cần phải quay trở về với ông, không chỉ vì lòng kính trọng, mà bởi vì ông là kẻ làm chứng cho thời đại bằng sự xác định hành vi ứng xử của một tinh thần hiện đại.

65/ Rousseau

Chúng ta cảm ơn Jean Jacques Rousseau vì một sự thật lớn và một sự lầm lẫn lớn. Sự thật lớn là: nền văn minh đã làm hỏng con người; còn một lầm lẫn lớn là: mọi nền văn minh đều cần làm hỏng con người và vì thế cần quay lại với thiên nhiên.

Không. Nhân loại - như Henoch nói - bị hư hỏng bởi nền văn minh của các thiên thần nổi loạn, và thuốc chữa chạy không phải cần quay về thiên nhiên mà trước hết cần quay về với cội nguồn cổ của sự sống người. Trực giác của Rousseau tuyệt vời, nhưng ông là một nhà tư tưởng đi đánh lừa. Một tổng thể không bao giờ nhắc lại như vậy và bất tử.

66/ Francé

Con người không ngớt kinh ngạc vì ông: người ta truyền nhau rằng đây cũng là một linh hồn Voltaire nữa, phủ nhận Thượng Đế, theo chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa hưởng thụ và vô thần.

Trong thực tế hiếm có một nhà văn nào trong nền văn học thế giới lại mang tính chất hiền hậu (pieta) đến ngần ấy như Anatole France. Con mắt đa dạng và lối nói thô bạo của ông bị hiểu lầm rằng chỉ thích cười đùa. Nhưng hãy thử nghĩ mà xem trong thời Trung cổ, trong thời đại của niềm tin đích thực, người ta trình diễn các màn hề trong các nhà thờ; người ta đọc to các cái tên chế nhạo giữa lúc các giáo chủ diễu hành, và trêu chọc họ trên hè phố. Được phép. Tại sao? Bởi pieta là một trong những mức độ tinh thần cao nhất.

Cái gì thân ái trong tim, con ngươi nâng niu, từ sự âu yếm nâng niu này là nỗi vụng dại, như đàn ông với người tình, như người bố với đứa con nhỏ. Con người chỉ chơi với ai nó yêu mến. Con người chỉ mắng bạn thân nhất của mình. Con người chỉ thích nhất cái gì nó hay chơi, cái gì nó hay mắng và nhạo. Bởi con người chỉ chú ý đến cái đó một cách thật lòng.

Tác giả cuốn Tên hề của Đức Mẹ không vô thần. France cuồng tín, một ai đã từng nói. Đúng! France là một tín đồ Thiên Chúa cuồng tín thời Trung cổ. Nhưng các giáo sĩ phi tín ngưỡng không bao giờ hiểu niềm tin sâu sắc và âu yếm của ông, không bao giờ hiểu tính chất pieta thiên thần của ông, họ cho ông là vô thần.

Cái France chế nhạo, cái đó ông yêu: nước Pháp (tác phẩm Đảo Pinvin), trật tự Thượng Đế (tác phẩm Thiên thần nổi loạn), nhà Chung (tác phẩm Lịch sử thời hiện tại), thế kỉ lớn (tác phẩm Thần linh khát). Ở nhiều chỗ, sách của France y như một cuốn kinh cầu nguyện.

67/ Mallarme

Giữa các thi phẩm, thi ca của Mallarme giống tiếng mẹ đẻ của nhân loại nhất, thứ ngôn ngữ con người đầu tiên trên Thiên Đàng nói trước mặt Thượng Đế cùng các thiên thần.

Trong âm điệu mọi thi phẩm của ông luôn luôn có một cái gì đó bất hòa nhẹ. Trong ngôn từ của Mallarme âm thanh là một với hình ảnh, hình ảnh với khái niệm, khái niệm với kí hiệu bí ẩn cổ, và vang lên trong sáng, như pha lê, giản dị, chân thật đến mức không hiểu nổi. Đặc biệt văn xuôi của Mallarme không khác gì thơ. Mọi từ ngữ đều như thể từ thơ mà ra.

68/ Rolland

Giữa những thiên thần lớn của thế kỉ 20: Tolsztoj, Merezskovszkij, Rilke, ông là thiên thần thượng đẳng của sự thật, tính nhân văn, trái tim trong sạch, danh dự và ân sủng. Ông hoạt động suốt cuộc đời, không bao giờ viết về bản thân, luôn luôn chỉ viết về Người Thầy, về Beethoven, về Tolsztoij, về Ramakristina.

Tác phẩm của ông: Jean Christophe và Linh hồn bị mê hoặc, thậm chí Clerambault và Colas Breugnon không là gì khác một sự tôn kính tưởng tượng (thật hơn cả hiện thực) trước các tinh thần lớn.

Một nhân loại không có lương tâm gọi ông là lương tâm của châu Âu; Một thời đại không biết làm gì hơn là giương vũ khí lên gọi ông là sứ giả của hòa bình, cần phải nghe ông, và chấp nhận ngôn từ của ông. Nếu không ông đã không đến đây.

SCANDINAVIA-BẮC ÂU 69/ Ibsen

Ông giáo già đáng kính này đáng lẽ phải viết hài kịch. Vì chú trọng đến sự nghiêm túc đáng lẽ ông phải tạo dựng ra một dạng hài kịch nhanh trên sân khâu. Cái ông nói về con người hiện đại đã đủ khiến người ta ngượng đỏ mặt; đủ để biến mất. Hãy thử tưởng tượng tác phẩm Con vịt giời trong hình thức hài kịch hoặc nhân vật kiến trúc sư Solness như một anh hề, kẻ “ở tuổi già không bao giơ xây thêm nhà thờ nữa mà chỉ xây biệt thự”, và không dám trèo lên cái thang vì sợ chóng mặt. Đáng lẽ vở kịch Những Bóng Ma phải hài hước như vậy! Cái cười sẽ tắc lại nơi cuống họng mọi người.

70/ Strindberg

Đầu tiên ông là một tín đồ Tin Lành dân tộc chủ nghĩa, sau đến là một kẻ bác bỏ Thượng Đế xã hội chủ nghĩa. Sau đó là một nhà bác học huyền học và giả kim, một tín đồ Thiên Chúa giáo, kẻ đi quyến rũ đàn bà, kẻ căm ghét phụ nữ, bạn của Nietzsche, và sau cùng ông trở lại với chính mình. Strindberg là bậc thang-Jakob của con người hiện đại. Có thể trèo lên người ông để lên trời. Ông là một Thánh Phao lô hiện đại không phải với một mà là với mười điều quay ngoắt. Ông là kẻ được sinh ra một trăm lần.

71/ Andersen

Ngày nay bản nhạc đời sống tự nhiên nhất trên trái đất là tiếng đại bác hoặc tiếng máy móc rền vang. Nhưng cũng tự nhiên như vậy nếu đôi khi thế gian vang lên những âm thanh lạ lẫm khác của thơ của Mallarmé hay của Rilke.

Nhưng nếu đấy là âm thanh của Andersen, nó sẽ lập tức nổi bật lên ngay. Và nổi lên một câu hỏi: cái nào bực bội hơn, tiếng máy móc ồn ào hay giọng ru của cổ tích Andersen?

Chúng ta hãy đừng trở nên lãng mạn vì sẽ giả dối hóa hiện thực bằng những câu chuyện này. Hãy nói ra một cách bình thản, với đôi tay nắm chặt lại, nói một cách nghiêm nghị rằng bản nhạc đời sống của chúng ta không phải là tiếng ồn ào của máy móc. Andersen không coi một linh hồn bắt buộc trốn vào sự vô cảm là sự bù đắp của đời sống, mà coi đấy là sự sống người thật sự. Bạn sẽ luôn chạy trốn trước tiếng động và bài hát ru luôn mở rộng vòng tay đợi bạn.

NƯỚC NGA 72/ Gogol

Nếu ai còn phân vân không biết có phải thể loại văn châm biếm chỉ con người có tín ngưỡng sâu sắc mới viết nổi, hãy đọc Gogol. Sự căng thẳng lớn nhất vẫn có thể chịu đựng, dành cho con người chính là tính chất tôn giáo sâu sắc hướng nội và sự hài hước hướng ngoại.

Điều này có thể thấy ở Sterne, France và Ansztophanes. Sự căng thẳng quấy rầy không để mọi người yên - nhưng Gogol khiến người ta mất trí. Nhà tiên tri này đi trên ranh giới của sự mất trí trong Những Linh Hồn Chết, một trộn lẫn của sự khiển trách lên án và sự hài hước khôi hài đến mất trí.

73/ Dosztojevszkij

Cho đến tận ngày hôm nay câu hỏi đặt ra vẫn là, lũ ma quỷ mà Dosztojevszkij miêu tả, ông chỉ lật tẩy chúng hay bản thân ông gọi chúng đến. Nếu gọi chúng đến, ông là kẻ độc ác nhất thế gian; nếu chỉ lật tẩy chúng, ông là phù thủy lớn nhất thế gian. Nhưng ông cũng là người cho biết bằng cái gì có thể hãm phanh lũ ma quỷ. Bằng tình yêu thương, bằng sự từ bỏ, bằng sự kiên nhẫn, bằng sự khiêm nhường, bằng sự tự phủ nhận.

Dosztojevszkij là một trong những nhà giả kim lớn nhất đã từng sống ở đâu đó: ông giới thiệu cho con người bản chất quỷ của đời sống người và nói cho con người biết cần phải chiến thắng quỷ như thế nào.

Không thể mong muốn từ con người nhiều hơn thế. Mọi tác phẩm của ông đều quan trọng nhưng nếu cần để lại có thể bỏ Siheder (dù không đành lòng cho lắm). Những tác phẩm quan trọng: Tội ác và trừng phạt, Anh em Karamazop, Thằng ngốc, Những người nghèo, Những con quỷ, Sztjepnncsikovo và các cư dân, Ngài Goljadkin, Từ bóng tối của đô thị.

74/Tolsztoj

Vấn đề của Tolsztoj như sau: trong giai đoạn cuối đời Tolsztoj Leon đã đề nghị một giải pháp rành mạch rõ ràng cho nhân loại đang khủng hoảng, một giải pháp hoàn toàn dễ dàng. Nhưng trái với điều này nhân loại đã chọn một sự nỗ lực khủng khiếp hơn và đưa đời sống vào một khủng hoảng lớn hơn nữa. Cái gì có thể xảy ra nếu chỉ cần bằng một nửa nỗ lực đó thôi (bằng nạn đói, đổ máu, hủy diệt, dịch bệnh) đã có thể thực hiện điều mà Tolsztoj nói? Rất có thể lúc đó chúng ta đã đạt tới hòa bình - đất nước của Thượng Đế.

Cái gì tiếp theo từ điều này? Rằng: thay vì hòa bình có thể đạt được