← Quay lại trang sách

- 12 -

Ngày hôm sau Goldmund không thể quyết định đến xưởng được; y đi lang thang trong tỉnh như đã làm biết bao nhiêu lần trong những ngày buồn nản. Y nhìn các bà và các cô sen đi chợ, y thường hay đứng gần bồn nước trong chợ cá, dán mắt nhìn các lái cá và vợ họ bày hàng và tán dương cá của mình một cách vụng về, vớt trong mủng ra những con cá tươi ánh bạc. Cá nằm há miệng nom thật đau thương, hai mắt màng mở trừng trừng, chúng nhẫn nại mà đợi chết hay chống lại một cách điên cuồng và thất vọng. Cũng như nhiều lần trước đã xảy ra, y đem lòng thương hại những con vật khốn nạn và ghê tởm loài người; tại sao con người lại sắt đá và tàn nhẫn, ngờ nghệch và ngu muội được đến thế; tại sao tất cả mọi người từ lái cá đến vợ con họ, đến người mua, xúm xít lại trả giá, tại sao họ không thấy những cái miệng kia, những con mắt lo lắng vì sợ chết kia, những cái đuôi vẫy đập điên cuồng kia, cuộc vật lộn ghê tởm, vô ích và vô vọng kia, tại sao họ không thấy những con vật bí hiểm và đẹp đẽ lạ lùng kia biến đổi ra thân hình thảm thương nhường ấy, cái rùng mình yếu ớt trước khi trút linh hồn còn lưởng vưởng trên lằn da đã nhợt nhạt tử khí trước khi chúng mình ngay đơ chết lịm, chỉ còn là những miếng đồ ăn để trên bàn cho thực khách vui vẻ? Họ không trông thấy gì cả, họ không biết gì, ý thức được gì cả, sự vật không nói lên với họ điều gì. Đối với họ không có gì quan trọng khi một con vật cao đẹp mà đáng thương kia bỏ mạng trước mắt họ, khi một nghệ sĩ thể hiện được tất cả hy vọng cao đẹp, đau đớn, khắc khoải, mờ mịt, thấm thía và ngột ngạt của kiếp sống con người khiến cho người xem rung cảm; họ không trông thấy gì cả, không có gì làm được họ động tâm. Tất cả mọi người đều vui vẻ hay bận rộn, họ làm ra vẻ quan trọng, họ vội vàng, la hét, cười cợt, người nọ đứng ợ hơi trước mặt người kia, họ la lối om xòm, bông đùa, chửi bới nhau vì mấy đồng bạc, tất cả mọi người đều cho rằng mọi việc đều tốt đẹp, đều trôi chảy trong vòng trật tự, và tất cả đều bằng lòng mình, bằng lòng cuộc đời. Thật là đồ lợn heo, chao ôi! Nói cho đúng họ còn ghê tởm hơn những con heo. Trời! Chính y cũng thường là những người ấy, y cũng thấy sung sướng giữa những người ấy, y đã chạy theo gái, đã cười đùa mà ăn cá chiên, không hề kinh tởm. Nhưng bao giờ cũng vậy, như có phù phép bất thần y mất hẳn vui sướng yên ổn, y thoát ra khỏi những lỡ lầm ấy, y gột rửa lớp mỡ cá nhầy nhụa, y từ khước sự tự thỏa mãn hời hợt, y không còn làm ra mình quan trọng, y không để cho lương tâm yên ổn một cách lười biếng như thế; chính vì thế mà y bị dồn vào chỗ cô đơn, vào những lúc mơ mộng trống rỗng, những cuộc lang thang khắp nơi; chính vì thế mà y suy ngẫm về những vấn đề đau khổ, tử sinh, về tính cách hợm hĩnh của hành động người đời, và rốt cục y đi đến chỗ nhìn thẳng xuống hố thẳm. Có khi một sự vui vẻ bất thần hé nở trong khi y suy tư vô vọng về cuộc đời điên đảo hãi hùng: một sự mê say ái tình mạnh mẽ, ý muốn hát một bài ca hay và họa một bức tranh, ngửi một bông hoa thơm, đùa rỡn với con mèo, thế là đủ cho y trở lại thỏa hiệp với cuộc đời một cách trẻ con. Ngay bây giờ sự thỏa hiệp ấy đã trở lại, và ngày mai, ngày mốt, đời lại tươi đẹp thích thú. Cứ như thế cho đến lúc tái hiện sự buồn bã, sự suy nghĩ vẩn vơ, sự thương xót vô vọng cho con cá chết ngóp, đóa hoa úa tàn, sự ghê tởm đời sống thờ ơ, lãnh đạm, lòng người trơ như đá, xấu như heo, mắt mở to mà không thấy gì cả. Vào những lúc ấy y không thể ngăn mình nghĩ đến Victor, người khóa sinh lang thang ngày xưa y đã đâm dao vào cạnh sườn rồi bỏ nằm trên đám cành thông người đầm đìa máu, y nghĩ đến với chút hiếu kỳ đau đớn, tim thắt lại; và y phải suy tính, phải tự hỏi Victor rồi ra thế nào, thú rừng đến ăn hết thây xác hay còn lại chút gì chăng? Phải rồi, xương thì còn lại với vài đùm tóc. Và xương thì rồi sẽ ra sao? Phải bao lâu, vài chục năm hay vài năm nữa xương mới tan rã mà trở thành cát bụi?

Ngày hôm nay, trong khi tim y buồn rầu khắc khoải và căm giận chua chát vì thói đời, vì chính mình nữa. y nhìn mấy con cá với lòng thương hại, mấy người trong chợ với sự ghê tởm, như vậy tất nhiên y phải nghĩ đến Victor. Có lẽ người ta đã trông thấy xác hắn và đã chôn cho hắn? Và nếu như vậy thì bây giờ xương đã rữa hết thịt chưa? Xác đã thối nát chưa? Sâu đã ăn hết chưa? Còn tóc trên đầu, còn lông mày trên mắt chăng? Và cuộc đời phiêu lưu của Victor lắm chuyện, lắm ngón bông lơn, lắm trò hề quái dị như thế, bây giờ phỏng có ích gì? Ngoài kỷ niệm lờ mờ của kẻ giết chết hắn, còn lại cái gì của một kiếp người không đến nỗi tầm thường như những ngườỉ khác? Liệu có còn một chàng Victor trong giấc mơ của người đàn bà ngày trước hắn đã yêu? Than ôi! Hẳn là tất cả đã hết rồi, đã trôi qua rồi, và đó là số phận của hết thảy sự vật: đóa hoa nở trong chốc lát rồi lại tàn lụi và biến mất cũng chỉ trong chốc lát, sau đấy tuyết trắng sẻ phủ lén tất cả. Trong người y đã nở cả một mùa xuân chỉ cách đây vài năm, y đến tỉnh này, hăng hái khát khao nghệ thuật, thành tâm tôn kính thầy Niklaus. Bây giờ liệu có còn gì? Không còn gì cả, không hơn gì cái thi thể của anh Victor du thủ du thực. Nếu bấy giờ có ai bảo y rằng một ngày kia Niklaus sẽ công nhận y ngang tài với ông và xin phường đoàn cấp chứng chỉ cho y làm bậc sư, hẳn y đã cho rằng mình nắm được tất cả hạnh phúc trên đời. Thế mà bây giờ chỉ còn là cái hoa tàn, khô héo không có gì vui.

Trong khi nghĩ như thế, bất thần y có một ảo giác. Việc ấy chỉ xảy ra thoáng qua như một cái chớp: y thấy khuôn mặt bà Mẹ cúi xuống vực thẳm đời sống với cái mỉm cười xa xăm, đẹp đẽ và ghê rợn, y thấy bà mỉm cười với người mới sinh, người chết, hoa nở, lá mùa thu bay vèo vèo, bà mỉm cười với nghệ thuật, với sự thối nát.

Đối với bà cái gì cũng có giá trị như nhau, bà là Mẹ của tất cả, nụ cười của bà làm ta rùng mình, nụ cười ấy treo trên đầu mọi vật chẳng khác nào vừng trăng; đối với Golmund mãi miết trong cuộc suy tư trầm buồn bã cũng âu yếm như những con cá chép hấp hối trên thềm hè chợ cá. Lisbeth, người trinh nữ lạnh lùng kiêu căng cũng thân mật với bà như nắm xương tàn tản mát trong rừng của chàng Victor ngày định ăn cắp đồng tiền vàng của y.

Cái chớp đã tan rồi, khuôn mặt bí hiểm của Mẹ đã tan đi, nhưng trong đáy tâm hồn của Goldmund ánh sáng vàng vọt còn le lói, một đợt sống sinh khí, đau khổ và ham muốn xót xa lướt qua tim y làm y bối rối. Không, không, y không muốn hạnh phúc mà người khác lấy làm thỏa mãn, hạnh phúc của những người sống cuộc đời thực tế.

Ma quỷ hãy lôi cuốn họ theo! Ồ! Khuôn mặt tái nhợt đang rung cảm, cái miệng đa tình, chín mọng, cái miệng cuối mùa hè trên hai môi ảm đạm vừa hé mở như một ngọn gió đông, như một ánh trăng lạnh, cái mỉm cười khôn tả của sự chết!

Goldmund trở về nhà thầy. Trời đã gần trưa. Y đợi cho đến lúc Niklaus ở trong nhà ngưng làm việc và đi rửa tay y mới bước vào.

“Thưa thầy, xin thầy để tôi nói với thầy mấy lời trong khi thầy rửa tay và mặc áo. Tôi khát khao sự thật, tôi muốn nói với thầy vài điều mà có lẽ không nót bây giờ thì sau này không thể nói ra được nữa. Tôi đang ở vào tình trạng cần phải thổ lộ tâm tình với ai, và có lẽ chỉ có thầy là người có thể hiểu được tôi. Tôi không dám nói với người có một xưởng mỹ nghệ danh tiếng, một người lãnh làm những món hàng vinh dự như thế, một người có hai người thợ bạn và một căn nhà đẹp đẽ giàu sang. Tôi xin nói với người làm ra tượng Trinh Nữ trong tu viện kia, pho tượng đẹp nhất mà tôi yêu mến và tôn kính, tượng trưng cho mục đích cao đẹp nhất của tôi trên đời này, Tôi đã tạc được một pho tượng, tượng Thánh Jean, tôi không làm được đẹp như pho tượng Trinh Nữ của thầy; nhưng pho tượng cũng có vẻ đẹp của nó, Tôi không còn làm pho tượng nào nữa; bây giờ không có gì bắt buộc tôi cố gắng và sáng tác. Đúng hơn, có một công việc, một hình ảnh xa xôi, sẽ có ngày tôi tạo ra nhưng bây giờ chưa thể sáng tác được. Muốn sáng tác tôi phải qua nhiều kinh nghiệm nữa, phải để cho kinh nghiệm ăn sâu vào cuộc đời tôi. Có lẽ trong ba hay bốn năm, hay mười năm, hay lâu lắm tôi có thể làm được, mà có lẽ không bao giờ làm nổi. Từ đây đến ngày ấy, thưa thầy, tôi không thể làm nghề gì được, tôi không muốn chạm những giảng đàn và sống đời thủ công nghệ trong xưởng kiếm tiền và trở nên một người như những người thợ khác; không, tôi không muốn thế, tôi muốn sống, muốn lang thang, muốn thấy đông qua, hạ tới, muốn thưởng thức vẻ đẹp và nếm vị đắng cay của cuộc đời. Tôi muốn một ngày kia làm được cái gì đẹp đẽ như tượng Thánh Mẫu Đồng Trinh của thầy, một vẻ đẹp cũng đập vào trái tim như thế— nhưng trở thành người như thầy và sống như thầy tôi không muốn thế chút nào.”

Ồng thầy rửa xong lau khô tay, ông quay lại nhìn Goldmund, mặt nghiêm nghị nhưng không tức giận.

“Cậu đã nói, tôi đã nghe. Thôi hãy để câu chuyện đấy. Tuy công việc của tôi rất nhiều nhưng tôi không tính buộc cậu phải làm việc với tôi: cậu cần tự do. Tôi muốn bàn vời cậu vài câu chuyện nhưng hãy để vài ngày nữa. Trong khi chờ đợi cậu cứ giết thì giờ cho thỏa thích. Tôi không đồng ý với cậu nhưng tôi hiểu và tôi cảm thấy cậu muốn nói gì. Trong vài ngày nữa tôi sẽ mời cậu lại nói chuyện tương lai, tôi có đủ mọi dự tính. Trong khi chờ đợi, hãy kiên nhẫn một chút! Tôi biết rõ khi người ta làm xong một tác phẩm mà người ta yêu mến thì người ta thấy thế nào; tôi biết sự trống rỗng đó. Nhưng cậu cứ tin tôi, rồi sẽ qua đi.”

Goldmund đi ra, lòng không thỏa mãn. Ông thầy muốn giúp ích cho y, nhưng ông ta làm gì được cho y?

Ỳ biết một chỗ ở bờ sống, không sâu lắm, nước chảy qua một đống rác rưởi; người ở xóm chài quăng xuống sông đủ mọi vật dơ bẩn. Y đến nơi ngồi trên bờ tường nhìn. nước chẩy. Y rất thích nước, lúc nào cũng muốn ở gần nước. Ngồi đấy người ta có thể nhìn qua dòng nước chảy óng ánh như dây bạc thấu đáy tối om không thấy rõ gì, người ta nhìn thấy đó đây một vài vật như ánh vàng mờ làm mình phải chú ý; không biết rõ là cái gì, có lẽ là một mảnh đĩa vỡ hay cái lưỡi liềm cong quèo, hay phiến đá nhẵn và sáng, hay miếng ngói tráng men; có khi là một con cá ở bùn, cá thiều hay cá trôi, đang bơi lội dưới đáy nước, một tia ánh sáng chiếu vào vây, bụng hay vẩy—không bao giờ người ta biết rỏ là cái gì, nhưng bao giờ cũng thấy có vẻ đẹp lạ lùng và quyến rũ, cái chớp lẹ làng, tia sáng lọc qua khối nưởc, ánh vàng chìm sâu dưới chân đáy nước tối tăm. Hình như những bí mật chân xác, những hình ảnh chân thật của linh hồn cũng tương tự sự bí mật nhỏ nhoi của dòng nước này, không rõ đường nét, hình thể, người ta chỉ thoáng trông thấy lờ mờ như cái gì có thể có ở sau một tấm màn bao phủ như thế, ta gán cho ý nghĩa nào cũng được. Chẳng khác nào trong chỗ tranh tối tranh sáng dưới đáy dòng nước sông xanh, có cái gì lóe sáng như ánh vàng bạc nhanh như cái chớp: một cái không gì cả nhưng chứa bao hứa hẹn thích thú; chẳng khác nào bóng dáng không nhất định của một người thoáng thấy đằng sau có khi để lộ một vẻ đẹp vô cùng, một nỗi buồn khôn tả, chẳng khác nào một ngọn đèn ở dưới chiếc xe bò trong đêm phóng lên tường những nan hoa bánh xe luôn luôn chuyển động; những bóng tối đó trong khoảnh khắc đó có thể gợi cho ta những ảo ảnh, những biến cố và những trang sử chẳng khác nào sách của Virgile. Ban đêm giấc mơ của chúng ta cũng được thêu dệt bởi cái gì hư ảo và kỳ diệu như thế: một cái không là gì cả bao gồm tất cả mọi hình ảnh trên đời, một bầu nước trong suốt như pha lê trông vào có thể thấy hình người, thú vật, thiên thần và quỷ sứ, nhưng chỉ xuất hiện dưới những hình thái có thể có được, những hình thái đó chuyển động chứ không bao giờ ngủ yên.

Y lại chìm vào giấc mơ, ngắm dòng nước chảy, ngắm những tia sáng không rõ rệt rung rinh dưới đáy nước, y tưởng tượng ra những chiếc vưong miện, những cái vai phụ nữ yêu kiều.

Y còn nhớ ngày xưa ở Mariabronn y đã khám phá ra những chữ La Tinh và Hy Lạp có hình dáng như vậy, có thể biến hình một cách kỳ diệu như vậy. Hình như đã có hôm y nói với Narziss thì phải. À! bao giờ vậy? Từ những thế kỷ xa xôi nào ư? Narziss! Giá được gặp anh, nói chuyện một giờ, cầm tay anh, nghe lời nói điềm tĩnh và khôn ngoan của anh, y sẽ sẵn lòng bỏ ra hai đồng tiền vàng.

Tai sao những vật ấy đẹp đẽ đến thế, những ánh lửa vàng dưới đáy nước ấy, những ảo ảnh thực thực hư hư thoáng hiện thoáng biến ấy — tại sao chúng lại đẹp đẽ thú vị một cách khó tả như thế, trong khi chúng đại diện cho cái gì trái ngược hẳn vẻ đẹp của họa sĩ tạo ra? Vì rằng nếu vẻ đẹp của những ảo ảnh vô hình bất khả tri giác ấy là tự tính chất bí mật của chúng và chúng cũng không phải cái gì khác sự bí mật, thì thật là nó trái ngược hẳn với tác phẩm nghệ thuật, vì nghệ thuật lấy hình thức làm chủ yếu, nghệ thuật nói một thứ ngôn ngữ hoàn toàn sáng sủa. Không còn gì hết sức rõ ràng và chuẩn xác bằng đường nét của một cái đầu, một cái miệng hoạ trên giấy hay khắc trên gỗ. Y có thể chép lại thật giống, thật đúng môi dưới hay mí mắt tượng Thánh Mẫu của Niklaus, không có cái gì là mập mờ, mơ hồ hay biến ảo.

Goldmund để mình trôi theo dòng suy tư. Y không thể cắt nghĩa được tại sao những hình thể chuẩn xác nhất lại có thể tác động đến tâm hồn đúng như cái bất khả tri giác nhất, cái mập mờ biến ảo nhất. Tuy nhiên, trong lúc suy nghĩ, thấy xuất hiện một sự kiện rõ ràng, y hiểu tại sao biết bao nghệ phẩm không lợi cho y một chút gì cả tuy không có gì đáng chê; tại sao tuy rằng những nghệ phẩm ấy có phần nào vẻ đẹp, nhưng làm cho y chán ngán gần như ghê tởm. Xưởng họa, giáo đường, lâu đài đầy rẫy những loại nghệ phẩm đáng buồn ấy, và chính y cũng cộng tác vào việc thực hiện một vài tác phẩm ấy. Những tác phẩm đó làm ta thất vọng vì chúng gợi lên sự khát vọng những giá trị cao cả nhất mà không làm ta thoả mãn, sở dĩ như vậy là bởi thiếu hẳn cái gì chính yếu: sự bí hiểm. Sự bí hiểm đó chính là yếu tố mà cả giấc mơ lẫn kiệt tác đều có.

Và Goldmund dõi theo ý nghĩ: điều ta yêu là sự bí mật, ta đã thấy hút nó, ta đã thấy nó nhiều lần lóe sáng, ta là nghệ sĩ, ngày nào có thể làm được ta sẽ biểu thị nó ra, ta sẽ làm cho nó xuất lộ. Đó là khuôn mặt người Mẹ vạn sự đang sinh ra vạn sự, bí mật của bà không phải ở chi tiết này, chi tiết nọ như những hình ảnh khác: nét đầy đặn hay ốm o, gay gắt hay ngọt nhạt, mạnh mẽ hay thướt tha; bí mật thực ra ở điểm những mâu thuẫn cùng cực trên đời đã cùng hiện hữu trên khuôn mặt ấy, đã thỏa hiệp với nhau: sinh và tử, thiện và ác, xây dựng và phá hủy. Nếu ta chỉ tưởng tượng ra khuôn mặt ấy, nếu đó chỉ là một công trình kiến tạo lý trí, một hoài vọng nghệ sĩ, thì không thực hiện được cũng chẳng sao; ta biết rằng có nhiều khuyết điểm và ta sẽ quên đi. Nhưng bà Mẹ của vạn sự không phải là cái gì tưởng tượng ra mà ta trông thấy thật; bà Mẹ ấy sống trong người ta, trên đường đời ta gặp luôn luôn. Lần thứ nhất ta đã ngờ rằng có bà Mẹ ấy khi ta cầm đèn soi cho một người đàn bà đẻ con, từ đấy khuôn mặt ấy bắt đầu sống trong người ta. Nhiều khi nó ở tận xa, ta thấy mất hút rất lâu, nhưng bất thình lình lại hiện ra thoáng như cái chớp, như ngày hôm nay chẳng hạn. Khuôn mặt mẹ ta, khuôn mặt thân yêu nhất với ta ngày trước, dần dần đã biển đổi thành hình ảnh mới đó và lẩn chặt vào giữa như hột trái anh đào.

Bây giờ y ý thức được hoàn cảnh hiện tại, được sự bối rối trước một quyết định. Y bước vào một ngả đường dứt khoát, cũng như ngày xưa, lúc y từ biệt Narziss và tu viện, con đường ấy là con đường dẫn tới bà Mẹ. Có lẽ một ngày kia bà Mẹ ấy đối với người đời sẽ trở thành một ảo ảnh do bàn tay y cấu tạo cho một hình tướng. Có lẽ mục đích và ý nghĩa kín đáo của đời sống là ở đấy. Có lẽ. Y không thể biết được. Nhưng y biết một điều; dõi theo bà Mẹ, tiến tới bà Mẹ, nghe tiếng gọi của bà, được bà thu hút, thế là hay, thế là đời sống. Có lẽ không bao giờ y có thể diễn tả hình ảnh ấy bằng những nét rõ rệt, có lẽ nó sẽ mãi mãi là mơ mộng, linh cảm, tiếng gọi xa xôi, ánh vàng son của một bí mật thiêng liêng, Dù sao thì bổn phận của y cũng là phải theo dõi nó, trao vận mệnh mình cho nó, nó là ngôi sao sáng của y.

Thế là sự quyết định của y hiện ra trước mặt y, gần ngay đấy: tất cả đều trở nên sáng sủa. Nghệ thuật là một cái gì đẹp đẽ, nó không phải là thần thánh, không phải là một mục đích, ít ra đối với y. Y không được nghe tiếng gọi của nghệ thụât, y phải nghe tiểng gọi của Mẹ. Luyện cho bàn tay khéo hơn làm gì nữa? Cứ xem thầy Niklaus thì đủ hiểu làm như vậy mình sẽ đi đến đâu. Người ta sẽ có tên tuổi, tiền của, danh vọng, đời sống trưởng giả, nhưng người ta cũng có thể làm khô cạn héo hắt cái gì là ý nghĩa thâm sâu, con đường duy nhất để đi tới bí mật. Người ta sẽ làm ra những món đồ quý xinh xắn, những ngai thờ, những giảng đài đủ loại, những thánh Sébastien, những tượng thánh bán thân tóc quăn đẹp đẽ giá bốn quan một cái. Trời ơi! Ánh vàng trong mắt con cá chép, cái lông tơ óng mượt long lanh ánh bạc ở diềm cánh bướm còn vô cùng đẹp hơn, sống động hơn, quý giá hơn cả một căn phòng chứa đầy những tác phẩm như thế.

Một đứa trẻ đi xuống con đường dọc theo bờ sông vừa đi vừa hát, Có khi tiếng hát dừng lại; nó cắn miếng bánh mì lớn cầm trong tay. Goldmund trông thấy nó bèn hỏi xin nó một miếng nhỏ, y lấy ngón tay cấu từng chút ruột bánh vê tròn lại. Y nằm dài trên bực tường thong thả ném từng viên nhỏ xuống nước, viên ruột bánh lắng dần xuống giữa một đám đầu cá bu lại, y đưa mắt theo dõi cho đến khi nó bị một cái miệng cá đớp mất. Y thích thú mà trông những miếng bánh lắng xuống rồi lần lượt chui vào miệng cá. Đến sau, y thấy đói bèn đi kiếm một cô gái ở cho một bác đồ tể, y vẫn gọi cô ta là “ bà chúa xúc xích và dăm bông.” Y thổi còi làm hiệu gọi nàng ra cửa sổ định bảo nàng mang cho ít đồ ăn để mang sang bên kia sông, bên ấy có một vườn nho đất thịt đỏ sáng rực dưới những gốc nho tươi tốt, mùa xuân hoa dạ hương lan mầu lam tỏa hương thơm ngọt của thứ trái cây có hột.

Nhưng hình như hôm nay là một ngày quyết định, một ngày mà lương tâm y sáng suốt đặc biệt. Khi Cathérine ló mặt ra cửa sổ, khuôn mặt bầu bĩnh khỏe mạnh hơi hơi thô mỉm cười với y, y đã giơ tay lên làm hiệu thì bất thần nhớ ra rằng đã đứng đây chờ đợi nhiều lần; đồng thời y thấy rõ mồn một những cử chỉ nhàm chán sắp diễn ra trong vài phút nữa: nàng sẽ hiểu y ra hiệu gì, nàng sẽ trở vào rồi chạy ra cửa sau tay cầm một tảng thịt, y đón lấy vừa vuốt ve tay nàng và ôm sát nàng vào ngực mình như nàng hằng mong đợi — rồi bất thần y cảm thấy ngu xuẩn vô cùng đã làm những cử chỉ máy móc ấy, đã đóng một vai trò, đã nhận cái xúc xích, đã cảm thấy hai vú rắn chắc ép vào mình, đã ôm lấy hai vú như để đánh đổi lấy cái xúc xích. Bất thần y nhận ra nét mặt chai lỳ chỉ để lộ một thói quen làm không cần nghĩ ngợi, cái mỉm cười thông cảm chỉ là một cử chỉ nhắc đi nhắc lại như máy, không còn gì là bí mật, không xứng đáng với mình. Tay y dừng lại không làm xong cử chỉ quen thuộc, nụ cười dừng lại trên môi. Y còn yêu nàng, còn ham muốn nàng nữa chăng? Không, y đến đây đã nhiều lần, đã nhiều lần y trông thấy nụ cười ấy, vẫn nụ cười ấy, y mỉm cười đáp lại mà trái tim không dự vào chút nào. Ngày hôm qua y có thể làm thế mà chẳng chút bận tâm, bây giờ bất thình lình ý không thể làm được nữa. Người nữ tỳ vẫn đứng đấy nhìn y trong khi y đã quay đi, biến dạng vào ngõ hẻm, định bụng không bao giờ trở lại nữa. Thôi để cho người khác vuốt ve hai vú nàng, để cho người khác ăn xúc xích! Vả chăng, trong thành phố phồn thịnh và vui vẻ này, có cái gì mà hàng ngày người ta không ngốn hết, có cái gì mà người ta không phí phạm huy hoắc! Những người trường giả bụng phệ này thật là lười biếng, họ được hậu đãi quá, hàng ngày phải giết bao nhiêu là heo là bê, phải xúc bao nhiêu là cá! Còn y? Y trở nên khó tính, thối tha như họ một cách ghê tởm! Trên đường xa, trong cánh đồng phủ tuyết, một trái mận khô, một miếng cùi bánh mì ngon hơn một bữa tiệc của phường đoàn trong thành phố này. Ôi! ngững ngày tự do lang thang chuôm hồ dưới ánh trăng, con đường mòn của thú vật trong bụi cỏ xám dầm xương buổi ban mai mà người ta phải hết sức cẩn thận lúc bước chân vào. Ở đây, chốn thị thành của người định cư, cái gì cũng dễ dàng, không cần bao nhiêu hơi sức, cả ái tình cũng vậy. Y đã chán ngấy rồi, bất thần y nhổ nước, miếng vào những thứ đó. Đời sống ở đây đã mất ý nghĩa của nó, đời sống chỉ là cái xương không có tủy. Cuộc đời ấy còn đẹp đẽ, còn có lý do tồn tại khi mà ông thầy còn là tấm gương cho y theo, Lisbeth còn là một bà công nương; y còn chịu đựng được nếu còn làm bức tượng Thánh Jean. Bây giờ đã hết rồi, hương vị đã tiêu tan, đóa hoa đã tàn. Cảm tưởng việc đời không có gì là ổn định thường vò xé y và có thể làm cho y say sưa mê mải, bây giờ cảm tưởng ấy như đợt sóng mạnh bạo cuốn y theo. Tất cả đều tàn tạ, thú vui chóng tiêu tan, chỉ còn lại xương tàn và cát bụi. Nhưng có một cái còn lại vĩnh viễn; người Mẹ muôn thuở già như trái đất và trẻ trung vĩnh viễn với nụ cười tình, buồn rầu và độc địa. Một lần nữa y thoáng thấy Mẹ trong chốc lát, to khổng lồ, sao óng ánh trên mái tóc, bà ngồi mơ màng trên bờ cuộc đời, thẫn thờ đưa tay hái; bà hái hết bông hoa này đến bông hoa khác và thing thả ném vào không gian vô cùng.

Trong những ngày ấy Goldmund thấy một quãng đời tàn lụi của mình mờ dần, y đi lang thang khắp thành phố đã quen thuộc với mình với sự say sưa trầm buồn của phút ly biệt, ông thầy đã khó nhọc để lo liệu tương lai và định nơi ăn chốn ở cho người khách tha hương lòng đầy khắc khoải. Ông yêu cầu phường đoàn cấp chứng chỉ cho y và dự định giữ y ở lại làm ăn lâu dài, không phải với tư cách người thợ nhưng với tư cách người hùn vốn; ông sẽ bàn luận với y và cùng y thực hiện những món hàng đặt quan trọng, ông sẽ chia tiền lời với y. Ông có con gái lớn, kể ra thì làm thế cũng liều lĩnh thật, vì người thanh niên tự nhiên sẽ trở thành con rể ông. Nhưng một pho tượng như pho tượng Thánh Jean thì người thợ bạn khá nhất của ông cũng không bao giờ làm nổi, còn ông thì già rồi, ý kiến của ông và khả năng sáng tác của ông đã nghèo nàn, ông lại không muốn để cho xưởng mỹ nghệ danh tiếng của ông mai một, chỉ còn là cửa hàng nặn tượng thường. Goldmund sẽ làm cho ông gặp nhiều khó khăn, nhưng ông phải nhận cuộc thử thách. Ông thầy băn khoăn suy tính. Ông sẽ cất thêm cái xưởng phía sau cho Goldmund và nhường cho y căn phòng dưới mái nhà. Ông tặng y quần áo mới để dự lệ nhập phường đoạn. Ông cũng cẩn thận hỏi ý kiến Lisbeth, cô này vẫn đợi chờ một cái gì gần như thế từ bữa dùng cơm với Goldmund; Lisbeth không tỏ ý phản đối. Nếu người thanh niên dùng chứng chỉ ấy để lập nghiệp nơi khác cũng không sao, không có gì khó khăn cả. Nếu Niklaus, nếu nghề nghiệp không sao làm cho gã giang hồ này trở lại thuần tính hẳn thì Lisbeth sẽ cố gắng làm nốt.

Như thế mọi việc đã sắp xếp chu đáo, miếng mồi nhử chim đã gài vào bẫy. Bấy nay y vắng mặt, một ngày kia người ta mời y đến, mời ăn một bữa cơm nữa. Lại một lần nữa y trở lại, ăn mặc chỉnh tề, ngồi trong căn phòng đẹp hơi có vẻ long trọng, cụng ly với thầy và con gái thầy rồi khi con gái thầy trở ra, thầy đem công việc dự tính ra bàn bạc với y.

“Cậu hiểu rồi chứ,” ông nói sau khi đã vào đề một cách lạ lùng như thế, “tôi chẳng cần nói cậu cũng biết, chưa bao giờ có một người trẻ tuổi không qua thời kỳ học nghề thường lệ có thể trở thành bậc sư và tìm được cái tổ êm ấm như cậu, Thế là cậu làm nên rồi đó!”

Golmund ngạc nhiên và bối rối, y nhìn thầy và đẩy xa ly rượu để trước mặt. Thật ra y đợi Niklaus quở trách vài câu vì bỏ phí mấy ngày và đề nghị giữ y lại làm thợ bạn. Thế mà chuyện lại xoay ra như thế. Y thấy buồn bực và ngượng nghịu phải ngối đối diện với người này. Y chưa tìm ngay được câu trả lời.

Ông thầy đã khó chịu vì lời đề nghị ở trên sự mong ước như thế lại không được y vui vẻ và khiêm tốn mà chấp nhận, mặt ông hơi sa sầm và thất vọng, ông đứng dậy mà rằng;

“Hẳn là tôi nói thế đột ngột quá, cậu muốn suy nghĩ chín trước đã. Có lẽ tôi làm mích lòng cậu thì phải; tôi vẫn tưởng tôi làm cậu vui lòng lắm, nhưng không sao, cứ để thì giờ nghĩ cho chín.”

“Thưa thầy,” Goldmund phải khó nhọc mới tìm được câu nói, “Xin thầy đừng giận. Tôi hết lòng cảm ơn lòng tốt của thầy và cũng cảm ơn thầy đã kiên nhẫn dạy bảo tôi. Không bao giờ tôi dám quên ơn. Nhưng tôi không cần phải suy nghĩ lâu, tôi đã quyết định từ lâu.”

“Quyết định gì?”

“Tôi đã quyết định trước khi nhận lời đến dùng cơm với thầy, trước khi tôi biết thầy dành cho tôi cái danh dự được cộng tác với thầy. Tôi không còn ỏ đây lâu nữa, tôi sẽ trở lại đời sống giang hồ.”

Niklaus tái mặt đi, nhìn y bằng hai mắt sa sầm.

“Thưa thầy, xin thầy tin lời tôi nói. Thật quả tôi không muốn xúc phạm tự ái của thầy! Nhưng tôi đã quyết định rồi, tôi phải ra đi, phải sống đời tự do. Xin thành thật cảm ơn thầy một lần nữa, tuy ra đi nhưng vẫn hòa thuận.”

Y đưa tay ra, mắt ngưng lệ. Niklaus không bắt tay y; ông tức giận đến xám mặt lại, đi đi lại lại trong phòng mỗi lúc một mau hơn, cơn giận làm ông dằn mạnh bước xuống sàn. Chưa bao giờ y trông thấy ông như vậy.

Bỗng ông thầy dừng lại, cố sức tự chủ không buồn nhìn Goldmund và nói lúng búng trong miệng: “Ừ thì cậu đi, nhưng mời cậu đi ngay đừng để tôi thấy mặt nữa; đừng để tôi phải làm cái gì đến nỗi sau phải hối hận. Thôi cậu đi đi!”

Một lần nữa y đưa tay ra. Ông thầy làm như muốn nhổ vào tay y. Thế là y cũng tái người đi, y quay lại, bước ra khỏi phòng không một tiếng chân đi. Ra đến ngoài y đội mũ vào, bước xuống cầu thang, đặt tay lên những cột trạm trổ ở tay vịn, bước vào căn xưởng xép ở ngoài sân dừng lại trước tượng Thánh Jean một chút rồi từ biệt nhà thầy, lòng y buồn rầu thấm thía hơn hồi y từ biệt lâu đài nhà quý tộc và nàng Lydia.

Làm nhanh như vậy ít ra cũng tránh được những lời nói vô ích! Sự an ủi duy nhất cho y là khi bước qua thềm ra ngoài phố y khám phá ra cảnh vật quen thuộc đổi ra vẻ lạ lùng khi trái tim ta đã từ giã cảnh vật ấy. Y quay lại nhìn cửa ra vào; từ nay cửa ấy là cửa nhà lạ, đối với y là cửa đóng.

Về đến nhà y sửa soạn ra đi., Hẳn là hành trang chẳng có gì mà phải sửa soạn, chỉ đến chào mọi người là xong. Trên tường treo một bức họa chính tay y vẽ ra, một hình thánh mẫu, đó đây một vài vật thường dùng, một cái mũ đội ngày chủ nhật, một đôi giầy nhẩy đầm, một cuộn những bức họa, một cây đàn nhỏ và ít nhiều tượng thạch của y làm ra, một vài món quà tặng của người yêu, một bó hoa giấy, một cái ly đỏ như hồng bảo thạch, một cái bánh ngọt hình trái tim lâu ngày đã khô cứng, còn nhiều đồ lặt vặt như thế, mỗi vật đều có kỷ niệm và ý nghĩa thân mật với y, nhưng bây giờ chỉ còn là những đồ cũ vướng víu vì y không thể mang theo được gì cả. Tuy nhiên y cũng đem đánh đổi với chủ nhà, đánh đổi cái ly đỏ lấy con dao đi săn thật chắc, y mang ra ngoài sân ngồi mài thật sắc. Y bẻ vụn miếng bánh ngọt ném cho gà trong sân nhà bên cạnh, tặng bà chủ nhà chiếc ảnh thánh mẫu, bà tặng lại y một vật rất có ích, đó là một túi da để đi đường và nhiều đồ ăn thức dùng. Y nhét vào túi da mấy cái sơ mi, mấy bức họa cuộn vào cái cán chổi và nhiều đồ ăn nữa, còn thì đành bỏ lại.

Trong tỉnh có hơn một người đàn bà cần phải đến từ biệt mới phải đường ăn ở; ngay tối hôm trước y cũng còn ngủ ở nhà một người trong số những người ấy mà chưa nói cho biết dự tính của mình. Chính vì thế mà còn cái gì níu gót mình khi mình muốn ra đi. Không nên lấy thế làm quan trọng. Ngoài những người cho y ở trọ và ngủ nhờ y không đến từ biệt ai cả. Tối hôm ấy y đến thăm mấy người thân để hôm sau ra đi sớm.

Tuy nhiên, sáng hôm sau, lúc y lẳng lặng đi ra thì đã có người thức dậy và mời y ra bếp ăn một bát cháo sữa, Đó là con gái bà chủ, một con bé 15 tuổi, dịu dàng và ốm yếu, hai mắt đẹp nhưng phải cái có tật ở háng nên đi khập khễnh. Tên cô bé là Marie. Nom mặt ra dáng mệt mỏi, người xanh xao, nhưng mớ tóc chải rất kỹ lưỡng, nó vào bếp lấy sữa nóng và bánh cho y ăn, hình như nó rất buồn rầu vì y ra đi. Y cám ơn, lúc đi, còn đặt lên hai môi mỏng dính của nó một cái hôn thương hại. Nó nhắm mắt lại nhận cái hôn một cách thành tín.